Vận dụng thủ tục kiểm toán để phát hiện gian lận trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Deloitte Việt Nam thực hiện - Pdf 88

Khoá luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
i
Khoá luận tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCTC Báo cáo tài chính
BGĐ Ban Giám đốc
BTC Bộ Tài Chính
DN Doanh nghiệp
GĐ Giám đốc
HĐQT HĐQT
HĐTV Hội đồng thành viên
HTKSNB Hệ thống kiểm soát nội
bộ
KTV Kiểm toán viên
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
Tp. HCM Thành phố Hồ Chí Minh
VP Văn phòng
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
ii
Khoá luận tốt nghiệp
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
iii

Khoá luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của Đề tài
Kiểm toán là lĩnh vực đang dần được khẳng định và chiếm vị trí quan
trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù mới ra đời và phát triển trong hơn

kiểm toán báo cáo tài chính và thực tế thực hiện thủ tục kiểm toán để phát hiện
gian lận trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty Deloitte Việt Nam, Luận
văn muốn làm rõ lý luận về thủ tục kiểm toán để phát hiện gian lận trong kiểm
toán báo cáo tài chính và xem xét mối quan hệ giữa phương pháp kiểm toán
với phương pháp điều tra hình sự để vận dụng hợp lý được các phương pháp
điều tra hình sự vào hoạt động kiểm toán để phát hiện gian lận. Hơn nữa, Luận
văn cũng muốn tìm hiểu thủ tục kiểm toán để phát hiện gian lận trong kiểm
toán báo cáo tài chính tại Công ty Deloitte Việt Nam. Từ đó, Em đã có cơ sở để
so sánh giữa thực tế và lý thuyết và đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm
hoàn thiện thủ tục kiểm toán để phát hiện gian lận trong kiểm toán báo cáo tài
chính tại Công ty Deloitte Việt Nam.
3.Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy
vật biện chứng và sử dụng các phương pháp kỹ thuật như phương pháp toán
học, phương pháp tư duy lôgic, phương pháp diễn giải, quy nạp, phương pháp
so sánh và phân tích để tổng hợp về lý luận và thực tiễn đánh giá trọng yếu và
rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính. Trong trình bày Đề tài
cũng sử dụng phương pháp sơ đồ, bảng biểu để làm rõ và bổ sung thêm cho lý
luận cũng như thực tiễn đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm
toán báo cáo tài chính.
4.Hướng đóng góp của Đề tài
Đề tài hệ thống hóa lý luận về thủ tục kiểm toán để phát hiện gian lận
trong kiểm toán báo cáo tài chính. Bên cạnh đó, Đề tài đã mô tả được thực
trạng thực hiện thủ tục kiểm toán để phát hiện gian lận trong kiểm toán báo
cáo tài chính tại Công ty Deloitte Việt Nam. Từ đó, Đề tài đã đưa ra được
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
2
Khoá luận tốt nghiệp
nhận xét cho những vấn đề còn tồn tại và phương hướng, giải pháp nhằm
hoàn thiện thủ tục kiểm toán để phát hiện gian lận trong kiểm toán báo cáo tài

thị trường, xác minh và bày tỏ ý kiến về các bảng khai tài chính; hoặc kiểm
toán có phạm vi rất rộng không chỉ đánh giá tính tuân thủ các quy định, độ tin
cậy của thông tin mà còn cả tính hiệu quả và hiệu năng của hoạt động quản lý.
Các quan điểm khác nhau này không hoàn toàn đối lập với nhau mà phản ánh
quá trình phát triển của cả thực tiễn và lý luận kiểm toán.
Có thể dẫn ra sau đây một số định nghĩa về kiểm toán thường được sử
dụng. Trong Lời mở đầu “ Giải thích các chuẩn mực kiểm toán “ của Vương
quốc Anh, định nghĩa “kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến
những bản khai tài chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ
nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩ vụ pháp
định có liên quan.” ( [9] ).
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
4
Khoá luận tốt nghiệp
Theo các nhà kiểm toán của Cộng Hoà Pháp:” kiểm toán là việc nghiên
cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ chức do một người độc lập,
đủ danh nghĩa gọi là một kiểm toán viên tiến hành để khẳng định rằng những
khoản mục đó phản ánh đúng đắn tình hình tài chính thực tế, không che dấu
sự gian lận và chứng được trình bày theo mẫu chính thức của luật định”
(1992, [14]).
Các định nghĩa kiểm toán tuy có cách diễn đạt và từ ngữ khác nhau song
chúng đều thống nhất ở những nội dung cơ bản: Chức năng của kiểm toán là
xác minh và bày tỏ ý kiến. Chủ thể kiểm toán là các kiểm toán viên độc lập,
có nghiệp vụ. Cơ sở thực hiện kiểm toán là những luật định, hay chuẩn mực
chung. Mục tiêu kiểm toán có thể hướng vào những mục tiêu cụ thể khác
nhau như tính trung thực của thông tin ( information audit), tính quy tắc trong
việc thực hiện các nghiệp vụ ( regularity autdit), tính hiệu quả (efficiency
audit) hay tính hiệu năng ( effectiveness audit) của hoạt động. Với chức năng
và mục tiêu trên, đối tượng kiểm toán chủ yếu là thực trạng hoạt động tài
chính mà trực tiếp là các bảng khai tài chính của khách thể kiểm toán - một tổ

1.1.1.2.Các yếu tố cấu thành hệ thống phương pháp kiểm toán
Như mọi nghành khoa học khác, hệ thống phương pháp kiểm toán cũng
xuất phát từ cơ sở phương pháp luận chung ( duy vật biện chứng), phương
pháp kĩ thuật chung và từ đặc điểm đối tượng nghiên cứu của mình để hình
thành những phương pháp xác minh và bày tỏ ý kiến của mình phù hợp với
đối tượng kiểm toán.
Đối tượng của kiểm toán phân chia làm hai phần. Một là thực trạng hoạt
động tài chính được phản ánh trong tài liệu kế toán và hai là phần chưa được
phản ánh kể cả là phản ánh chưa trung thực ( kể cả gian lận và sai sót) trong tài
liệu này. Đối với phần thứ nhất, việc xác minh và bày tỏ ý kiến đã có cơ sở chứng
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
6
Khoá luận tốt nghiệp
minh là các tài liệu kế toán ( kể cả các tài liệu lưu giữ tại khách hàng). Do vậy,
kiểm toán có thể kế thừa cơ sở phương pháp kế toán, phân tích để xây dựng
phương pháp riêng của mình như: Kiểm toán cân đối kế toán, đối chiếu các chỉ
tiêu theo quan hệ trực tiếp hoặc lôgic. Đối với phần thứ hai ( ngoài chứng từ),
kiểm toán chưa có cơ sở dữ liệu và do đó cần có phương pháp thích hợp để có
bằng chứng kiểm toán: Điều tra, kiểm kê, hay thực nghiệm. Như vậy hệ thống
phương pháp kiểm toán bao gồm 2 phân hệ rõ rệt.
Loại phương pháp thứ nhất gọi là các phương pháp kiểm toán chứng từ
bao gồm:
Một là, Kiểm toán các cân đối kế toán: Là phương pháp dựa trên các cân đối
kế toán và các cân đối khác để kiểm toán các quan hệ nội tại của các yếu tố cấu
thành các quan hệ đó.
Hai là, Đối chiếu trực tiếp : là đối chiếu một chỉ tiêu trên các nguồn tài
liệu khác nhau.
Ba là, Đối chiếu lôgic: là việc nghiên cứu các mối liên hệ giữa các chỉ tiêu có
quan hệ với nhau.
Loại phương pháp thứ hai là các phương pháp kiểm toán ngoài

Theo Sổ tay Điều tra các tội phạm về trật tự xã hội - GS.TS Nguyễn Huy
Thuật- Nhà xuất bản Công An nhân dân-2006, khái niệm điều tra vụ án hình sự
được hiểu là hoạt động điều tra của những cơ quan điều tra và những cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định, được tiến
hành theo trình tự tố tụng hình sự nhằm chứng minh sự thật của vụ án theo yêu
cầu của pháp luật. Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập của quá trình tố
tụng hình sự, phục vụ cho việc thực hiện mục đích chung của quá trình tố tụng
hình sự đó là “ Phát hiện chính xác nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”.( Điều 1,
2003, [4]). Như vậy, có thể thấy mục đích của điều tra vụ án hình sự là xác minh
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
8
Khoá luận tốt nghiệp
sự thật của vụ án theo yêu cầu của pháp luật. Chỉ sau khi xác minh sự thật của vụ
án thì mới có đủ căn cứ để khẳng định một người nào đó có tội hay không có tội
đối với vụ án đã xẩy ra và áp dụng hình phạt công bằng hay xoá tội cho người đó.
Điều này hoàn toàn tương đồng với việc xác minh và bày tỏ ý kiến trong hoạt
động kiểm toán.
Theo sách Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự - TS. Đỗ Văn
Đương – Nhà xuất bản tư pháp 2006, có các nhóm phương pháp kĩ thuật điều
tra hình sự được sử dụng trong thu thập chứng cứ sau đây:
Một là, Phương pháp quan sát và môt tả là phương pháp chủ yếu để phát
hiện ghi nhận các dấu hiệu bề ngoài của đối tượng nhận thức
Hai là, Phương pháp khoa học kĩ thuật để phát hiện và ghi nhận các dấu
vết vật chất và trạng thái bên ngoài của hành vi phạm tội gắn liền với sử
dụng các phương tiện kĩ thuật như chụp ảnh, quay phim.
Ba là, Phương pháp toán học dùng để đo đạc và tính toán được áp dụng
để thu nhận đặc tính về số lượng của đối tượng nghiên cứu
Bốn là, Phương pháp mô hình hoá, phục hồi và tái tạo lại được thực
hiện dưới sự giúp đỡ của các phương tiện y- pháp; đồ họa và các

cũng như điều tra hình sự đều phải có phương pháp nghiên cứu chúng trong trạng
thái động.
Nội tại mỗi sự vật hiện tượng đều có tính thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập. Thống nhất là tương đối, mâu thuẫn là tuyệt đối, và đấu tranh giữa
các mặt đối lập sẽ phá vỡ sự thống nhất tạm thời để tạo nên sự thống nhất mới. Ví
dụ trong kiểm toán, mối quan hệ này không chỉ là cơ sở cho phương pháp kiểm
tra cân đối về lượng giữa tài sản với nguồn hình thành, giữa doanh số với thu nhập
và chi phí, giữa số phát sinh Nợ và số phát sinh Có… mà còn phải xem xét về chất
của các mối liên hệ.
Mỗi sự vật hiện tượng đều có bản chất riêng và được biểu hiện dưới những
hình thức cụ thể. Việc nghiên cứu và kết luận về bản chất sự vật, hiện tượng phải
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
10
Khoá luận tốt nghiệp
xem xét trên những hình thức biểu hiện khác nhau, ở tính phổ biến của chúng. Do
đó, các phương pháp xác minh và bày tỏ ý kiến của kiểm toán và các phương
pháp điều tra hình sự không thể tách rời những quy luật và mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng, giữa cái đơn nhất và cái phổ biến, giữa sự vận động và tính
“không mất đi” của vật chất trong quá trình vận động.
Tuy nhiên, đối tượng của điều tra hình sự là các tội xâm phạm đến an ninh
quốc gia, trật tự xã hội nên nó liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống từ
chính trị, xã hội, kinh tế, văn hoá… Trong khi đó, hoạt động kiểm toán đối tượng
chủ yếu là thực trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Do đó có thể nói, đối
tượng của hoạt động kiểm toán chỉ là một phần nội dung mà hoạt động điều tra
hình sự hướng tới. Điều này ảnh hưởng tới phương pháp được sử dụng của hai
lĩnh vực.
Cụ thể, phương pháp trong điều tra hình sự rộng hơn, liên quan tới nhiều lĩnh
vực, nhiều khoa học hơn so với kiểm toán. Do đối tượng kiểm toán có quan hệ
chặt chẽ với đối tượng của kế toán, của phân tích kinh doanh nên kỹ thuật
kiểm toán không thể tách rời các phương pháp kĩ thuật của các khoa học này.

hoạt động điều tra theo quy định tại Điều 1, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình
sự ban hành tháng 8 năm 2004, và trong đó không có lực lượng kiểm toán.
Sự khác biệt về thẩm quyền sẽ là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sự
khác biệt giữa phương pháp kiểm toán và phương pháp điều tra hình sự. Nhất
là trong những trường hợp, vai trò của các phán quyết, các quyết định bắt buộc
là cần thiết như: buộc cung cấp thông tin, tạm giữ…
Có thể nói, phương pháp kiểm toán và phương pháp điều tra hình sự có sự
giống nhau nhất định về nội dung bên cạnh những điểm khác do đối tượng mà
mỗi phương pháp hướng tới quy định.
1.1.2. Thủ tục kiểm toán trong hệ thống kiểm toán
Để tiếp cận với các thủ tục kiểm toán trước hết phải làm rõ các trắc nghiệm
cấu thành nên chúng.
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
12
Khoá luận tốt nghiệp
1.1.2.1.Trắc nghiệm kiểm toán
Trắc nghiệm kiểm toán bản chất cũng là sự kết hợp giữa các phương pháp
kiểm toán nhưng ở mức hẹp hơn, dễ nhận thấy rõ hơn so với thủ tục kiểm toán.
Tuỳ yêu cầu và đối tượng cụ thể, các phép kết hợp giữa các phương pháp kiểm
toán cơ bản cũng khác nhau cả về số lượng và trình tự kết hợp, và từ đó hình
thành 3 loại trắc nghiệp cơ bản: trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm trực tiếp số
dư, trắc nghiệm phân tích.
Trắc nghiệm công việc chính là việc phối kết hợp các phương pháp kiểm
toán để đánh giá công việc đã được thực hiện tại khách thể kiểm toán trên hai
phương diện: mức đạt yêu cầu công việc và độ tin cậy của thông tin. Từ đó, trắc
nghiệm công việc lại được phân định ra làm 2 mảng phải thực hiện đó là: trắc
nghiệm mức đạt yêu cầu và trắc nghiệm độ tin cậy.
Trắc nghiệm mức đạt yêu cầu chính là việc kiểm tra tính tuân thủ các quy
trình, thủ tục đã được đặt ra trong quá trình thực hiện công việc. Các công việc
thường là đã xẩy ra trong quá khứ, cho nên khi thực hiện trắc nghiệm mức đạt yêu

nói trắc nghiệm trực tiếp số dư và trắc nghiệm phân tích về bản chất đều thuộc về
trắc nghiệm độ tin cậy. Trong mọi trường hợp, kiểm toán luôn phải thực hiện trắc
nghiệm độ tin cậy như: trắc nghiệm trực tiếp số dư, trắc nghiệm phân tích hay trắc
nghiệm độ tin cậy trong trắc nghiệm công việc. Tuy nhiên trong thực tế, trắc
nghiệm trực tiếp số dư thường gắn với viẹc xác minh cả các nghiệp vụ đã phát
sinh trong kỳ để dẫn đến việc hình thành tổng số phát sinh mà từ đó hình thành số
dư cuối kỳ. Do vậy, trong thực hành kiểm toán, trắc nghiệm trực tiếp trực tiếp số
dư thường kết hợp với trắc nghiệm độ vững chãi trong công việc.
1.1.2.2.Thủ tục kiểm toán
Từ điển Oxford Advanced Leanrner, có hai định nghĩa về thủ tục: (1) là cách
thức hay trật tự chính thức để thực hiện làm các công việc, (2) một loạt các hành
động cần được hoàn thành để đạt điều gì đó( Jonathan Crowther,1995, [15] ).
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
14
Khoá luận tốt nghiệp
Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia
định nghĩa thủ tục là những việc phải làm theo một trật tự quy định, để tiến hành
một công việc có tính chất chính thức (1991,[22]).
Quá trình diễn ra một cuộc kiểm toán là quá trình sử dụng các phương pháp
kĩ thuật kiểm toán thích hợp với đối tượng kiểm toán cụ thể nhằm thu thập bằng
chứng kiểm toán. Từ đó có thể hiểu thủ tục kiểm toán bản chất là những cách
thức, những bước công việc cụ thể trong việc vận dụng các phương pháp kiểm
toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ vào việc xác minh các nghiệp vụ, các
số dư tài khoản hoặc các khoản mục cấu thành bảng khai tài chính.
Việc vận dụng các trắc nghiệm kiểm toán nêu trên một cách cụ thể vào quá
trình thực hiện kiểm toán đã hình thành nên các thủ tục kiểm toán: thủ tục kiểm
soát, thủ tục phân tích và thủ tục kiểm tra chi tiết.
Thủ tục kiểm soát, theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 500, là việc
kiểm tra để thu thập bằng chứng kiểm toán về sự thiết kế phù hợp và vận hành
hữu hiệu của hệ thống kế toán và hệ thống KSNB. Việc thực hiện thủ tục kiểm

Có nhiều khái niệm tổng quát cũng như chuyên ngành về gian lận. Theo
Chuẩn mực kiểm toán quốc tế 240 (ISA 240), thuật ngữ “gian lận” ( fraud)
được dùng để chỉ các hành vi cố ý của một hay nhiều cá nhân, đó có thể là các
thành viên trong BGĐ, HĐQT, các nhân viên hay các bên thứ ba, liên quan
đến sự gian dối nhằm thu được những lợi ích không xứng đáng hay bất hợp
pháp. Mặc dầu gian lận là một khái niệm pháp lý rất rộng, nhưng trong phạm
vi của chuẩn mực này, KTV chỉ quan tâm tới những gian lận gây nên sai
phạm trọng yếu trên BCTC và không đưa ra các quyết định pháp lý về các
gian lận. Gian lận liên quan đến một hay nhiều thành viên trong BGĐ hay
HĐQT được gọi là gian lận của BGĐ ( management fraud), gian lận chỉ liên
quan đến các nhân viên của doanh nghiệp được gọi là gian lận của nhân viên (
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
16
Khoá luận tốt nghiệp
employee fraud). Trong mỗi trường hợp, có thể có sự cấu kết trong doanh
nghiệp hay với bên thứ ba bên ngoài doanh nghiệp.
Theo Hướng dẫn tìm hiểu về gian lận của Hiệp hội Các cơ quan kiểm
toán tối cao Nam Thái Bình Dương (South Pacific Association of Supreme
Audit Institutions - SPASAI), gian lận là thuật ngữ chung, bao gồm tất cả các
cách mà trí thông minh con người có thể nghĩ ra nhằm giành lợi thế hơn
người khác bằng việc trình bày gian dối.
Theo Hiệp hội Kiểm tra gian lận của Mĩ (Association of Certified Fraud
Examiners -ACFE), gian lận là việc sử dụng nghề nghiệp của một người để
làm lợi cá nhân bằng cách cố ý lạm dụng hay biển thủ các tài nguyên hay tài
sản của doanh nghiệp. Khái niệm này bao quát ở phạm vi rộng các hành vi sai
phạm của các nhà điều hành, các nhà quản lý và các nhân viên tại các tổ chức,
từ những hoạt động lừa đảo một cách tinh vi trong đầu tư cho đến những hành
vi ăn trộm vặt.
Theo Kiểm toán Vương quốc Anh, gian lận có liên quan đến việc sử
dụng thủ đoạn lừa gạt để giành được các lợi ích không công bằng và bất hợp

không cố ý, có ảnh hưởng tới BCTC.
Sai sót thường biểu hiện dưới nhiều hình thức, cụ thể như:
- Một sai phạm trong quá trình thu thập và xử lý dữ liệu để chuẩn bị
lập BCTC
- Một ước tính kế toán không đúng phát sinh do sự bỏ sót hay hiểu sai
thực tế.
- Áp dụng sai các nguyên tắc kế toán liên quan tới sự đo lường, ghi nhận,
phân loại, trình bày hay khai báo.
Ranh giới giữa gian lận và sai sót đôi khi không rõ ràng, đó chính là cái
cớ để người thực hiện hành vi gian lận bác bỏ những phát hiện của kiểm toán.
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
18
Khoá luận tốt nghiệp
Kinh nghiệm và sự phán xét nghề nghiệp là cơ sở để kiểm toán viên giải
quyết những tình huống như vậy.
1.2.2.Phân loại gian lận
Qua nghiên cứu bản chất của gian lận, chúng ta có thể phân
loại gian lận theo nhiều tiêu chí khác nhau:
Thứ nhất, Theo quy mô có thể phân gian lận thành:
gian lận nhỏ, gian lận lớn hay gian lận nghiêm trọng.
Thứ hai, Theo đối tượng thực hiện có thể phân gian
lận thành: gian lận của nhân viên, gian lận của BGĐ,
gian lận của bên thứ ba.
Thứ ba, Theo cách thức nội dung thực hiện hành vi
gian lận có thể phân gian lận thành : BCTC gian lận,
biển thủ tài sản, tham ô
Thứ tư, Theo tính chất hệ thống có thể phân gian lận
thành: gian lận đơn lẻ, gian lận mang tính chất hệ
thống
Thứ năm, Theo mức độ tinh vi có thể phân gian lận

Theo ISA 240, BCTC gian lận thường liên quan tới việc BGĐ phớt lờ hệ
thống kiểm soát nội bộ mặc dù nó vẫn hoạt động hiệu quả. Do sức ép trong
việc đạt được mục tiêu lợi nhuận, nên BGĐ có thể thực hiện gian lận trên
BCTC để lừa dối người sử dụng BCTC bằng cách tác động tới nhận thức của
họ về tình hình hoạt động và khả năng lợi nhuận của doanh nghiệp. BGĐ có
thể thay đổi lợi nhuận bằng những thủ thuật tinh vi hay các ước tính thiên
lệch. Áp lực và các động cơ có thể dẫn đến việc tăng lên về quy mô của các
hành vi mà trái với các quy định trong chế độ, chuẩn mực kế toán và dẫn tới
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
20
Khoá luận tốt nghiệp
BCTC gian lận. Chẳng hạn một tình huống có thể xẩy ra khi vì áp lực phải
thực hiện đạt được kì vọng thị phần hay mong muốn các khoản bù đắp tối đa,
BGĐ cố tình chỉ đạo lập BCTC gian lận. Do đó việc KTV nhận thức rõ các
tình huống có dấu hiệu thay đổi lợi nhuận và các vị trí, các ước tính có thể có
gian lận trọng yếu trên BCTC là hết sức quan trọng.
Báo cáo tài chính gian lận liên quan đến các sai phạm cố ý hay sự che
dấu các khoản tiền và các khoản cần khai báo trên BCTC để lừa gạt người sử
dụng BCTC. Báo cáo tài chính gian lận có thể được thực hiện bằng những
cách sau:
Một là, Sửa đổi thủ công, làm giả tài liệu ( kể cả là giả mạo chữ ký), sửa
đổi các ghi chép kế toán, các tài liệu để hỗ trợ việc lập BCTC
Hai là, Xuyên tạc hay cố tình bỏ sót các sự kiện, các nghiệp vụ hay các
thông tin quan trọng khác trên BCTC
Ba là, Cố tình áp dụng sai các nguyên tắc kế toán liên quan tới các khoản
tiền, việc phân loại , cách thức trình bày và khai báo.
Bốn là, Cố ý tính toán sai về số học
Gian lận liên quan tới lập BCTC có thể gắn liền với nhiều hoạt động của
doanh nghiệp nhưng thường xẩy ra ở việc ghi nhận doanh thu, hàng tồn kho,
khai báo giảm các khoản công nợ hay đánh giá tài sản của doanh nghiệp.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status