Hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty Kiểm toán Việt Nam thực hiện (2) - Pdf 17

Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Kiểm toán là lĩnh vực đang dần được khẳng định và chiếm vị trí quan
trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù mới ra đời và phát triển trong hơn
15 năm nhưng số lượng các công ty kiểm toán đã ngày càng gia tăng, chứng
tỏ nhu cầu đối với lĩnh vực này ngày càng cao. Trong đó, sự ra đời của Công
ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) được đánh dấu là một mốc lịch sử cho ngành
kiểm toán tại Việt Nam.
Kiểm toán Báo cáo tài chính luôn là dịch vụ truyền thống và chiếm tỷ
trọng lớn trong doanh thu của các công ty kiểm toán hiện nay. Trước xu thế
hội nhập như ngày nay các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam luôn phải
đặt ra yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ của mình để có thể
đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và cạnh tranh với các công ty kiểm
toán nước ngoài.
Trong đó đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán là một bước vô cùng
quan trọng để giúp cho các công ty kiểm toán xây dựng một kế hoạch kiểm
toán hợp lý góp phần nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả của cuộc kiểm
toán. Tuy nhiên, thực tế hiện nay việc đánh giá trọng yếu ở các công ty vẫn
còn nhiều điểm chưa hoàn thiện do đây là một công việc khó và đòi hỏi trình
độ phán xét của kiểm toán viên. Được đánh giá là một trong những công ty có
quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán khá hoàn chỉnh và tiêu
chuẩn, trong thời gian thực tập tại VACO em đã có cơ hội tiếp xúc và so sánh
giữa lý thuyết và thực tế và nhận ra được rất nhiều kiến thức cũng như kinh
nghiệm quý báu. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện quy trình
đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính
do Công ty Kiểm toán Việt Nam thực hiện” để nghiên cứu, phát triển cho
Luận văn tốt nghiệp của mình.
Tống Thị Huyền Trang Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp

ĐH Kinh tế quốc dân
Nội dung của đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm ba chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong
kiểm toán báo cáo tài chính
Chương 2: Thực tiễn đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong
kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty Kểm toán Việt Nam
Chương 3: Nhận xét, kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện quy
trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài
chính tại Công ty Kiểm toán Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Nguyễn Thị Phương Hoa cùng
các anh chị tại Công ty Kiểm toán Việt Nam đã có những hướng dẫn chỉ bảo
tận tình cho em để em có thể hoàn thành tốt Luận văn của mình.
Sinh viên
Tống Thị Huyền Trang
Tống Thị Huyền Trang Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN
TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. KHÁI NIỆM TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN
1.1.1. Trọng yếu
Theo từ điển Tiếng Việt, “Trọng yếu là một tính từ để chỉ sự quan trọng
thiết yếu. Một sự vật hay một địa danh đi kèm với trọng yếu đều mang ý
nghĩa quan trọng”.
Trọng yếu là một thuật ngữ quan trọng trong kế toán, kiểm toán.
Nguyên tắc trọng yếu cần chú trọng đến những vấn đề mang tính cốt yếu,
quyết định bản chất và nội dung của sự vật, sự kiện kinh tế phát sinh. Chính
vì vậy khái niệm trọng yếu được đề cập ở rất nhiều tài liệu trong nước cũng

hay sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót
đó. Vì thế, tính trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định tính cơ bản mà
một thông tin hữu ích cần phải có”.
Theo Các văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) - Trọng
yếu và rủi ro trong kiểm toán: “Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ, bản chất
của sai phạm (kể cả bỏ sót) thông tin tài chính hoặc đơn lẻ hoặc từng nhóm,
mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ
không chính xác hoặc rút ra kết luận sai lầm”.
Từ rất nhiều các định nghĩa ở trên ta thấy rằng dù ở trên thế giới hay
Việt Nam “trọng yếu” đều được quan niệm như một thuật ngữ dùng để thể
hiện tầm quan trọng của một thông tin hay một số liệu kế toán trong Báo cáo
tài chính mà nếu thiếu nó hoặc thiếu chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng
đến nhận thức của người sử dụng Báo cáo tài chính, từ đó dẫn đến sai lầm
Tống Thị Huyền Trang Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
trong việc đánh giá thông tin và ra các quyết định quản lý. Sự tương đồng
giữa kiểm toán và quản lý này đã dẫn đến tính tất yếu phải lựa chọn nội dung
kiểm toán tối ưu, vừa đánh giá đúng bản chất của đối tượng kiểm toán, vừa
đáp ứng kịp thời nhu cầu của người quan tâm với giá phí kiểm toán thấp trên
cơ sở thực hiện tốt chức năng kiểm toán.
Bởi vậy, để giải quyết yêu cầu trên trong khái niệm “trọng yếu” đã bao
hàm hai mặt liên quan tới nhận thức đối tượng: Quy mô hay tầm cỡ (mặt
lượng) và vị trí hay tính hệ trọng (mặt chất) của phần nội dung cơ bản.
 Về quy mô
Nhiều kế toán viên và kiểm toán viên mong muốn có được một con số
tuyệt đối chỉ dẫn cho họ về trọng yếu. Nhưng điều này là rất khó vì trọng yếu
là một khái niệm tương đối hơn là tuyệt đối và trong thực tế rất khó để ấn
định một con số cụ thể về tầm cỡ cho những điểm cốt yếu của nội dung kiểm
toán, đặc biệt là khi có các yếu tố tiềm ẩn. Một con số có thể là trọng yếu với

Thứ nhất, quy mô trọng yếu phải được xác định. Đó là việc xác định
trọng yếu dựa trên các đối tượng nào (Báo cáo tài chính, toàn bộ tài liệu kế
toán hay thực trạng tài chính nói chung) và cũng tùy thuộc vào cả khách thể
kiểm toán thuộc loại hình doanh nghiệp nào (sản xuất, công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ, ngân hàng, bảo hiểm, xây lắp hay vận tải…). Vì mỗi ngành,
mỗi lĩnh vực lại có những đặc điểm riêng nên việc tìm hiểu khách hàng là một
công việc hết sức quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán.
Thứ hai, quy mô của các khoản mục, nghiệp vụ không chỉ xét về quy
mô bằng con số tuyệt đối mà còn phải trong tương quan với các đối tượng
kiểm toán khác. Về định lượng đó là những tỷ lệ của các khoản mục, nghiệp
vụ so với một cơ sở tính toán như tổng tài sản, tổng doanh thu, lợi nhuận
Tống Thị Huyền Trang Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
trước thuế…Và cũng tùy vào bản chất mà khi tính toán ta nên cộng dồn hay
tách riêng các khoản mục, nghiệp vụ, sai sót có liên quan.
Thứ ba, quy mô trọng yếu còn phụ thuộc vào đối tượng và mục tiêu
của cuộc kiểm toán là kiểm toán tài chính, kiểm toán nghiệp vụ với các chức
năng xác minh hay xác minh, tư vấn….
 Về tính chất
Trong kiểm toán Báo cáo tài chính, kiểm toán viên đánh giá tính trọng
yếu cần tuỳ thuộc vào loại hình, quy mô doanh nghiệp. Đồng thời cần có sự
am hiểu tài chính kế toán, các quy định pháp luật với doanh nghiệp và dựa
vào kinh nghiệm nghề nghiệp của kiểm toán viên.
Các khoản mục nghiệp vụ được coi là trọng yếu thường bao gồm: các
khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian lận và các
khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng.
Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc có chứa khả năng gian
lận: Gian lận và sai sót đều dùng để chỉ các sai phạm nói chung, tuy nhiên
giữa chúng lại có sự khác nhau cơ bản. Với cùng một quy mô tiền tệ, gian lận

nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ thường trọng yếu. Đối với các nghiệp vụ mới
phát sinh thì kiểm toán viên cần tự đặt ra câu hỏi tại sao những nghiệp vụ đó
từ trước tới giờ mới phát sinh, liệu kế toán đã xử lý chưa và từ đó tìm bằng
chứng để chứng minh;
- Các khoản mục, chứng từ có sửa chữa vì có thể thông tin tài chính
đã bị làm cho sai lệch dẫn đến ảnh hưởng tới Báo cáo tài chính;
- Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý nói chung: có
ảnh hưởng đến sự trung thực và độ tin cậy của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp
và các cá nhân có liên quan.
Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót (không cố ý) hệ trọng:
Tống Thị Huyền Trang Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
- Các nghiệp vụ này thường do trình độ, năng lực yếu kém và tính
thiếu cẩn trọng của kế toán viên;
- Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót ở quy mô lớn hoặc có chênh
lệch lớn với các kỳ trước hoặc giữa các nguồn thông tin có liên quan;
- Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý nói chung có
thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến người sử dụng thông tin vì
nó khiến ta nghĩ đến tính trung thực và độ tin cậy của Ban quản trị hoặc của
những cá nhân có liên quan khác;
- Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót lặp lại nhiều lần: việc các sai
sót lặp lại nhiều lần cho dù quy mô của sai sót là không lớn thì vẫn gây một
sự nghi ngờ về năng lực của kế toán viên và vấn đề xem xét quản lý sổ sách
không được chặt chẽ. Hơn nữa, tổng hộ các sai sót nhỏ có thể là một sai sót
lớn ảnh hưởng đến Báo cáo tài chính;
- Các khoản mục, nghiệp vụ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau;
- Các sai sót có ảnh hưởng tới lợi nhuận;
- Các khoản mục, nghiệp vụ là đầu mối hoặc gây hậu quả liên quan
đến nhiều khoản mục, nghiệp vụ khác.

tốt bất ngờ xảy đến”. Nói chung rủi ro là những điều không mong muốn tuy
nhiên trong các lĩnh vực khác nhau thì đặc trưng của rủi ro lại khác nhau. Sau
đây là những khái niệm khác nhau về rủi ro trong kiểm toán mà đã được đề
cập ở rất nhiều tài liệu.
Rủi ro kiểm toán: “là khả năng mà kiểm toán viên và công ty kiểm toán
đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi Báo cáo tài chính đã được kiểm
toán vẫn còn có những sai sót trọng yếu”. (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
400 - Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ). Do đối tượng kiểm toán là những
Tống Thị Huyền Trang Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
thông tin được kiểm toán qua nhiều giai đoạn bằng những bộ máy quản lý và
các phương thức, thủ tục kiểm soát khác nhau nên rủi ro kiểm toán cũng được
xác định tương ứng đối với từng loại đối tượng kiểm toán. Rủi ro bao gồm ba
bộ phận: Rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.
Theo Các văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) - Trọng
yếu và rủi ro trong kiểm toán: “Rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà kiểm toán
viên có thể mắc phải khi đưa ra những nhận xét không xác đáng về các thông
tin tài chính và đó là các sai sót nghiêm trọng. Ví dụ, kiểm toán viên có thể
đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ về một Báo cáo tài chính mà không biết rằng
báo cáo này có những sai sót nghiêm trọng”.
1.1.2.2. Các loại rủi ro kiểm toán
Rủi ro tiềm tàng: “là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp
vụ, từng khoản mục trong Báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi
tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không hệ thống kiểm soát nội bộ”.
(Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400: Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ).
Chẳng hạn như doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có sự thay đổi nhanh
về kỹ thuật rất có thể dẫn đến khả năng có sai sót cao ở khoản mục hàng tồn
kho trên Báo cáo tài chính do không lập dự phòng giảm giá đầy đủ đối với
những hàng hóa bị lỗi thời; hay khoản mục tiền trên Báo cáo tài chính thường

mục, nghiệp vụ trong Báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà
trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát
hiện ra được”.(Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400: Đánh giá rủi ro và
kiểm soát nội bộ). Rủi ro phát hiện có nguyên nhân bắt nguồn trực tiếp từ nội
dung, thời gian và phạm vi của các thử nghiệm cơ bản do kiểm toán viên thực
hiện. Ví dụ như: rủi ro phát hiện sẽ giảm xuống nếu kiểm toán viên mở rộng
Tống Thị Huyền Trang Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
phạm vi kiểm tra, tăng cường kích cỡ của các thử nghiệm hay tăng các thủ tục
kiểm tra chi tiết với các số dư hoặc nghiệp vụ.
Khác với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, kiểm toán viên phải có
trách nhiệm phát hiện các thủ tục thu thập các bằng chứng kiểm toán nhằm
quản lý và kiểm soát đối với rủi ro phát hiện.
1.1.3. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán
Trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Đó
là mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng
thấp và ngược lại nếu mức trọng yếu có thể chấp nhận được giảm xuống thì
rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên vì khi đó giá trị sai sót có thể bỏ qua giảm xuống.
Mối quan hệ này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định nội dung, lịch
trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán sẽ áp dụng.
Không những thế cả trọng yếu và rủi ro kiểm toán đều ảnh hưởng đến
tính đầy đủ của bằng chứng kiểm toán cần thu thập. Đó là mối quan hệ tỷ lệ
thuận: nếu mức độ trọng yếu và mức độ rủi ro kiểm toán càng cao thì số
lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập càng nhiều.
Số lượng bằng chứng kiểm toán sẽ phải nhiều lên khi kiểm toán các
khoản mục có tính trọng yếu cao. Chẳng hạn, khi kiểm toán một đơn vị sản
xuất thì số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập để đạt được mục tiêu
kiểm toán đối với hàng tồn kho bao giờ cũng phải lớn hơn so với số lượng
bằng chứng cần thu thập cho khoản trả trước. Và cũng tương tự như với tính

với một cuộc kiểm toán. Muốn đánh giá được tính trọng yếu ta thường phải
dựa vào trước hết chính là nội dung hàm chứa bên trong khái niệm trọng yếu,
đó là quy mô và bản chất của đối tượng. Đây cũng là hai cơ sở quan trọng
nhất khi đánh giá trọng yếu.
Khi đánh giá tính trọng yếu ngoài việc phải xem xét quy mô tuyệt đối
của sai phạm mà còn phải chú ý đến quy mô tương đối của nó, tức là mối
quan hệ của nó với các đối tượng khác. Trong toàn bộ đối tượng kiểm toán
bao giờ cũng có những nội dung, nghiệp vụ, khoản mục quan trọng hơn, đòi
hỏi tập trung nhiều hơn. Đây chính là mặt bản chất của vấn đề cần xem xét.
Ngoài ra, khi đánh giá tính trọng yếu ta cũng cần chú ý đến những tiêu
chí khác nữa như mục tiêu kiểm toán cụ thể, tính không chắc chắn của vấn đề
xem xét, tính chất thường xuyên hay không thường xuyên của nghiệp vụ,…
Tống Thị Huyền Trang Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
1.2.1.2. Đối với rủi ro kiểm toán
Đối với rủi ro kiểm toán: cơ sở để đánh giá rủi ro chính là các yếu tố
bao hàm trong mỗi loại rủi ro.
Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tồn tại sai sót trọng yếu không kể đến hoạt
động kiểm soát nội bộ và kiểm toán, vì vậy, cơ sở đánh giá là những tồn tại
tiềm tàng thuộc về bản chất của đối tượng như: đặc điểm kinh doanh của
khách hàng, công việc ngành nghề kinh doanh, bản chất hệ thống kế toán…
Rủi ro kiểm soát là khả năng tồn tại sai sót trọng yếu khi đã kể đến hiệu
lực của hệ thống kiểm soát nội bộ, vì vậy, cơ sở để tiến hành đánh giá chính là
bộ máy kế toán, hệ thống Kiểm soát nội bộ. Đánh giá rủi ro kiểm soát chính là
quá trình đánh giá cách thiết kế, tính liên tục và hiệu quả hoạt động của hệ
thống Kiểm soát nội bộ trong việc ngăn ngừa và phát hiện các sai sót nghiêm
trọng.
Rủi ro phát hiện là rủi ro mà các kiểm toán viên không phát hiện ra các
sai sót nghiêm trọng trong quá trình kiểm toán, vì vậy, cơ sở đánh giá nó

không. Tuy nhiên, khái niệm trọng yếu bao gồm hai yếu tố của sai phạm về
quy mô và bản chất nên mặc dù thông thường, kiểm toán viên lập kế hoạch
kiểm toán để tìm ra các sai sót nghiêm trọng về mặt định lượng, nhưng trên
thực tế, kiểm toán viên phải đánh giá, xét đoán cả về định lượng và định tính
của bất cứ sai phạm nào phát hiện ra. Trong khi đề cập đến những sai sót có
thể có, kiểm toán viên cần xét vấn đề trọng yếu ở mức độ tổng thể cũng như
trong mối quan hệ với các số dư tài khoản cá biệt khác và sự thể hiện trên Báo
cáo tài chính. Tính trọng yếu cần phải được đặc biệt xem xét ở hai giai đoạn
trong cuộc kiểm toán: lập kế hoạch kiểm toán khi kiểm toán viên quyết định
cần tiến hành những thủ tục kiểm toán nào, xác định thời gian và phạm vi của
Tống Thị Huyền Trang Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
thủ tục kiểm toán đó, sau đó là khâu rà soát lại, khi kiểm toán viên đánh giá
ảnh hưởng của tất cả các sai sót.
Lập kế hoạch kiểm toán bao gồm việc xác định mục tiêu, phạm vi, thời
hạn và tính chất của các thủ tục kiểm toán,…, trong đó có việc thiết lập một
mức trọng yếu có thể chấp nhận được, cho phép kiểm toán viên phát hiện ra
các sai sót trọng yếu. ở giai đoạn thực hiện kiểm toán, việc đánh giá trọng yếu
có thể khác so với giai đoạn chuẩn bị, có thể do sự thay đổi hoàn cảnh và
cũng có thể do kiểm toán viên thu thập thêm những hiểu biết về khách hàng
của mình. Cụ thể, sau khi thiết lập được mức trọng yếu có thể chấp nhận
được, kiểm toán viên tiến hành các thủ tục kiểm toán theo kế hoạch để phát
hiện các sai phạm, sau đó áp dụng mức trọng yếu đã xây dựng để đánh giá
ảnh hưởng của các sai phạm đó, từ đó đề xuất các biện pháp xử lý. Để đánh
giá mức độ trọng yếu, quy mô của các khoản mục, nghiệp vụ không chỉ xét về
con số tuyệt đối mà phải xét trong tương quan với toàn bộ đối tượng kiểm
toán. Về định lượng, đó là những tỷ lệ của các khoản mục, nghiệp vụ so với
một cơ sở để tính toán như: tổng tài sản, lợi nhuận trước thuế,…Tuỳ quan hệ
cụ thể với đối tượng cụ thể của kiểm toán, có thể tính riêng biệt hay cộng dồn

 Quy mô lớn, đủ quyết định bản chất đối tượng kiểm toán: trọng
yếu
Các khoản mục, nghiệp vụ có quy mô lớn được xác định trong tương
quan với đối tượng kiểm toán, song trong thực tế cũng có thể làm rõ hơn
trong tương quan với các khoản mục, nghiệp vụ quy mô nhỏ và cả với việc
thực hiện nguyên tắc trọng yếu trong kế toán.
Nếu đánh giá trọng yếu trên phương diện tính hệ trọng của các nghiệp
vụ hay khoản mục thì các khoản mục được coi là trọng yếu thường bao gồm:
• Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả năng
gian lận như: các nghiệp vụ đấu thầu và giao thầu, nghiệp vụ thanh lý tài sản,
Tống Thị Huyền Trang Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách, nghiệp vụ sửa chữa sổ sách, nghiệp vụ xảy
ra vào ngày cuối kỳ kế toán,…
• Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng: các khoản mục,
nghiệp vụ có quy mô sai sót lớn hoặc có chênh lệch nhiều với các kỳ trước,
các sai sót lặp đi lặp lại nhiều lần, các khoản mục, nghiệp vụ có ảnh hưởng
nghiêm trọng đến kỳ sau,…
Theo phương pháp vận dụng đánh giá trọng yếu được đề cập trong
“Auditing” của tác giả W.Morley Lemon, Alvin A.Arens, Jame K.Loebbecke
một phương pháp được công nhận phổ biến thì vận dụng đánh giá trọng yếu
trong một cuộc kiểm toán bao gồm 5 bước cơ bản: (1) Ước lượng sơ bộ ban
đầu, (2) Phân bổ ước lượng ban đầu cho các bộ phận, (3) Ước tính tổng số sai
sót trong từng bộ phận, (4) Ước tính sai sót kết hợp, (5) So sánh sai số kết hợp
với ước lượng ban đầu. Trong đó, hai bước đầu tiên được thực hiện trong giai
đoạn lập kế hoạch kiểm toán, ba bước sau được thực hiện trong giai đoạn thực
hiện kiểm toán.
Các bước trong quá trình vận dụng tính trọng yếu được thể hiện ở sơ đồ
sau:

thường các cuộc kiểm toán diễn ra trước ngày kết thúc niên độ kế toán nên
các chỉ tiêu chủ yếu trên Báo cáo tài chính như doanh thu, lợi nhuận… chưa
xác định được. Vì thế các kiểm toán viên thường phải ước lượng các chỉ tiêu
này một cách hợp lý để làm cơ sở xác lập mức trọng yếu. Người ta thường sử
dụng bảng tính sau để tính ước lượng trọng yếu ban đầu:
Bảng 1.2: Bảng tính mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Cơ sở tính
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Tối thiểu Tối đa
Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Số tiền
Thu nhập từ hoạt động trước thuế
5 10
Tài sản lưu động 5 10
Tổng cộng tài sản 3 6
Nợ ngắn hạn 5 10
Nguồn: “Kiểm toán” - Alvin Arren, sách dịch, tr179.
Đối với từng khoản mục, mức trọng yếu chính là sai lệch tối đa được
phép của khoản mục. Số tiền này được tính dựa trên mức trọng yếu tổng thể
của Báo cáo tài chính. Việc phân bổ cụ thể cho từng khoản mục còn tùy thuộc
vào chính sách của từng công ty. Tuy nhiên dù áp dụng phương pháp nào thì
Tống Thị Huyền Trang Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
kiểm toán viên vẫn thường dựa trên kinh nghiệm của mình về đơn vị cũng
như đánh giá khả năng sai sót và chi phí thực hiện kiểm tra đối với khoản mục
để xác lập mức trọng yếu cho khoản mục đó.
Nhìn chung, dù ở mức độ nào thì việc xác lập mức trọng yếu cũng là
một công việc mang tính xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên và mức
ước lượng này có thể thay đổi bất cứ lúc nào trong suốt cuộc kiểm toán nếu
kiểm toán viên nhận thấy sự thay đổi ở một trong các yếu tố được dùng để

- Các sai phạm có quy mô nhỏ nhưng lặp đi lặp lại hoặc gây ra tác
động dây chuyền ảnh hưởng nghiêm trọng đến thông tin trên Báo cáo tài
chính thì luôn được xem là sai phạm trọng yếu vì đây là sai phạm mang tính
hệ thống.
- Các sai phạm làm ảnh hưởng đến thu nhập luôn là sai phạm trọng
yếu bất kể quy mô của sai phạm này.
 Bước 2: Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các
bộ phận.
Sau khi kiểm toán viên đã có được mức ước lượng ban đầu về tính
trọng yếu cho toàn bộ Báo cáo tài chính, kiểm toán viên cần phân bổ mức ước
lượng này cho từng khoản mục trên Báo cáo tài chính. Đó cũng chính là sai số
có thể chấp nhận được đối với từng khoản mục. Việc phân bổ này là hoàn
toàn cần thiết do bằng chứng thường được thu thập theo các bộ phận hơn là
theo toàn bộ các Báo cáo tài chính nói chung. Nó sẽ cho ta những bằng chứng
thích hợp ở mức chi phí thấp nhất mà vẫn có thể đảm bảo tổng hợp sai sót
trên Báo cáo tài chính không vượt quá mức ước lượng ban đầu về trọng yếu.
Thông thường kiểm toán viên tiến hành phân bổ mức ước lượng cho các tài
khoản trên Bảng cân đối kế toán thay vì cho các khoản mục trên Báo cáo Kết
quả kinh doanh. Nguyên nhân là do nguyên tắc ghi sổ kép khiến những sai sót
trên Báo cáo Kết quả kinh doanh đều ảnh hưởng tương tự như trên Bảng cân
Tống Thị Huyền Trang Kiểm toán 45A
Khóa luận tốt nghiệp
ĐH Kinh tế quốc dân
đối kế toán và do hầu hết các thủ tục kiểm toán tập trung vào các tài khoản
trên Bảng cân đối kế toán.
Việc phân bổ ước lượng này được tiến hành cho cả hai hướng sai sót:
sai sót thừa (số tiền trên báo cáo vượt quá số tiền thực tế) và sai sót thiếu (số
tiền trên báo cáo nhỏ hơn số tiền thực tế). Trên thực tế việc dự đoán những
khoản mục nào có chứa sai sót là điều rất khó nên nó thường do những kiểm
toán viên có nhiều kinh nghiệm thực hiện. Qua kinh nghiệm chuyên môn của

Như đã trình bày ở phần trên, rủi ro kiểm toán là rủi ro mà kiểm toán
viên kết luận Báo cáo tài chính được trình bày trung thực và hợp lý và do đó
công bố một ý kiến chấp nhận toàn phần, trong khi, thực tế thì chúng vẫn còn
chứa sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán bao gồm ba loại rủi ro: rủi ro tiềm
tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Mối quan hệ giữa ba loại rủi ro trên
được thể hiện qua mô hình rủi ro kiểm toán sau:
AR = IR x CR x DR (1)

Hoặc:

Trong đó: AR (Audit Risk): Rủi ro kiểm toán
IR (Inherent Risk): Rủi ro tiềm tàng
CR (Control Risk): Rủi ro kiểm soát
DR (Detected Risk): Rủi ro phát hiện
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 (VSA 400): mối quan hệ
giữa các loại rủi ro được khái quát theo mô hình ma trận sau:
Tống Thị Huyền Trang Kiểm toán 45A
DR =
AR
(2)
IR x CR

Trích đoạn QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY Đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán Phạm Hoài Nam 2 Nguyễn Quang Trung Hình thức sở hữu công ty Ban Giám đốc cam kết báo cáo tài chính đã trình bày trung
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status