Báo cáo " Các nguyên tắc pháp lí cơ bản điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam " - Pdf 11



nghiên cứu - trao đổi
12 - Tạp chí luật học
ThS. Nông Quốc Bình *
ề mặt pháp lí, hôn nhân có yếu tố nớc
ngoài là loại quan hệ dân sự đặc biệt.
Tính đặc biệt của quan hệ này không chỉ thể
hiện ở việc nó đợc xác lập dựa trên cơ sở
tình yêu mà còn thể hiện trong các phơng
pháp pháp lí điều chỉnh trong trờng hợp có
xung đột pháp luật. Việc điều chỉnh quan hệ
hôn nhân có yếu tố nớc ngoài phải tuân
theo một số nguyên tắc nhất định dựa trên
tính chất đặc thù của quan hệ này. ở Việt
Nam, việc điều chỉnh quan hệ hôn nhân có
yếu tố nớc ngoài tuân thủ một số nguyên
tắc pháp lí cơ bản sau đây:
1. Tôn trọng chủ quyền của quốc gia
trong việc xác định pháp luật áp dụng
điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố
nớc ngoài
Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính
trị pháp lí của quốc gia với hai nội dung chủ
yếu là quyền tối cao của quốc gia trong lĩnh
vực đối nội và đối ngoại. Thực hiện chủ
quyền, quốc gia thông qua các hoạt động của
các cơ quan nhà nớc nh cơ quan lập pháp,

việc xác định tính hợp pháp của điều kiện kết
hôn có yếu tố nớc ngoài, pháp luật hầu hết
các nớc đều quy định áp dụng hệ thuộc luật
quốc tịch (Lex nationalis) của các bên chủ
V

* Giảng viên chính Khoa luật quốc tế
Trờng đại học luật Hà Nội nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 13

thể để xác định điều kiện kết hôn của mỗi
bên. Quy định này ghi nhận trong pháp luật
của các nớc đ thể hiện nguyên tắc tôn
trọng chủ quyền quốc gia.
Có thể nói, dùng dấu hiệu quốc tịch của
đơng sự để xác định điều kiện kết hôn của
họ là thể hiện nguyên tắc tôn trọng chủ
quyền quốc gia bởi vì hai lí do sau đây:
Thứ nhất, quốc tịch của một ngời là mối
quan hệ pháp lí của ngời đó với nhà nớc
nhất định. Đây là mối quan hệ giữa công dân
với nhà nớc, theo đó công dân có nghĩa vụ
với nhà nớc đồng thời nhà nớc cũng có
nghĩa vụ đối với công dân. Nh vậy, một
ngời với t cách chủ thể trong quan hệ dân
sự nói chung và quan hệ hôn nhân nói riêng
phải chịu sự chi phối bởi pháp luật của nớc

Nam với ngời nớc ngoài, các bên phải
tuân theo pháp luật nớc mình về điều kiện
kết hôn. Từ nội dung của quy định này có
thể thấy việc xem xét điều kiện kết hôn của
bên chủ thể là công dân Việt Nam sẽ căn cứ
vào các quy định của pháp luật Việt Nam;
xem xét điều kiện kết hôn của ngời nớc
ngoài sẽ căn cứ vào pháp luật mà ngời nớc
ngoài đó mang quốc tịch.
Tuy nhiên, trong trờng hợp công dân
Việt Nam kết hôn với ngời nớc ngoài hoặc
khi ngời nớc ngoài kết hôn với nhau trớc
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thì
ngoài việc phải tuân theo quy định pháp luật
của nớc mình, ngời nớc ngoài còn phải
tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam
về điều kiện kết hôn (Điều 103 Luật
HN&GĐ năm 2000).
Quy định của pháp luật Việt Nam trong
việc dùng dấu hiệu quốc tịch để xác định
điều kiện kết hôn của các chủ thể trong quan
hệ hôn nhân có yếu tố nớc ngoài đồng thời
quy định ngời nớc ngoài còn phải tuân
theo quy định của pháp luật Việt Nam về
điều kiện kết hôn nếu việc kết hôn của họ
đợc tiến hành trớc cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam không những khẳng định chủ
quyền của Việt Nam mà còn thể hiện sự tôn
trọng của Việt Nam đối với chủ quyền quốc


trờng hợp không áp dụng dấu hiệu quốc
tịch của các bên. Điều 104 Luật HN&GĐ
năm 2000 quy định: Trong trờng hợp các
bên trong quan hệ li hôn thờng trú tại Việt
Nam phải tuân theo pháp luật Việt Nam
(khoản 1 Điều 104 Luật HN&GĐ năm 2000).
Trong trờng hợp, bên là công dân Việt Nam
không thờng trú tại Việt Nam vào thời điểm
yêu cầu li hôn thì giải quyết theo pháp luật
nớc nơi thờng trú chung của vợ và chồng.
Nh vậy, trong các trờng hợp trên đây
pháp luật Việt Nam đ lấy dấu hiệu nơi c
trú của chủ thể trong quan hệ hôn nhân có
yếu tố nớc ngoài để xác định pháp luật áp
dụng. Nói cách khác, nơi c trú của đơng
sự sẽ là một trong những dấu hiệu quan
trọng để xác định pháp luật áp dụng mà
không phụ thuộc vào đơng sự đó đang c
trú tại Việt Nam hay c trú ở nớc ngoài.
Việc lấy dấu hiệu nơi c trú của chủ thể để
xác định pháp luật áp dụng cho quan hệ hôn
nhân có yếu tố nớc ngoài đ thể hiện sự
tôn trọng nguyên tắc chủ quyền quốc gia
của Nhà nớc Việt Nam.
2. Bảo vệ quan hệ hôn nhân có yếu tố
nớc ngoài phải phù hợp pháp luật Việt
Nam và điều ớc quốc tế mà Việt Nam đã
kí kết hoặc gia nhập
Về lí luận cũng nh thực tế, t pháp quốc
tế của hầu hết các nớc đều đa ra các cách

các điều ớc quốc tế mà Việt Nam là thành
viên làm chuẩn. Theo đó, hệ thống pháp luật
nớc ngoài có khả năng đợc áp dụng để
điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nớc
ngoài tại Việt Nam hay không hoàn toàn phụ
thuộc vào việc nội dung của nó có phù hợp
với quy định của pháp luật Việt Nam hoặc
phù hợp với quy định của các điều ớc quốc
tế mà Việt Nam đ kí kết hoặc gia nhập hay
không.
Về nguyên tắc, u tiên áp dụng giữa quy
định của pháp luật trong nớc và điều ớc
quốc tế mà Việt Nam đ kí kết hoặc gia
nhập, khoản 2 Điều 7 Luật HN&GĐ năm
2000 quy định: Trong trờng hợp điều ớc
quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia
có quy định khác với quy định của Luật
HN&GĐ năm 2000 thì áp dụng quy định của
điều ớc quốc tế.
Từ quy định của khoản 1 Điều 100 và
khoản 2 Điều 7 của Luật HN&GĐ năm
2000, việc bảo vệ quan hệ hôn nhân có yếu
tố nớc ngoài tại Việt Nam đợc thể hiện ở
một số nội dung chính sau đây:
Thứ nhất, khi bảo vệ quan hệ hôn nhân
có yếu tố nớc ngoài thì các quy định của
pháp luật Việt Nam và các điều ớc quốc tế
mà Việt Nam đ kí kết hoặc gia nhập phải
đợc u tiên áp dụng.
Thứ hai, quy định của điều ớc quốc tế

quốc tế. Quy định này không những khẳng
định chủ quyền quốc gia của Việt Nam trong
việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của công
dân Việt Nam ở nớc ngoài mà nó còn thể
hiện sự tôn trọng của Việt Nam đối với pháp
luật nớc sở tại và pháp luật quốc tế.
Quy định này thể hiện quan điểm của Việt
Nam trong việc tạo điều kiện thuận lợi
thúc đẩy quan hệ quốc tế giữa Việt Nam
với các nớc hữu quan.

(Xem tiếp trang 40)


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status