Báo cáo "Về quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự của Viện kiểm sát " pot - Pdf 11



nghiên cứu - trao đổi
10 tạp chí luật học số 11/2009 Ths. Nguyễn Thị Thu Hà *
1. Khỏi quỏt v quyn khỏng ngh phỳc
thm dõn s ca vin kim sỏt mt s nc
Quyn khỏng ngh theo th tc phỳc
thm dõn s ca vin kim sỏt cỏc nc
c quy nh rt khỏc nhau. cỏc nc
theo truyn thng lut ỏn l (nh Anh, Hp
chng quc Hoa K) xut phỏt t nguyờn
tc tụn trng quyn t nh ot ca ng
s v vỡ tranh chp, mõu thun dõn s l ca
cỏc ng s nờn m bo nguyờn tc
khụng cú li ớch thỡ khụng c quyn kin
dõn s hay khỏng cỏo
(1)
nờn vic yờu cu
xột x li v ỏn theo th tc phỳc thm ch
da trờn quyn khỏng cỏo ca ng s. Thm
chớ, cỏc nc ny cũn cho rng trong quan
h dõn s, kinh t, lao ng cng ớt s can
thip ca cụng quyn cng tt.
(2)
Do ú,

t tng dõn s Cng ho Phỏp, vin cụng t
cú th tham gia t tng dõn s vi t cỏch l
mt bờn chớnh t (tc bờn ng s) hoc vi
t cỏch l bờn ph t.
(5)
Vi t cỏch l bờn
chớnh t tc l khi vin cụng t khi kin, yờu
cu gii quyt v vic dõn s nh yờu cu
tuyờn b mt ngi l mt tớch hoc ó cht,
yờu cu liờn quan n yờu cu hu vic kt
hụn trỏi phỏp lut, yờu cu to ỏn tc quyn
ca cha m i vi con, yờu cu to ỏn ch
nh ngi qun lớ di sn tha k (iu 88,
122, 184, 191, 378-1, 812 B lut dõn s
Phỏp), vin cụng t cú quyn khỏng cỏo
phỳc thm. Vi t cỏch l bờn ph t tc l
khi vin cụng t phỏt biu quan im v vic
ỏp dng phỏp lut trong cỏc v vic dõn s
m vin cụng t c thụng bỏo nh cỏc v
vic liờn quan n quan h cha m v con, t
* Ging viờn Khoa lut dõn s
Trng i hc Lut H Ni nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học số 11/2009 11

chc giỏm h i vi ngi cha thnh niờn,
m th tc giỏm h hoc thay i vic giỏm
h i vi ngi thnh niờn, phỏ sn doanh

kim sỏt viờn cú quyn khỏng cỏo phỳc thm
vi t cỏch l mt bờn ng s. Khi kim
sỏt viờn tham gia t tng v phỏt biu kt
lun i vi nhng v ỏn liờn quan n vic
buc i ni khỏc, yờu cu khụi phc vic
lm, yờu cu ũi bi thng thit hi do b
xõm phm tớnh mng hoc sc kho hoc
trong nhng trng hp khỏc do phỏp lut
quy nh thỡ kim sỏt viờn ch cú quyn a
ra vn bn ngh to ỏn xột x li v ỏn
dõn s theo th tc phỳc thm (iu 336
BLTTDS Liờn bang Nga).
S d cỏc nc cú s khỏc nhau trong
cỏc quy nh ca phỏp lut t tng dõn s v
quyn khỏng ngh phỳc thm ca vin kim
sỏt l do cỏc quc gia cú s khỏc nhau v
nguyờn tc t chc v thc hin quyn lc
nh nc, trỡnh dõn trớ, ý thc phỏp lut
v truyn thng phỏp lut. Tuy nhiờn, quy
nh v s tham gia ca vin kim sỏt trong
t tng dõn s núi chung v quyn khỏng
ngh phỳc thm núi riờng cỏc nc theo
truyn thng phỏp lut khỏc nhau u cú
nhng u im v nhc im nht nh.
Hin nay, khc phc nhng hn ch, quy
nh ca phỏp lut t tng dõn s v quyn
khỏng ngh phỳc thm ca vin kim sỏt
cỏc nc ang cú xu hng xớch li gn
nhau, loi b dn nhng yu t khụng hp lớ
v chp nhn nhng u im ca h thng

2/12/1921), Bộ luật dân sự, thương sự tố
tụng Trung Kì năm 1942. Ở Nam Kì, ba
thành phố nhượng địa của Pháp (Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng) và hai thành phố khác là
Nam Định và Vinh, các toà án Pháp áp dụng
BLTTDS của Pháp năm 1806 và Bộ luật dân
sự tố tụng Nam Kì năm 1910 (tức Nghị định
ngày 16/3/1910).
Ở Bắc Kì và Trung Kì, hệ thống tổ chức
các toà án Việt Nam thời kì này không khác
gì so với trước thời Pháp thuộc, “nguyên
tắc phân quyền hành chính và tư pháp,
nguyên tắc phân biệt cơ quan truy tố, thẩm
cứu và xét xử để ngăn giữ sự độc quyền của
thẩm phán… đều không được đem ra thi
hành”.
(8)
Vì vậy, các Bộ luật dân sự, thương
sự tố tụng Bắc Kì, Bộ luật dân sự, thương
sự tố tụng Trung Kì đều không có quy định
nào về quyền kháng nghị phúc thẩm của
viện kiểm sát.
Quyền kháng cáo phúc thẩm dân sự của
viện kiểm sát do người Pháp du nhập vào
Việt Nam áp dụng tại các toà án Pháp. Theo
quy định tại Điều 46 Luật tổ chức tư pháp và
điều hành công lí của Pháp ngày 20/4/1810
và Điều 13 Nghị định ngày 16/3/1910 thì
viện kiểm sát có quyền khởi tố vụ án dân sự
theo quy định của pháp luật hoặc giám sát


Ở miền Nam, ngày 16/9/1954, chính quyền
Sài Gòn kí kết hiệp định thu hồi hoàn toàn
chủ quyền độc lập, quyền kháng cáo phúc
thẩm của viện kiểm sát được quy định tại Dụ
số 4 ngày 18/10/1949 về tổ chức nền tư pháp
Việt Nam. Điều 56 chỉ dụ này (được sửa đổi
bằng Dụ số 66 ngày 24/8/1951) quy định:
“Trong vụ án, công tố viện hoặc đứng địa vị
chánh tố hoặc đứng địa vị phụ tố. Về dân sự,
công tố viện sử dụng tố quyền trong những
trường hợp do luật minh định. Công tố viện nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 11/2009 13

cũng có thể hành động trong những trường
hợp liên quan một cách trực tiếp và cốt yếu
đến trật tự công cộng. Công tố viện giám sát
việc thi hành luật pháp, án văn và đốc thúc
sự thi hành đó về những điều khoản có quan
hệ đến trật tự công cộng”.
(12)
Như vậy, với
tư cách chánh tố, viện kiểm sát có quyền
khởi tố vụ án dân sự và có quyền kháng cáo
theo thủ tục phúc thẩm. Với vai trò phụ tố là
đại diện cho xã hội, bảo vệ trật tự công cộng,
viện kiểm sát có thể kháng cáo phúc thẩm đối

mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt
Nam quy định về tổ chức toà án nhân dân và
viện kiểm sát nhân dân. Theo Điều 16 của
Sắc luật này, viện kiểm sát có quyền kháng
nghị đối với các bản án và quyết định của
toà án nhân dân thấy cần xem xét lại.
Sau đó, quyền kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm dân sự của viện kiểm sát tiếp tục
được quy định trong Luật tổ chức viện kiểm
sát nhân dân năm 1981, Luật tổ chức viện
kiểm sát nhân dân năm 1992, Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm
1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh
chấp lao động năm 1996. So với các quy định
trong các văn bản pháp luật được ban hành
trước, quyền kháng nghị phúc thẩm dân sự
của viện kiểm sát có điểm khác biệt rất lớn.
Thứ nhất, khi viện kiểm sát được thành
lập thay cho viện công tố thì quyền yêu cầu
toà án cấp trên xem xét lại vụ án dân sự theo
thủ tục phúc thẩm của viện kiểm sát được
gọi là kháng nghị chứ không gọi là kháng
cáo như trước đây. Sở dĩ có thay đổi này bởi
lẽ quyền kháng cáo thuộc về những người
tham gia tố tụng có quyền và lợi ích pháp lí
liên quan đến vụ án. Chỉ có những chủ thể
mà quyết định của toà án cấp sơ thẩm làm
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của
họ và họ cho rằng quyết định của toà án về

pháp luật đã ban hành trước đây, các quy
định về quyền kháng nghị phúc thẩm của
viện kiểm sát trong các văn bản pháp luật
này không có gì khác và phạm vi kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm dân sự của viện kiểm
sát vẫn không bị giới hạn. Trong bất kì
trường hợp nào, khi viện kiểm sát không
đồng ý với quyết định giải quyết vụ án của
toà án cấp sơ thẩm thì đều có quyền kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với một
phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định sơ
thẩm kể cả trong trường hợp các đương sự
đã hài lòng với bản án, quyết định của toà án
cấp sơ thẩm và không kháng cáo. Tuy nhiên,
điều này có vi phạm đến nguyên tắc quyền
tự định đoạt của các đương sự hay không?
Theo chúng tôi, việc quy định quyền
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của viện
kiểm sát là cần thiết để bảo đảm pháp luật tố
tụng dân sự được thực hiện nghiêm chỉnh và
thống nhất. Hơn nữa, “so với viện công tố các
nước, nhiệm vụ và quyền hạn của viện kiểm
sát trong tố tụng dân sự ở Việt Nam được quy
định rộng hơn nhiều. Ngoài quyền tham gia
tố tụng như viện công tố các nước, viện kiểm
sát còn được trao thêm thẩm quyền đặc thù
của một cơ quan thực hiện chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật”.
(14)



và thủ tục tố tụng nhưng các đương sự đều
đồng ý với cách giải quyết đó của toà án cấp
sơ thẩm và không kháng cáo thì không có lí
gì vụ án đó lại bị xét xử lại bởi kháng nghị
của viện kiểm sát. Việc kháng nghị trong
trường hợp này sẽ ảnh hưởng đến tính dứt
điểm của bản án, quyết định.
Thứ hai, việc kháng nghị của viện kiểm
sát khi các đương sự không kháng cáo đã
phá vỡ nguyên tắc bình đẳng trong tố tụng
dân sự bởi lẽ khi viện kiểm sát kháng nghị
thì viện kiểm sát phải đưa ra các chứng cứ,
căn cứ pháp lí và các lí lẽ, lập luận để chứng
minh cho kháng nghị của mình là có căn cứ,
hợp pháp và đưa ra hướng giải quyết vụ án.
Điều này đương nhiên sẽ dẫn đến việc sẽ có
một bên đương sự không đồng ý với ý kiến
của kiểm sát viên và họ sẽ trực tiếp tranh
luận với kiểm sát viên, thậm chí có thể dẫn
đến những xung đột với kiểm sát viên. Như
vậy, việc kháng nghị của viện kiểm sát trong
trường hợp này không những làm ảnh hưởng
đến uy tín của cơ quan tư pháp mà còn “phá
vỡ kết cấu cân bằng trong tố tụng dân sự,
ảnh hưởng đến thẩm phán thực thi độc lập
quyền xét xử, làm lẫn lộn giới hạn rõ ràng
giữa quyền xét xử và quyền kiểm sát”.
(15)


định liên quan đến lợi ích công, liên quan
đến người bị tuyên bố là mất tích hoặc đã
chết, những vụ án mà viện kiểm sát khởi
tố… Đối với những bản án, quyết định khác
có thể chưa phù hợp về nội dung nhưng nếu
không vi phạm về thủ tục tố tụng thì viện
kiểm sát không kháng nghị, nếu cần thiết thì
đương sự sẽ kháng cáo nhằm bảo đảm quyền
tự định đoạt của đương sự.
(18)

Quan điểm thứ ba cho rằng viện kiểm sát
chỉ kháng nghị phúc thẩm khi phát hiện có
sự vi phạm về thủ tục tố tụng để tôn trọng
quyền tự định đoạt của đương sự.
(19)

Quan điểm thứ tư cho rằng viện kiểm sát
chỉ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối
với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp
luật nếu nó xâm phạm đến lợi ích của Nhà
nước, của xã hội, lợi ích của người chưa
thành niên, người có nhược điểm về thể chất
hoặc tâm thần còn đối với các trường hợp
khác, viện kiểm sát chỉ kháng nghị khi nghiªn cøu - trao ®æi
16 t¹p chÝ luËt häc sè 11/2009


hoặc quyền tự định đoạt của các đương sự có
khả năng xâm phạm đến lợi ích công cộng
như lĩnh vực môi trường, quyền lợi của
người tiêu dùng thì viện kiểm sát lại không
thể kháng nghị để bảo vệ thì thật là vô lí.
Quan điểm thứ hai và thứ tư có những
nhân tố hợp lí đó là viện kiểm sát kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm đối với các bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật nếu nó xâm phạm đến lợi ích công cộng,
lợi ích của người chưa thành niên, người có
nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, người
bị toà án tuyên bố mất, hạn chế năng lực
hành vi dân sự bởi đây là những việc có tính
chất công và mang ý nghĩa xã hội. Do đó,
viện kiểm sát đứng về phía các bên đương sự
cần được bảo vệ, có thể kháng nghị phúc
thẩm để yêu cầu toà án cấp trên xét xử lại vụ
án dân sự khi lợi ích của những người này bị
xâm phạm. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng
viện kiểm sát không cần thiết phải kháng
nghị phúc thẩm đối với các bản án, quyết
định sơ thẩm trong trường hợp có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng như quan điểm
thứ hai. Bởi vì, có những bản án, quyết định
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật có vi
phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng như
toà án không hoà giải trước khi xét xử sơ
thẩm, toà án giải quyết vụ án sai thẩm
quyền, thành phần hội đồng xét xử không

quyền can thiệp với tư cách là một bên
đương sự và họ có quyền kháng cáo bản án,
quyết định của toà án cấp sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật.
Từ những phân tích trên, theo chúng tôi,
Điều 250 BLTTDS nên quy định theo hướng:
“Viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp và cấp
trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật nếu nó xâm phạm đến lợi ích công cộng,
lợi ích của người chưa thành niên, người có
nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, người
bị toà án tuyên bố mất, hạn chế năng lực
hành vi dân sự. Còn đối với các trường hợp
khác, viện trưởng viện kiểm sát chỉ kháng
nghị khi đương sự không phản đối”./.

(1).Xem: Tống Công Cường, Luật tố tụng dân sự Việt
Nam - Nghiên cứu so sánh, Nxb. Đại học quốc gia TP
Hồ Chí Minh, 2007, tr. 361.
(2).Xem: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cải cách bộ
máy nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX
của Đảng với việc xác định vị trí, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức của viện kiểm sát nhân dân,
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội, 2001.
(3). Thuật ngữ “Viện kiểm sát” hay “Viện công tố” là
cách gọi khác nhau về một cơ quan có vị trí độc lập
trong bộ máy nhà nước có chức năng thực hành
quyền công tố và các quyền khác theo quy định của
pháp luật. Trong bài viết này chúng tôi sử dụng thống

dân Trung Hoa, Thông tin khoa học pháp lý năm
2004, tr. 98.
(16).Xem: Star - Vietnam, Bình luận của Star về các
quy định liên quan đến thủ tục xét xử phúc thẩm,
giám đốc thẩm tại Dự thảo lần thứ 12 BLTTDS năm
2004, tr. 3.
(17).Xem: TS. Trần Văn Trung, Vai trò của Viện kiểm
sát trong tố tụng dân sự, Tlđd.
(18).Xem: TS. Trần Văn Trung, "Một số vấn đề về vị
trí, vai trò của viện kiểm sát trong Dự thảo BLTTDS”,
Tạp chí toà án nhân dân, số 5/2004, tr. 17.
(19).Xem: Đào Duy Vương, Thủ tục giải quyết vụ án
dân sự tại Toà án cấp phúc thẩm theo pháp luật Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học năm 2007, tr. 110.
(20).Xem: Nguyễn Công Bình, “Nguyên tắc bảo đảm
việc xét xử hai cấp trong tố tụng dân sự”, Tạp chí luật
học, số 3/1999, tr. 24.
(21).Xem: Star - Vietnam, Tlđd, tr. 7.


Nhờ tải bản gốc
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status