Giải pháp hoàn thiện hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam - Pdf 11

Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
LỜI NÓI ĐẦU
Sau gần hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, cho đến
nay nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong đó
không thể không kể đến những thay đổi tích cực từ việc đổi mới, nâng cao
hoạt động của các doanh nghiệp. Bên cạnh những hoạt động cho thuê, mua
bán, sát nhập doanh nghiệp thì cổ phần hóa là hoạt động diễn ra nhiều nhất và
thu hút được sự quan tâm đông đảo của nhiều đối tượng.
Trong qua trình diễn ra các hoạt động nói trên, có thể thấy nổi lên một
vấn đề chung nhất có tầm quan trọng đặc biệt đó là xác định giá trị doanh
nghiệp, bởi lẽ bất kỳ quyết định nào liên quan đến các hoạt động nói trên cũng
sẽ phải dựa trên cơ sở của giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là một
trong những căn cứ quan trọng nhất để các bên hữu quan và Chính phủ xem
xét, đưa ra các quyết định cuối cùng liên quan đến sự phát triển trong tương
lai của doanh nghiệp, của từng ngành, từng lĩnh vực và của cả nền kinh tế.
Công tác định giá ở nước ta mặc dù đã diễn ra từ rất lâu (đầu những
năm 90) nhưng gần đây mới thu hút được sự quan tâm của mọi người, nhất là
trong thời điểm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước.
Mặc dù chúng ta có rất nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện công tác định giá
thông qua hàng loạt những thay đổi từ phía Nhà nước nhưng thực tế cho thấy
công tác này vẫn đang còn gặp rất nhiều khó khăn. Cơ chế tổ chức định giá
chưa chặt chẽ, giá trị của doanh nghiệp được xác định chưa mang tính khách
quan, thiếu chính xác và tốn thời gian, chi phí. Do vậy mà công tác định giá
trong thời gian qua được đánh giá là chưa hiệu quả.
Định giá doanh nghiệp có một tầm quan trọng rất lớn đối với toàn bộ
nền kinh tế và do vậy cần có những giải pháp hoàn chỉnh và khoa học nhất để
làm sao nâng cao được hiệu quả của công tác này sẽ giúp thúc đẩy nhanh hơn
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
1
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
nữa quá trình đổi mới và cơ cấu lại nền kinh tế, góp phần nâng cao khả năng

Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp tổng hợp như:
tập hợp, nghiên cứu tài liệu sau đó chọn lọc, phân tích, đánh giá thông tin dữ
liệu trên cơ sở các số liệu thống kê thu thập được từ Công ty Kiểm toán và
Định giá Việt Nam.
Bố cục của đề tài:
Đề tài này gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về doanh nghiệp và định giá doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty TNHH
Kiểm tóan và Định giá Việt Nam.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty
Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của PGS.TS Lê Đức Lữ
cùng toàn thể các anh, chị nhân viên phòng Nghiệp vụ I, công ty Kiểm toán
và Định giá Việt Nam đã tạo điều kiện tốt nhất cho em hoàn thành báo cáo
thực tập của mình.
3
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
33
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VÀ ĐỊNH
GIÁ DOANH NGHIỆP
1.1 Doanh nghiệp và các đặc điểm của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một thuật ngữ trong kinh doanh dùng để chỉ các tổ
chức kinh tế, cá nhân nhằm phân biệt nó với các hình thức kinh doanh có quy
mô quá nhỏ.
Một tổ chức kinh tế chỉ được coi là doanh nghiệp nếu nó được sự thừa
nhận về mặt pháp lý trên một số tiêu chuẩn nào đó.
Các tiêu chuẩn ở đây có thể là mức vốn tối thiểu (vốn pháp định), mục
tiêu hoạt động, ngành nghề, địa điểm, quyền lợi, chủ sở hữu, nhiệm vụ... Vậy:

doanh nghiệp bị giải thể hay phá sản, những tài sản ấy mới được coi là những
tài sản đơn lẻ, rời rạc, người ta có thể đem bán nó như một loại hàng hóa
thông thường với mức giá thấp hơn rất nhiều giá trị thực của nó. Do vậy, giá
trị doanh nghiệp là một khái niệm chỉ được dùng cho những doanh nghiệp
đang hoạt động và sẵn sàng hoạt động.
c) Doanh nghiệp là một loại hàng hóa đặc biệt
Doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập ra để thực hiện hoạt động
sản xuất kinh doanh chứ không phải là đối tượng để bán, tuy vậy giống như
các hàng hoá thông thường khác, doanh nghiệp cũng là đối tượng của các giao
dịch: mua bán, hợp nhất, chia nhỏ,… Quá trình hình thành giá cả và giá trị đối
với loại hàng hoá này cũng không nằm ngoài sự chi phối của các quy luật giá
trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… Nhưng doanh nghiệp là một loại
hàng hóa đặc biệt, bởi nó là một hệ thống phức tạp của nhiều yếu tố cầu
thành, ngoài việc được tạo nên bởi các tài sản hữu hình còn có các tài sản vô
5
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
55
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
hình như: lợi thế thương mại, thương hiệu…Hơn nữa, bản thân các yếu tố tạo
nên giá trị của doanh nghiệp luôn có sự thay đổi, luôn só sự tăng lên hay giảm
đi, có sự ra đời hay biến mất, chính vì vậy giá trị của một doanh nghiệp cũng
thay đổi theo thời gian và giá trị doanh nghiệp là một khái niệm động.
d) Việc thành lập hay mua bán lại doanh nghiệp thực chất là nhằm tìm kiếm
thu nhập từ quyền sở hữu đối với doanh nghiệp đó
Con người muốn sở hữu doanh nghiệp là vì lợi nhuận. Việc sở hữu các
tài sản cố định tài sản lưu động hay sở hữu một bộ máy kinh doanh, chỉ là
cách thức, là phương tiện để đạt mục tiêu lợi nhuận mà thôi. Tiêu chuẩn để
nhà đầu tư đánh giá hiệu quả hoạt động, quyết định bỏ vốn và đánh giá giá trị
doanh nghiệp là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà
đầu tư trong tương lai.

doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của nhà thẩm định, điều
quan trọng là quá trình định giá phải thực hiện một cách thống nhất và kết quả
định giá sẽ được sử dụng một cách hữu ích nhất.
1.2.2 Các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp
Xác định giá trị doanh nghiệp là sự ước tính với độ tin cậy cao nhất các
khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể tạo ra trong quá trình sản xuất kinh
doanh, làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch thông thường của thị trường.
a) Giá trị thị trường.
Giá trị thị trường của một tài sản là mức giá ước tính sẽ được mua bán
trên thị trường vào thời điểm thẩm định giá, giữa một bên là người mua sẵn
sàng mua và một bên là người bán sẵn sàng bán, trong một giao dịch mua bán
khách quan và độc lập, trong điều kiện thương mại bình thường:
+ “Giá trị thị trường của một tài sản là mức giá ước tính sẽ được mua
bán trên thị trường... ” là số tiền ước tính để tài sản có thể được mua, bán trên
7
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
77
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
thị trường trong điều kiện thương mại bình thường mà sự mua bán đó thoả
mãn những điều kiện của thị trường tại thời điểm thẩm định giá.
+ “vào thời điểm thẩm định giá...” là ngày, tháng, năm cụ thể khi tiến
hành thẩm định giá, được gắn với những yếu tố về cung, cầu, thị hiếu và sức
mua trên thị trường khi thực hiện thẩm định giá trị tài sản.
+ “giữa một bên là người mua sẵn sàng mua...” là người đang có khả
năng thanh toán và có nhu cầu mua tài sản được xác định giá trị thị trường.
+ “và một bên là người bán sẵn sàng bán...” là người bán đang có
quyền sở hữu tài sản (trừ đất), có quyền sử dụng đất có nhu cầu muốn bán tài
sản với mức giá tốt nhất có thể được trên thị trường.
+ “Điều kiện thương mại bình thường” là việc mua bán được tiến hành
khi các yếu tố cung, cầu, giá cả, sức mua không xảy ra những đột biến do chịu

hợp lý có thể thu về từ bán tài sản trong phạm vị thời gian quá ngắn so với
thời gian trung bình cần có để giao dịch mua bán theo giá trị thị trường. Tại
một số nước, giá trị tài sản bắt buộc phải bán có thể liên quan đến tình
huống người bán tài sản chưa sẵn sàng bán và người mua tài sản biết rõ
việc chưa sẵn sàng bán đó.
- Giá trị đặc biệt (special value): là khái niệm có liên quan đến
những yếu tố đặc biệt có thể làm tăng giá trị tài sản lên vượt quá giá trị thị
trường. Giá trị đặc biệt có thể nảy sinh khi một tài sản này có thể gắn liền
với một tài sản khác về mặt kỹ thuật hoặc kinh tế mà sự liên kết đó chỉ thu
hút mối quan tâm đặc biệt của một số ít khách hàng mà không thu hút sự
quan tâm của nhiều người. Các yếu tố của giá trị đặc biệt có thể nảy sinh
khi xem xét yếu tố của giá trị tài sản đang quan tâm hoặc giá trị đầu tư.
Thẩm định viên phải phân biệt rõ ràng những thông số và nguyên nhân để
9
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
99
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
vận dụng các khái niệm giá trị thị trường nói trên thay vì sử dụng khái niệm
giá trị thị trường.
- Giá trị có thể bảo hiểm (insurable value): là giá trị của tài sản quy
định trong hợp đồng bảo hiểm.
- Giá trị có thể tính thuế (taxable value): là giá trị trong phạm vi luật
pháp liên quan đến việc thuê mướn hoặc thu thuế tài sản. Mặc dù một số
văn bản pháp quy trích
- Giá trị đầu tư (investment value): là giá trị của một tài sản đối với
một số nhà đầu tư áp dụng cho một dự án đầu tư nhất định. Khái niệm này liên
quan đến những tài sản riêng biệt với những nhà đầu tư riêng biệt. Không nên
nhầm lẫn giữa giá trị đầu tư và giá trị thị trường. Giá trị đầu tư của một tài sản
có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thị trường của tài sản đó. Tuy nhiên giá trị
thị trường có thể phản ánh một số đánh giá cá nhân về giá trị đầu tư. Giá trị đầu

rộng quy mô sản xuất. Ngược lại, sự suy thoái kinh tế, lạm phát phi mã là
biểu hiện môi trường tồn tại của doanh nghiệp đang bị lung lay tận gốc.
- Môi trường chính trị: Sản xuất kinh doanh chỉ có thể tồn tại và phát
triển trong môi trường có sự ổn định về chính trị nhất định. Chiến tranh sắc
tộc, tôn giáo, sự lộng hành của Mafia và những yếu tố trật tự an toàn xã hội
khác bao giờ cũng tác động xấu đến mọi mặt đời sống xã hội chứ không
riêng gì với sản xuất kinh doanh.
Các yếu tố của môi trường chính trị có sự gắn bó chặt chẽ như:
+ Tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng và chi tiết của hệ thống pháp luật.
+ Quan điểm của nhà nước đối với sản xuất kinh doanh được thể hiện
thông qua các văn bản pháp quy như: luật cạnh tranh, sở hữu trí tuệ,…
- Môi trường văn hoá xã hội: Môi trường văn hoá được đặc trưng bởi
những quan niệm, những hệ tư tưởng của cộng đồng về lối sống, đạo đức.
11
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
1111
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
Thể hiện trong quan niệm về “chân, thiện, mỹ” quan niệm về nhân cách,
văn minh xã hội, thể hiện trong tập quán sinh hoạt và tiêu dùng.
Môi trường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi,
mật độ, …..
- Môi trường khoa học công nghệ: Sự tác động của kỹ thuật - công nghệ
đang làm thay đổi một cách căn bản các điều kiện về quy trình công nghệ
và phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Sản
phẩm sản xuất ra ngày càng đa dạng, phong phú, hàm lượng tri thức có
khuynh hướng chiếm ưu thế tuyệt đối trong giá bán sản phẩm.
Sự nhảy vọt của nền văn minh nhân loại không chỉ là cơ hội mà còn là
thách thức đối với sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, khi đánh giá về
doanh nghiệp phải chỉ ra được mức độ tác động của môi trường này đến sản
xuất kinh doanh và khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước những bước

được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước như: cơ
quan thuế, cơ quan thanh tra, các tổ chức công đoàn…Các tổ chức này có
bổn phận kiểm tra, giám sát, đảm bảo cho sự hoạt động của doanh nghiệp
không vượt ra khỏi những quy ước xã hội thể hiện trong luật thuế, luật môi
trường,…
Doanh nghiệp có quan hệ tốt đẹp với các tổ chức đó thường là những
doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với xã hội, như nộp thuế
đầy đủ, đúng hạn, chấp hành tốt luật lao động,… Đó cũng là biểu hiện của
những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính vững mạnh. Vì vậy, xác định sự tác
động của yếu tố môi trường đặc thù đến sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp còn cần phải xem xét chất lượng và thực trạng của doanh nghiệp với
các tổ chức đó.
Các yếu tố thuộc về nội tại doanh nghiệp
13
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
1313
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
- Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp: Khi xác định giá trị doanh
nghiệp, bao giờ người ta cũng quan tâm ngay đến hiện trạng tài sản của
doanh nghiệp, vì 2 lý do chủ yếu:
Thứ nhất: Tài sản của một doanh nghiệp là biểu hiện của yếu tố vật
chất cần thiết, tối thiểu đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Số lượng,
chất lượng, trình độ kỹ thuật và tính đồng bộ của các loạ tài sản là yếu tố
quyết định đến số lượng và chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất
ra.
Thứ hai: Giá trị các tài sản của doanh nghiệp được coi là một căn cứ và
là một sự đảm bảo rõ ràng nhất về giá trị doanh nghiệp. Vì thay cho việc dự
báo các khoản thu nhập tiềm năng thì người sở hữu có thể bán chúng bất cứ
lúc nào để nhận về một khoản thu nhập từ những tài sản đó.
Chính vì vậy, người ta thường đánh giá cao các phương pháp có liên

- Trình độ kỹ thuật và tay nghề người lao động: Đây là một yếu tố có ý
nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn có thể
làm giảm chi phí sản xuất kinh doanh do việc sử dụng hợp lý nguyên liệu…
trong quá trình sản xuất, giảm được chi phí đào tạo, bồi dưỡng, góp phần
nâng cao thu nhập cho doanh nghiệp.
Đánh giá về trình độ kỹ thuật và tay nghề người lao động không chỉ
xem ở bằng cấp, bậc thợ mà điều quan trọng là hàm lượng tri thức có trong
mỗi sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Vì vậy đây cũng được coi là
một yếu tố nội tại quyết định đến giá trị của doanh nghiệp.
- Năng lực quản trị kinh doanh: Trong điều kiện hiện nay, một doanh
nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài phải có một bộ máy quản lý sản
xuất kinh doanh đủ mạnh giúp để có thể sự dụng tốt nhất các nguồn lực cho
quá trình sản xuất, biết tận dụng mọi tiềm năng và cơ hội nảy sinh, ứng phó
một cách linh hoạt với những biến động của môi trường. Vì lý do đó, năng
15
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
1515
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
lực quản trị kinh doanh luôn được nhắc tới như một yếu tố đặc biệt quan
trọng tác động tới giá trị doanh nghiệp.
Năng lực quản trị kinh doanh là một yếu tố định tính nhiều hơn là định
lượng. Vì vậy, khi đánh giá cần phải xem xét chúng dưới tác động của môi
trường. Ngoài ra năng lực quản trị kinh doanh tổng hợp còn được thể hiện
thông qua hệ thống các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp. Do đó, thực hiện phân
tích một cách toàn diện tình hình tài chính trong những năm gần với thời điểm
định giá cũng có thể cho phép rút ra những kết luận quan trọng về năng lực
quản trị và sự tác động của nó đến giá trị doanh nghiệp.
1.2.4. Sự cần thiết phải xác định giá trị doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu đánh giá và xác định giá trị doanh
nghiệp là một đòi hỏi hoàn toàn tự nhiên. Trong điều hành kinh tế vĩ mô cũng

- Định giá doanh nghiệp để vay ngân hàng: Nhu cầu mở rộng đầu
tư,mua sắm mới các trang thiết bị và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế hiện nay là rất lớn. Để có được
nguồn vốn tài trợ cho các nhu cầu đó, doanh nghiệp thường tìm đến các ngân
hàng, các tổ chức tín dụng để vay. Tuy nhiên một đòi hỏi tất yếu là khoản tiền
cho vay cần được đảm bảo bởi chính tài sản của doanh nghiệp. Từ đó nảy sinh
nhu cầu định giá tài sản, định giá giá trị doanh nghiệp để làm cơ sỏ cho việc
vay vốn của ngân hàng.
b) Đối với các nhà quản trị
Giá trị doanh nghiệp là loại thông tin quan trọng để các nhà quản trị
phân tích, đánh giá trước khi ra các quyết định về kinh doanh và tài chính có
liên quan đến doanh nghiệp được đánh giá. Nội dung cơ bản của quản trị tài
chính doanh nghiệp, xét cho cùng là phải tăng giá trị doanh nghiệp. Giá trị
doanh nghiệp là sự phản ánh năng lực tổng hợp, phản ánh khả năng tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy, căn cứ vào đây các nhà quản trị kinh
17
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
1717
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
doanh có thể thấy được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình, khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp khác. Theo đó, giá trị doanh nghiệp là một
căn cứ thích hợp, là cơ sở để đưa ra các quyết định về kinh doanh, về tài
chính… một cách đúng đắn.
c) Đối với các nhà đầu tư
Trong cách nhìn của các nhà đầu tư, của người cung cấp, thông tin về
giá trị doanh nghiệp cho người ta một sự đánh giá tổng quát về uy tín kinh
doanh, về khả năng tài chính và vị thế tín dụng để từ đó có cơ sở đưa ra các
quyết định về đầu tư, tài trợ hoặc có tiếp tục cấp tín dụng cho doanh nghiệp
nữa hay không.
d) Đối với nền kinh tế nói chung

công tác định giá.
a) Chất lượng công tác định giá
Chất lượng là một khái niệm mang tính trừu tượng và chủ quan của
người đánh giá nhất là đối tượng của việc đánh giá lại là một công việc, một
hoạt động cụ thểlại càng khó hơn. Tuy nhiên do tầm quan trọng của công tác
định giá mà người ta cần phải đánh giá được chất lượng của công tác này.
Công tác định giá doanh nghiệp được coi là có chất lượng khi mà giá xác định
luôn bám sát với giá thị trường, thực hiện theo đúng quy trình, dựa trên một
phương pháp định giá khoa học và đảm bảo được đúng mục tiêu, yêu cầu của
các chủ thể tham gia với thời gian,chi phí thấp nhất.
b) Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng công tác định giá.
 Công tác định giá phải đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu và yêu cầu
của các chủ thể tham gia.
Như đã trình bày ở trên, công tác định giá luôn thu hút sự quan tâm của
3 loại chủ thể: Nhà nước, nhà đầu tư và Nhà quản trị. Mục tiêu của mỗi chủ
thể tham gia không giống nhau, thậm chí có những sự đối lập. Nhà quản trị
luôn mong muốn được định giá cao trong khi các nhà đầu tư lại mong muốn
19
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
1919
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
định giá càng thấp càng tốt. Mâu thuẫn này cần được dung hòa để đi đến
thống nhất chung, tổ chức định giá phải là người trung gian đứng ra làm trọng
tài. Vì thế giá trị doanh nghiệp sẽ được định giá một cách khách quan và
thống nhất các mục đích riêng của các chủ thể tham gia.
 Công tác định giá được thực hiện theo đúng quy trình
Công tác định giá là một công việc hết sức phức tạp và nhiều công
đoạn, mỗi công đoạn lại đòi hỏi nhiều kỹ thuật xử lý thông tin rất cao. Do vậy
để đảm bảo chất lượng của công tác này việc thực hiện theo đúng quy trình là
một yêu cầu tất yếu. Các bước công việc cần được thực hiện tuần tự và phải

làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phát triển kinh doanh của doanh
nghiệp. Hơn nữa giá trị doanh nghiệp là một khái niệm động, bản thân các
yếu tố tạo nên giá trị doanh nghiệp luôn có sự thay đổi theo biến động của thị
trường, giá trị của chúng luôn có sự tăng lên hoặc giảm đi và có sự ra đời
hoặc mất đi của một vài yếu tố nào đó. Vì vậy khi công tác định giá kéo dài
thí các yếu tố tạo nên giá trị doanh nghiệp cũng sẽ bị biến động, điều này dẫn
đến giá trị doanh nghiệp có nguy cơ bị đánh giá sai.
Xét về mặt chi phí, chúng ta khẳng định được rằng chất lượng của công
tác định giá không thể xem là cao khi mà chi phí bỏ ra để thực hiện quá cao.
Chi phí định giá dù dưới bất kỳ hình thức nào cũng là khoản phí mà doanh
nghiệp phải gánh chịu vì vậy nếu công tác định giá đảm bảo được ở mức thấp
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp sau cuộc định giá.
1.2.6 Các phương pháp định giá và phạm vi ứng dụng của các phương
pháp đó.
a) Phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF).
* Cơ sở lý luận:
“Đầu tư” là khái niệm được dùng để chỉ hoạt đông bỏ vốn nhằm đạt
đến khả năng có thể thâu tóm quyền kiểm soát doanh nghiệp. Nói cách khác,
đó là hoạt động bỏ vốn đầu tư có tính chất đa số, chẳng hạn như mua một số
21
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
2121
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
lượng chứng khoán nào đó nhằm trông đợi vào khoản thu nhập do sự tăng giá
chứng khoán và lợi tức cổ phần. Thu nhập đưa lại cho “ nhà đầu tư thiểu số”
có tính thụ động.
Phương pháp hiện tại hoá dòng tiền thuần là một phương pháp xác định
giá trị doanh nghiệp dựa trên quan điểm đánh giá của nhà đầu tư đa số. Trong
cách nhìn nhận của những người này thì quan niệm về giá trị doanh nghiệp có
những điểm khác căn bản so với các phương pháp khác, vì:

tệ và đầu tư là hoạt động bỏ vốn với số lượng lớn, trong một khoảng thời gian
dài, cho nên, yếu tố mà người ta không thể bỏ qua là thời điểm phát sinh các
dòng tiền đó.
Do vậy, giá trị hiện tại của dòng tiền thuần mà việc đầu tư vào doanh
nghiệp cả ở thời điểm hiện tại và tương lai đem lại cho đầu tư là tiêu chuẩn
thích hợp để xác định giá trị doanh nghiệp.
* Phương pháp xác định:
Phương pháp chiết khấu dòng tiền thuần cũng được xây dựng dựa trên
công thức tổng quát (1.2). Nhưng điểm khác biệt căn bản đối với các phương
pháp hiện tại hoá lợi nhuận thuần và phương pháp hiện tại hoá lợi tức cổ phần
là ở chỗ: Các phương khoản thu nhập trong tương lai được thay thế bằng dòng
tiền thuần của dự án đầu tư vào doanh nghiệp:
- “ Dòng tiền vào” là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể đưa lại
dưới hình thức: Trích khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận thuần hàng
năm và các khoản vốn doanh nghiệp thu được khi dự án đầu tư kết
thúc.
23
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
Dòng tiền ra
-
Dòng tiền vào
Dòng tiền thuần của
dự án đầu tư
=
Trong đó:
2323
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
- “ Dòng tiền ra” là những khoản chi đầu tư vào doanh nghiệp, bao gồm
các khoản vốn đầu tư vào tài sản cố định, tài sản lưu động thường
xuyên trong tương lai đối với doanh nghiệp.

Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
n
n
n
t
t
t
o
i
V
i
CF
V
)1()1(
1
+
+
+
=

=
2424
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
này, thường người ta tìm cách dự tính chi phí sử dụng vốn bình quân- phản
ánh chi phí cơ hội đầu tư vốn vào doanh nghiệp.
- Bước 3: Xác định giá trị hiện tại của dòng tiền thuần theo tỷ suất chiết
khấu nói trên để tìm ra giá trị doanh nghiệp.
* Ưu điểm:
- Doanh nghiệp coi như một dự án đầu tư đang triển khai, mỗi nhà đầu
tư nhìn nhận tương lai của dư án này khác nhau.

n
t
t
t
t
t
o
i
R
i
R
i
R
i
R
V
1
2
21
)1()1(
...
)1()1(
2525

Trích đoạn Công nợ phải thu: Tài sản cố định vô hình Tài sản góp vốn liên doanh Lợi thế thương mạ Công nợ phải trả
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status