Vài nét về lịch sử người Minh Hương và người Hoa ở Nam bộ - Pdf 11


Vài nét về lịch sử
người Minh Hương và người
Hoa ở Nam bộ
Vài nét về lịch sử

người Minh Hương và người Hoa ở Nam bộ

Nguyễn Đức Hiệp

E-Mail:

28 tháng 02 năm 2008


Trịnh Hoài Đức viết về Cù lao Phố (18): "Nông Nại (tức Đồng Nai) đại phố, lúc đầu do Trần
Thượng Xuyên khai phá, tức Trần Thắng Tài chiêu tập người buôn nước Tàu đến kiến thiết phố
xá mái ngói tường vôi, lầu cao, quán rộng, dọc theo bờ sông liên lạc dài 5 dặm, chia và vạch
làm 3 đường phố, đường phố lớn lót đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lát
gạch xanh, đường rộng bằng phẳng, kẻ buôn tụ tập, ghe thuyền lớn ở biển và ở sông đến đậu,
ấy là một chỗ đại đô hội mà những nhà buôn bán giàu có ở đây là nhiều nhất hơn thảy những
nơi khác".

Cù lao Phố trở thành một cảng quan trọng đầu tiên của Nam bộ, đón nhận thương thuyền nước
ngoài, hưng thịnh suốt khoảng 90 năm từ khi Trần Thượng Xuyên đến với quân đội, suy thoái
từ khoảng 1775, tức là khoảng sau 90 năm, để nhường cho Chợ Lớn, Bến Nghé (Sài Gòn) sau
này. Trước khi Trần Thượng Xuyên được chúa Nguyễn đưa đến cù lao Phố, đã có người Việt
từ miền Trung đến ở núi Dinh (Mô Xoài) vùng Bà Rịa từ năm 1658 và vùng Long Thành. Nhờ
vậy, khi Trần Thượng Xuyên đến cù lao Phố đã có dân Việt, dĩ nhiên người dân tộc như người
Mạ, người Khmer, Chăm cũng tới lui trao đổi hàng hóa.

Trần Thượng Xuyên đến với quân sĩ và gia đình mang theo, nhiều binh sĩ này vẫn tiếp tục cầm
vũ khí theo đuổi binh nghiệp nhưng một số lập nghiệp tại vùng đất mới. Sau một thời gian, thêm
một số cư dân và thương gia đến sau, với vốn liếng để lập chợ. Cù lao Phố trở thành cảng sầm
uất xuất nhập khẩu, với kho hàng dự trữ hàng hóa nhập vào và dự trữ hàng hóa thâu mua từ
nhiều nguồn của cư dân sống trong vùng Đồng Nai như lâm sản, ngà voi, nai, heo rừng, sừng
tê giác

Nguyễn Hữu Cảnh, do chúa Nguyễn gởi vào sau này để cai quản vùng đất mới, đến Cù lao
Phố ngay lúc cù lao với cảng đang hưng thịnh, nhưng trụ sở hành chánh và đồn binh đặt ở Sài
Gòn. Ông Nguyễn Hữu Cảnh vào cù lao Phố với thủy quân. Khi ông mất ở Rạch Gầm, quan tài
được đưa về Cù lao Phố, rồi từ đấy về miền Trung theo đường thủy, chôn ở quê ông là Quảng
Bình. Chứng tỏ Cù lao Phố lúc đó là cảng quan trọng, sầm uất nơi cập bến của tàu bè khi đi và
đến Đồng Nai, cửa ngỏ của Nam bộ. Hiện nay ở Cù lao Phố còn đền thờ mộ tượng trưng ông,

đây . . Ở đây chúng tôi mua được rất nhiều lúa gạo, ngà voi, sừng tê giác, các hàng tơ lụa, đũi
thật đẹp.”. Cũng theo Crawfurd thì ở Chợ Lớn nhà cửa của thương gia Trung Hoa đồ sộ hơn
nhà cửa của người Việt nhiều. Đang khi John Crawfurd đi thơ thẩn, ba gia đình Trung Hoa loại
khá giả nhất đã ra cửa mời ông vào chơi (20).

Nếu cảng cù lao Phố vẫn còn thì đây là khu phố cổ thương mại thứ hai ở Việt Nam sau phố cổ
Hội An, được thành lập với sự đóng góp lớn của người Hoa. Cách đây 14 năm (1993), mộ
tướng Trần Thượng Xuyên được khám phá nằm ở Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, cạnh hữu ngạn
sông Đồng Nai, mà tôi có dịp đến thăm (9). Đình Tân Lân, ỏ thành phố Biên Hòa, cạnh cù lao
Phố là nơi thờ tướng Trần Thượng Xuyên có sắc phong của vua Minh Mạng. Được xếp hạng là
một di tích lịch sử văn hóa. Đình ở vị trí rất đẹp, trước măt đền là sông Đồng Nai với cây cổ thụ
lớn ngay cạnh sông. Tân Lân là tên gọi của vùng bên phía chợ Biên Hòa nơi tướng Trần
Thượng Xuyên xưa kia đóng quân, sử ghi là xứ Bàn Lân, sau đổi là Tân Lân. Bàn Lân có thể là
do chữ Bằng Lăng nói trại ra. Cây bằng lăng là cây bản địa, mọc rất nhiều trước đây trong vùng
Đồng Nai và Gia Định. Hiện nay cây bằng lan còn có thể tìm thấy trong các rừng còn lại ở Đông
Nam bộ (như rừng Cát Tiên) và một vài tỉnh ở Tây nguyên (Lâm Đồng, Dak Lak).
Văn hóa

Có thể thấy được sinh hoạt văn hóa sinh động của người Hoa trước đây và hiện nay thì không
có gì hơn là đến khu Chợ Lớn. Tôi đi cùng với một người bạn gốc Hoa vào Chợ Lớn thăm
viếng các nhà văn hóa người Hoa. Trong Nhà truyền thống góc đường Triệu Quang Phục và
Nguyễn Trãi (xưa gọi là đường Cây Mai) thường có triễn lãm và các hình ảnh xưa ở Chợ Lớn
cùng các sản phẩm mỹ thuật. Nhà Truyền thống trước đây là nhà hát Tam Đa của người Hoa
trong vùng. Cạnh nhà truyền thống ở số 137 đường Triệu Quang Phục là trụ sở Hội Văn học
Nghệ thuật các dân tộc, chủ yếu là của người Hoa. Trụ sở là Hội quán của chùa bà (Thiên Hậu)
cho mượn. Chùa Thiên Hậu nằm ở góc đường Nguyễn Trãi và Triệu Quang Phục. Đường Triệu
Quang Phục xưa là đường Canton (Quảng Đông) trong thời Pháp và là trung tâm Chợ Lớn.


Lần trùng tu cuối cùng của đình là vào năm 1921. Trong đình, bên phải thờ Trần Thượng
Xuyên (có 2 di ảnh tướng Trần Thượng Xuyên) và Nguyễn Hữu Cảnh, bên trái thờ Trịnh Hoài
Đức và Ngô Gia Tịnh. Cạnh đó là 1 chuông đồng do vua Minh Mạng tặng, với sắc phong và
chuyển tên từ làng thành đình. Chuông được gióng một năm một lần vào ngày 16/1. Sau chánh
điện là sân rất rộng gọi là Thiên Quang Tỉnh (giếng trời). Đình Minh hương Gia Thạnh cũng là
nơi tề tựu, gặp gỡ của nhóm Bình Dương thi xã, sáng lập bởi Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh,
Lê Quang Định, với nhiều nhân sĩ đến đây để ngâm thơ, xướng họa vào cuối thế kỷ 18 và đầu
thế kỷ 19.

Chùa Giác Lâm là ngôi chùa thuộc loại xưa nhất Saigon. Chùa nằm ở Phú Thọ Hoà kế quận 5
(nay là đường Lạc Long Quân, quận Tân Bình), vẫn còn giữ nguyên không thay đổi nhiều sau
bao năm từ lúc thành lập. Chùa được cư sĩ người Minh hương tên là Lý Thụy Long xây dựng
vào năm 1744 ở vùng thanh vắng nhiều cây cối không xa chùa Cây Mai và Gò cây mai, một nơi
thanh lam thắng cảnh của Gia Định mà Gia Định thi xã của Trịnh Hoài Đức thường hay nhóm
họp làm thơ. Lý Thụy Long có tên riêng là Cẩm, chuyên nghề đan đệm bán nên người địa
phương gọi là ông Cẩm Đệm. Vì thế chùa còn có tên là Cẩm Sơn, Sơn Can hay Cẩm Đệm.
Năm 1772 hòa thượng Viên Quang tới trụ trì, từ đó mới đổi tên chùa là Giác Lâm. Khi xưa lúc
chùa được xây dựng như một cái am, xa cư dân, rất thanh vắng, cây cối rậm rạp, thích hợp cho
sự tu dưỡng, tu hành. Trong quyển Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức đã miêu tả cảnh
chùa như sau: "Chùa toạ lạc trên gò Cẩm Sơn, cách phía Tây lũy Bán Bích ba dặm , cây cao
như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tuy nhỏ mà nhã
thú! ". Chùa hiện nay được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.

Nghề làm gốm là nghề tiểu công nghiệp lâu đời, bắt đầu từ khi người Minh hương đến định cư
ở xứ Đồng Nai. Hiện nay ở tỉnh Đồng Nai và Bình Dương, đa số các chủ lò gốm là do người
Việt gốc Hoa, hay Minh hương đảm trách. Họ đã làm nghề này cha truyền con nối bao nhiều
đời cho đến nay. Đây là hai trung tâm gốm sứ lớn nhất Nam bộ với nhiều thợ, nghệ nhân người
Hoa. Vào thế kỷ 18, đã tồn tại một trung tâm gốm sứ mang tên Xóm Lò Gốm ở vùng quận 8,
Thành phố Hồ Chí Minh (phía Chợ Lớn). Xung quanh vùng này còn có nhiều địa danh như Lò


Hên: Do Hưng. Triều Châu đưa vào và họ đọc là Hinh thì đáng lý ta phải viết là Hênh.

Xui: Tiếng nầy đất Bắc có nhưng vay mượn lâu đời hơn và nói là Xúi Quẩy. Do chữ Suy mà ra,
đọc theo Triều Châu, Hên Xui = May Rủi.

Khổ Tai: Một món ăn khác mà dân miền Nam rất ưa và họ gọi là KHỔ TAI. do người Triều
Châu đọc Hô Tai (Hải Táo), một thứ rong biển mà họ nấu với đường để bán cho dân miền Nam
ăn.
Các từ gốc Quảng Đông

Xí Mụi: do Quảng Đông gọi Xíu Mụi, chữ Nho là Tiêu Mai.

Công xi: Công Ty, do Quảng Đông đưa vào.

Hủ tiếu: Không biết chữ ra sao, nhưng do Quảng Đông đưa vào, họ nói là Phải, không hiểu sao
ta lại biến thành Hủ Tiếu.

Xíu Mại: Không biết chữ nghĩa ra sao, nhưng đa số các món ăn đều do Quảng Đông đưa vào.

Chạp Phô: Chỉ là Tạp hóa. Nhưng chính người Quảng Đông lại cho nó cái nghĩa hạn chế là
thực phẩm: trứng vịt, tôm khô, cá khô,v.v. còn các cửa hàng bán các thứ khác cũng tạp nhạp lại
không được gọi là chạp phô.

Giò Chá Quảy: Thật đúng là Dầu chá quảy tức con quỷ nướng trong dầu, chỉ loại bánh bột mì
chiên mỡ.


không khác gì đường Trần Hưng Đạo, Chợ Lớn. Trên đường Trần Minh Phú góc đường Ngô
Quyền là Hội tương tế người Hoa (18-20 Trần Minh Phú) gần bờ sông Sóc Trăng. Một trong
những nhân vật văn hóa nổi tiếng sinh ra ở Sóc Trăng là ông Vương Hồng Sển, người gốc
Triều Châu. Ông đã ghi lại và sưu tập những chuyện xưa, sự kiện từ đầu thế kỷ 20 xảy ra ở
Nam bộ và vùng Saigon Gia Định, để lại nhiều tài liệu quý giá. Hiện nay bộ sưu tập gốm của
ông được đặt ở phòng mang tên Vương Hồng Sển trong Viện Bảo tàng Lịch sử, Thành phố Hồ
Chí Minh.

Bảo Lộc: Thị trấn lớn và trù phú nhất Lâm Đồng sau Đà Lạt là Bảo Lộc, giàu có nhờ các đồn
điền trà và cafe chung quanh vùng. Ở đây có cộng đồng người Hoa khá đông so với các vùng
khác trong tỉnh. Tôi có ghé vào tiệm bán trà, cafe Lâm Kim Hoa của người Hoa. Chủ là 2 chị em
gốc Phúc Kiến, người chị đang ở Mỹ, có đồn điền mướn nhiều công nhân và người giúp việc ở
tiệm trưng bày và thử trà, cafe. Gần Ninh Chữ, Ninh Thuận, có một nghĩa trang Triều Châu, ở
Phan Rang cộng đồng người Hoa có khoảng từ 3000 đến 4000 người.

Không thể liệt kê hết các nhân vật người Minh hương từ trước đến nay trong quá trình lịch sử
nhiều thời đã đóng góp vào văn hóa Việt Nam như Võ Trường Toản, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang
Định, Ngô Nhân Tịnh, Phan Thanh Giản, Mạc Thiên Tích, Vương Hồng Sển Ở đây chỉ nêu lên
vài nhân vật tiêu biểu của các thời kỳ đã qua trong lịch sử.Trịnh Hoài Đức

Ông nổi tiếng và được nhớ đến nhiều trong lịch sử không phải là vì ông là một vị đại thần dưới
hai triều vua Gia Long và Minh Mạng được trọng dụng và làm đến chức Thượng thư bộ Hộ mà
là vì tác phẩm “Gia Định thành thông chí “ có giá trị văn hóa, địa chí về miền Nam trong giai
đoạn mở mang cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Tác phẩm duy nhất này về miền Nam thời khai
hoang mở đất, cho ta những tư liệu quí giá về con người, phong tục, đất đai, địa chí, lịch sử
Nếu nhà bác học Lê Quí Đôn có Vân Đài Loại Ngữ cho Bắc và Trung bộ thì Trịnh Hoài Đức có
“Gia Định thành thông chí” cho giai đoạn miền Nam mở đất.

Hoa sen sum suê vươn cao lên trong nước

Tắm xong, chim âu thu lông ngọc lại

Tìm mộng, bước chân trôi nổi đi theo các lọng xanh

Quên đời khách nhàn nhã gối đầu vào cỏ thơm,

Gần chim thước khéo léo lấy vỏ gốc cây dâu (để làm tổ)

Mặc chim oanh lanh lợi dệt cành liễu

Các cô g ái đến hái sen đ ừng làm kinh động

Hẹn cũ * còn chờ theo nước triều lên. )

* Hẹn cũ: Dịch chữ Hán “cựu minh” do điển “âu minh” chỉ người ở ẩn chốn mây nước như có
ước hẹn làm bạn với chim âu

Năm 1825, ông mất ở Phú Xuân, linh cửu được tổng trấn Lê Văn Duyệt thân hành hộ tống đưa
về quê mẹ ở Biên Hoà chôn ở phường Trung Dũng, không xa Cù Lao phố. Năm 1938, trường
Viễn đông Bác cổ xếp mộ ông là di tích bảo tồn và hiện nay là di tích lịch sử quốc gia.Diệp Văn Cương, Diệp Văn Kỳ

Diệp Văn Cương, hiệu Thọ Sơn, bút hiệu Yên Sa, vì quê quán ông ở An Nhơn (gần Gò Vấp),
Gia Định. Thuở nhỏ, Diệp Văn Cương giỏi chữ Hán và quốc ngữ nên được học bổng du học và
đỗ tú tài ở Pháp. Ông về nước dạy tại trường Chasseloup Laubat (tục danh trường “Bổn
quốc”)(1). Sau làm thông ngôn cho toà Khâm sứ Huế và là thầy dạy học cho vua Đồng Khánh.

nhiều nhà văn, nhà báo như Mộng Đài, Tản Đà

Ông giúp đỡ thi sĩ Tản Đà, khi Tản Đà thất bại làm báo “An Nam tạp chí” thiếu nợ phải vào Nam
kiếm sống khoảng năm 1926, trong lúc tình cờ gặp Tản Đà đang lang thang trên đường Catinat
(đường Đồng Khởi) trước nhà hàng Continental mà ông và một số bạn đang ngồi bên trong.
Mến tài Tản Đà, ông cho 2000$ (một số tiền lớn thời đó) để Tản Đà trở ra Bắc trang trãi nợ nần
và vào Nam viết cho tờ Đông Pháp thời báo. Ông trã rất hậu hĩnh mỗi tháng cho thi sĩ Tản Đà
bằng tiền lương quận trưởng (12) và giúp đỡ định cư ở Saigon (Xóm Gà, Gia Định) trong ngôi
nhà rộng, tĩnh mịch để thi sĩ có cảm hứng. Tuy vậy thi sĩ Tản Đà cũng có lúc báo sắp lên khuôn
mà chưa thấy đưa bài. Ông Kỳ phải kêu tùy phái vào Xóm Gà để hối thúc bài. Tản Đà vẫn thản
nhiên thốt một câu lịch sử để đời trong văn học “Làm thơ đâu phải bửa củi mà muốn lúc nào có
lúc ấy”.

Nhà thơ thời tiền chiến Mộng Đài cũng là một người thuở còn trẻ khi vào Saigon đã được ông
giúp đỡ. Trong dịp cùng với nhà báo Hoa Đường xông đất đầu năm đến nhà Diệp Văn Kỳ thăm,
Mộng Đài viết trong hồi ký như sau

“Sau khi cho phép Hoa Đường múa “Gioọc” (“Giọc” là giọc tẩu, ống hút thuốc phiện) đầu năm,
cụ Diệp quay lại nắm lấy tay tôi và bằng giọng thật ấm áp nói:

-“Xừ Mạnh đến với anh, anh chẳng biết chúc gì cho chú em mà chỉ có mỗi bài thơ này tặng
nhau ngày Xuân”.

Rồi cụ Diệp cất tiếng cao ngâm bài thơ ứng khẩu ấy như sau:

Cái kiếp trần duyên, kiếp đọa đày

Non Tiên sao khéo lạc loài đây?!

Trớ trêu thu thủy hoa in nguyệt

Vương Hồng Sển

Sinh ở Sóc Trăng, trong gia đình gốc Phúc Kiến đã định cư từ lâu đời ở Sóc Trăng. Ông là nhà
văn rất Nam bộ trong cuộc sống và phong cách viết văn. Những tư liệu, dữ kiện, biến cố, nhân
vật và nhận xét ông thâu thập trong suốt từ các năm ở thập niên 1920 cho đến hết thế kỷ 20 ở
miền Nam và các nơi ông có dịp viếng thăm mà ông viết ra là những tài liệu lịch sử và văn hóa
quý giá cho những ai muốn tìm hiểu về những vùng đất, tỉnh thành ở miền Nam. . Khi còn trẻ ở
Sóc Trăng, ông làm công chức Phó ban hành chánh của chính phủ thời Pháp thuộc rồi sau đó
lên Saigon làm quản thủ thư viện trong Viện bảo tàng Saigon. Ông có trí nhớ rất giỏi từng chi
tiết, rất mê sưu tầm tư liệu lớn, nhỏ và đồ cổ như đồ gốm sành, sứ.

Cùng thời với Sơn Nam, ông ít viết truyện nhưng rất nhiều bút ký. Văn ông rất bình dân, dễ đọc
và có duyên. Ngoài các nhân vật nổi tiếng ông có gặp và viết như Nguyễn An Ninh, Phan Văn
Hùm, Nguyễn Văn Sâm, Ngô Đình Nhu , ông còn viết về những người thân, người thầy, người
bạn, quen biết trong sở làm, học đường, nhà trọ đủ mọi tầng lớp trong xã hội. Hãy xem một
đoạn ông viết về Nguyễn An Ninh

“Tôi làm quen với ông Ninh nhờ mua báo bằng Pháp văn đối lập chống chánh phủ đương thời,
gọi là La Cloche fêlée (Cái chuông rè) do ông một mình vừa chủ trương, vừa viết báo, và vừa
bổn phận đứng khắp Sài Gòn, mình mặc áo trắng, đi xe đạp, tay ôm mớ nhật trình, miệng rao
lanh lẹ và chạy bán từ số, từ tờ cho mấy ông mấy thầy, bất chấp cách lườm ngó đầy ác ý và
tiếng nặng nhẹ của nhóm thực dân, từ thằng biện chà gác đường đến thằng Cọt (Corse) ngồi
nhà hàng uống rượu khai vị xưng mình là người cai trị da trắng mà sức học chưa có tới mảnh
xẹt-ti-fi-ca (certificat)

Nhưng mỗi tuần vào khoảng tháng hai tháng ba tây năm 1926 cứ mỗi thứ hai và thứ năm lối
bảy tám giờ tối không sót ngày nào, ai muốn gặp Ninh cứ lại trước nhà hàng Yeng yeng thì
gặp, không trật bữa nào Trước khi giáp mặt chị em, tôi thường mua một tờ Chuông Rè để
lấy le. Nhưng ông Ninh sau khi bán cho tôi đều đều, lại lầm tưởng, cho tôi đúng là nhà ái quốc
có gan, không nữa cũng một tay cừ nào đó có sạn trong đầu. Một đôi khi sau khi nhận của tôi

Lý Lan

Nhà văn Lý Lan, sinh năm 1957 ở quê mẹ Bình Dương, quê nội ở Quảng Tây. Trưởng thành
trong Chợ Lớn và dạy học ở Cần Giuộc. Chị là nhà giáo và cũng là nhà văn viết nhiều truyện
ngắn với giọng văn tinh tế, ý nhị và đượm tình người. Trong những năm ở thập niên 1980, tôi
đã đọc các truyện và tuỳ bút của Lý Lan trên báo Tuổi trẻ, và các tập truyện như Nơi bình yên
chim hót, Chút lãng mạng trong mưa. Những chi tiết trong đời sống thường ngày ở trong phố, ở
người chung quanh trong xã hội Việt Nam mà thường ta không để ý, được chị viết rất ý nhị với
văn trong sáng và cảm thông với người và cảnh. Một Thạch Lam mới trên văn đàn văn học Việt
Nam. Các tác phẩm của Lý Lan rất được ưa chuộng, đánh giá cao và được coi là nhà văn
chững chạc có tiếng với nhiều độc giả trong nhiều năm qua. Ngoài ra chị cũng viết các truyện
thiếu nhi như quyển Ngôi Nhà Trong Cỏ (1984) được giải thưởng văn học thiếu nhi của Hội
Nhà văn Việt Nam. Năm 2005, tập thơ Là Mình được giải thưởng thơ hội Nhà Văn Thành Phố
Hồ Chí Minh.

Các năm gần đây chị cũng là dịch giả các bộ Harry Potter ra tiếng Việt. Lý Lan hiện đang sống
ở Mỹ, cho rằng Hoa kiều trong giai đoạn trước 1975 có văn học tiếng Hoa riêng ở Chợ Lớn và
chị đang khuyến khích các nhà văn gốc Hoa ở Việt Nam viết hình thành một văn học Hoa văn
như các văn học Hoa văn khác ở Singapore, Mã Lai, Hongkong, Đài Loan và viết một tuyển tập
(anthology) về văn học Hoa ở Việt Nam. Lý Lan thường viếng quê nhà và vẫn còn sáng tác,
cộng tác với các báo và xuất bản các tác phẩm trong nước mà gần đây nhất là tác phẩm Miên
man tùy bút.
Kinh tế

Hiện nay 30% doanh nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh là do người Hoa làm chủ, như các công
ty lớn Bitis, Sacombank và các cơ sở thương mãi Thuận Kiều Plaza, An Đông Plaza. Chúng ta
cũng nên để ý là trong khi chủ người Hoa hiện nay của công ty nước uống lớn nhất ở Phi Luật

bất động sản ở trung tâm Saigon trên đường Nguyễn Huệ và Lê Lợi của công ty Hui Bon Hoa
được cho mướn. Công ty này được tiếng là rất "biết điều" và không eo sách, làm khó người
mướn phố. Các con cháu của "Chú Hỏa" luôn luôn hòa thuận, gia tài giử nguyên vẹn không
chia phần manh mún, chỉ cùng nhau chia lợi tức, và mổi khi cần dùng một số tiền to tát thì
người trong họ phải xin chử ký của người trưởng huynh khi ấy ngân hàng mới phát bạc.

Cùng thời với chú Hoả là một người Việt gốc Hoa nổi tiếng ở Lục Tỉnh, Chú Hỷ. Ông cạnh tranh
với công ty Pháp, công ty Vận tải đường sông rạch "Compagnie des Messageries fluviales"
chuyên chở hàng và người trên sông ngòi miền Tây nam bộ. Tàu Chú Hỷ giá vé rẻ hơn và hành
khách được lo chu đáo. Bởi vậy có câu " Đi tàu Chú Hỷ, ở phố Chú Hỏa".

Hồi về thăm Việt Nam đầu năm 2007, tôi có viếng nhà của chú Hỏa ngày xưa (nay là viện Mỹ
thuật thành phố), và có may mắn nói chuyện với chị giám đốc về đề tài chú Hỏa. Ngoài các toà
nhà bên cạnh Viện, chú Hoả ngày xưa còn xây khách sạn Majestic ngay bến Bạch Đằng cạnh
sông Saigon, Bệnh viện Saigon và các dinh thự khác ở Saigon, Vũng Tàu theo kiểu nhà Tây.
Vào dịp viếng thăm Vũng Tàu, tôi có dự đám cưới con nhà văn Xuân Sách ở khách sạn Palace.
Xưa kia khách sạn Palace là biệt thự của chú Hỏa. Ngày nay thì hiện đại nhưng mất đi dáng cổ
kính của kiến trúc Tây ngày xưa. Giữa sân vào khách sạn giờ đây là một hồ bơi rất sang của
khách san, nhưng bên cạnh vẫn còn cây cổ thụ to lớn mấy người ôm cũng không xuể, tàn lá
xum xuê.

Ngày nay ta có thể đến thăm một căn nhà của chú Hỏa trên đường Phó Đức Chính, gần chợ
Saigon. Toà nhà này hiện nay là Viện Mỹ Thuật thành phố Hồ Chí Minh, bên cạnh trụ sở của
bộ Văn hóa Thông tin thành phố đồ sộ không kém (xưa kia cũng là nhà của chú Hỏa). Giá vé
vào cửa thăm quan rất rẽ (5000 đồng). Tòa nhà Bảo tàng Mỹ Thuật đồ sộ, rất đẹp, xưa kia là
của chú Hỏa (Hứa Văn Bon). Tổng thống Mỹ Bill Clinton khi dến Saigon đã có viếng thăm Viện
Bảo tàng Mỹ thuật này. Rất ít khách Việt, đa số là khách nước ngoài nhưng tuy vậy vẫn còn rất
vắng vẽ. Giữa tòa nhà 3 tầng là một sân lớn, chung quanh là các phòng với sân ban công
(balconỵ) và hành lang nhìn mở ra phía sân trong.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status