Báo cáo " Phát triển bền vững và Quản lý toàn cầu " doc - Pdf 11

The Journal of Environment & Development
Volume 16 Number 1
March 2007 102-125
© 2007 Sage Publications
10.1177/1070496506298147

hosted at Phát triển bền vững và Quản lý toàn cầu
(Sustainable Development and Global Governance)

Clive George
University of Manchester

Những khó khăn để đạt tới sự phát triển bền vững đã được phản ánh trong một số
căng thẳng ngay trong quá trình phát triển, thể hiện theo 3 hướng tiếp cận: Chấp nhận
phát triển kinh tế tách rời các thách thức của phát triển xã hội, theo quan điểm này mục
đích phát triển kinh tế có thể đáp ứng phát cho sự triển xã hội; giá trị kinh tế của môi
trường sẽ loại trừ sự khác biệt giữa môi trường và các mục tiêu kinh tế; không phân biệt
sự khác nhau giữa phát triển của các nước đang phát triển và phát triển của các nước đã
phát triển. Những sự căng thẳng này trên thực tế là khó tránh khỏi. Một nghiên cứu thực
tiễn đã làm sống lại sự nghi ngờ về tính đồng nhất giữa công tác bảo tồn chung cho toàn
cầu và sự phát triển của các nước đang phát triển. Sự đồng nhất này là khó có thể đạt
được nếu không có sự đổi mới mạnh mẽ về cấu trúc kinh tế và hệ thống quản lý trong
phạm vi từng quốc gia cũng như toàn cầu. Một điều rõ ràng là muốn phát triển nhiều hệ
thống thích hợp hơn đòi hỏi phải có những nghiên cứu và trí tuệở mức cao hơn của khoa
học xã hội, trong đó vai trò hợp tác giữa các tổ chức của Mỹ và Trung Quốc có vai trò
sống còn.

Từ khoá: Phát triển bền vững, quản lý toàn cầu, kinh tế học cổ điển, cộng đồng toàn cầu

ngay trong quá trình phát triển, nhưng dường như nó vẫn tiếp tục gia tăng, thông điệp từ
Stockholm thường được nhắc đến đã trở nên gay gắt đặc biệt tại thời điểm đặc biệt này
trong lịch sử loài người. Chúng ta đã nhận thức được những hậu quả tiềm ẩn trong môi
trường do các mẫu hình phát triển hiện nay là sự thất bại trong việc khuyến kích các hoạt
động có hiệu quả. Tuy nhiên những giải thích về hậu quả như vậy về mặt kinh tế là không
cong phù hợp. Do đó bài viết này đề cập đến các áp lực về môi trường và kinh tế trong
quá trình phát triển bền vững dưới góc độ các vấn đề về xã hội và chính trị. Từ đó tìm ra
những cơ sở hữu ích cho sự định hướng lại cuộc tranh luận hướng tới những lựa chọn khó
khăn về những gì lẽ ra không được làm hoặc có nhiều nguy hiểm mà vẫn đang được mặc
định thực hiện.

Phát triển kinh tế và phát triển xã hội

Ba trụ cột cần tiếp cận trong phát triển bền vững được xác định là kinh tế, xã hội
và môi trường. Chính sự xác định này là ít có ý nghĩa làm giảm sự phức tạp của khái
niệm mà ngược lại đã tự gây nên những mâu thuẫn. Với ý nghĩa ban đầu, ba trụ cột của
phát triển bền vững được giới thiệu với mục đích để xác định các lĩnh vực kinh tế, xã hội
và môi trường tương tác với nhau sao cho các vấn đề môi trường có thể được tích hợp
đầy đủ trong các quyết định phát triển (Holmberg & Sandbrook, 1992). Tuy nhiên suy
rộng ra, sự đối nghịch đã nảy sinh không chỉ giữa mục tiêu kinh tế và xã hội, mà còn
trong quá trình phát triển kinh tế và xã hội.
Hội nghị Rio diễn giải phát triển bền vững là một quá trình đơn nhất với ba chiều.
Trong kế hoạch Johannesburg đã bổ sung khái niệm phát triển bền vững với 3 trụ cột
riêng biệt: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, chúng vừa phụ thuộc
lại vừa củng cố lẫn nhau (United Nations, 2002, p. 8). Dù cố ý hay không, thì sự thách
thức được thể hiện ngay ở chỗ mọi mục đích của phát triển kinh tế đều là để đạt đến sự
phát triển xã hội với chất lượng cuộc sống cao hơn. Hội nghị Johannesburg giải thích vè
phát triển kinh tế trong khái niệm phát triển bền vững cũng không rõ ràng, tuy nhiên cũng
không xác định phát triển kinh tế như một hợp phần thiết yếu. Một điều được thừa nhận
rộng rãi là chất lượng chứ không phải số lượng của sự phát triển là vấn đề có ý nghĩa

tiền lương của lao động và lợi nhuận của đồng vốn có lẽ sẽ là rất thấp" (p. 1.10.81). Ông
cũng tập trung vào phân tích làm thế nào để cả lợi nhuận và mức lương lao động có thể
được duy trì ổn định thông qua sự tăng trưởng thương mại quốc tế. David Ricardo bình
luận thêm rằng xu hướng này có sức hấp dẫn như các lợi nhuận, nó cần được kiểm tra lặp
đi lặp theo các khoảng thời gian như sự cải tiến các thiết bị máy móc (Ricardo,
1821/2001, pp. 78-79). Do vậy, tăng trưởng kinh tế thông qua sự đổi mới công nghệ và
phát triển thương mại quốc tế được hiểu như là một yêu cầu thiết yếu của một nền kinh tế
thị trường, nó không nhằm tăng tỷ lệ lợi nhuận hoặc mức lương thực, mà chỉ nhằm giữ
chúng không bị giảm đi. Theo Mishan (1969), một hiệu quả cũng xuất hiện tương tự như
ở thị trường thời trang, nó không phải để thỏa mãn sự cần thiết hoặc sự mong muốn mà là
để tạo ra sự kích thích nhu cầu, một sự cần thiết cho tăng trưởng. Cả lợi nhuận và mức
lương thực tế đều biến động theo tỷ lệ của sự tăng trưởng, vì vậy nó thường được xem xét
là các thông số thích đáng duy nhất (Spangenberg, 2005). Theo lý thuyết kinh tế cổ điển,
sự tăng trưởng kinh tế liên tục là vấn đề chủ yếu, nếu không thì cả lợi nhuận và mức
lương sẽ sụp đổ và nền kinh tế sẽ sụp đổ theo.
Lý thuyết tân cổ điển khác với lý thuyết cổ điển ở chỗ chuyển sự nhấn mạnh chi
phí sản xuất sang nhấn mạnh về nhu cầu của người tiêu dùng và phúc lợi. Điều này cho
phép sự hiểu biết tốt hơn về việc phân bổ các nguồn tài nguyên khan hiếm và tối đa hóa
các nguồn phúc lợi trong một nền kinh tế ổn định. Việc sử dụng các thuật toán cho phép
phân tích chi tiết cân bằng kinh tế để có thể phân phối nguồn tài nguyên tối ưu xét theo
khía cạnh tối đa tổng phúc lợi xã hội, và sở hữu của một người nào đó sẽ không thể được

3
tăng nên nếu không có sự giảm đi của người khác. Một mặt khác của xu thế kinh tế hiện
tại là chú ý đến các khía cạnh không cân bằng của hoạt động kinh tế, bao gồm các
phương pháp tối đa hóa tốc độ tăng trưởng và khuyến khích sự tăng trưởng ổn định thay
vì quá trình tăng trưởng không ổn định, nghĩa là có lúc tăng vọt và sau đó lại sụt giảm
nhanh. Điều này không mâu thuẫn gì với lý thuyết cổ điển rằng tăng trưởng là điều cần
thiết cho sự ổn định của một nền kinh tế thị trường cho dù nó đạt được thông qua sự đổi
mới công nghệ, phát triển thương mại quốc tế, hoặc các hình thức khác.

nguyên tắc đạo đức được ghi nhận trong nguyên tắc lấy con người làm trung tâm trong
Tuyên bố Rio, mở rộng ra giá trị nhân văn cũng là giá trị kinh tế và khả năng thay thế các
tài sản tự nhiên bằng các tài sản do con người tạo ra (Hopwood, Mellor & O'Brien, 2005;
Spangenberg, 2005). Có rất nhiều vấn đề liên quan đến lượng giá trị kinh tế, bao gồm cả
sự lựa chọn một tỷ lệ suy thoái nào đó mà qua có tính đến các giá trị được hoặc mất trong
hiện tại và trong tương lai (Pearce, 1993), đồng thời với việc đánh giá kết quả các mức độ
rủi ro trong một phạm vi rộng có thể với các chi phí khác nhau (Vogel, 2001). Những vấn
đề như vậy xuất hiện trong nhiều khía cạnh của chất lượng môi trường, đặc biệt là đối với
đa dạng sinh học, nó cũng bao gồm cả vấn đề chính trị và đạo đức mà không thể được

4
đưa vào trong phân tích chi phí lợi ích riêng (Clémençon, 2005; Pearce & Moran, 1994).
Định giá và phân tích chi phí lợi ích cũng yêu cầu một sự so sánh giữa chi phí và lợi ích
có khả năng xác định rõ ràng cho một lợi ích cụ thể (tài sản cá nhân) và các chi phí lợi ích
lâu dài cho xã hội nói chung (tài sản công cộng). Trong nhiều trường hợp, công chúng sẽ
không có đủ kiến thức và sự hiểu biết về các ảnh hưởng để có thể đánh giá chi phí và lợi
ích so với những gì mà đã trải qua bằng kinh nghiệm thực tiễn về các tác động. Để có sự
hiểu biết như vậy cần chi phí lớn trong một hệ thống chính trị nhất định. Ngay cả khi hệ
thống chính trị có khả năng tạo ra một mức độ hợp lý nhằm tăng sự hiểu biết của công
chúng và phản ánh đầy đủ lợi ích của tất cả các nhóm xã hội, quá trình phát triển cân
bằng tương đối hoặc sự thỏa hiệp giữa những người có kinh tế và các giá trị khác nhau,
nhất là về mặt chính trị hơn là kinh tế.
Trong thực tế, các cuộc tranh luận về việc liệu tất cả các đăc trưng môi trường đều
được đánh giá về mặt kinh tế hoặc một số khía cạnh cần được loại trừ và lượng giá riêng
bằng những cách khác, những câu hỏi liệu việc phát triển bền vững có nên hay không sự
sự tách biệt giữa trụ cột môi trường với trụ cột kinh tế. Đã có những luận cứ mạnh mẽ
ủng hộ cho rằng một số chất lượng môi trường nên được đánh giá tách biệt với kinh tế,
nhưng cũng có những ý kiến khác không đồng ý. Trong khi đó, việc bảo vệ và khai thác
môi trường vẫn tiếp tục được xác định bởi sự kết hợp của các quá trình chính trị và các
hành vi của một thị trường không thích hợp.

cho những quyết định quản lý được sự ủng hộ của những người đánh giá cao giá trị đa
dạng sinh học. Hiện nay, mức hỗ trợ cộng đồng không đủ cao để điều hòa những lợi ích
đối lập và nhìn chung họ không hài lòng khi phải trả tiền cao hơn cho các chi tiêu cần
thiết. Đến lúc thời gian đó, gần như toàn thể công chúng đều bị thuyết phục về giá trị cao
của đa dạng sinh học xét cả về góc độ kinh tế, con người, đạo đức hoặc bất kỳ một tiêu
chí nào khác, một quá trình dân chủ đang tồn tại sẽ có thể thắng thế nếu sự bảo toàn được
thực hiện ở bất cứ một sự nghiêm khắc hơn nó vốn có. Điều tương tựu cũng được áp
dụng cho vấn đề biến đổi khí hậu và mọi vấn đề môi trường chủ yếu được quan tâm khi
có các vấn đề quan tâm khác được chú ý hơn.
Kinh tế có một vai trò thiết yếu trong các cuộc tranh luận công khai về tính toàn
vẹn của môi trường toàn cầu, nhưng nó ít có vai trò trong khoa học vật lý và sinh học.
Con người nói chung có nhiều quan ngại về số phận của New Orleans và các công dân
của nó hơn là về chi phí kinh tế, tuy nhiên cái giá đó có thể được tính toán. Trên góc độ
khoa học vật lý, người ta có thể đánh giá về mức độ mà sự gia tăng biến đổi khí hậu đóng
góp đối với thảm họa New Orleans, và mức độ rủi ro của các sự kiện xảy ra sau đó sẽ là
tương tự và thậm chí sẽ tồi tệ hơn. Về mặt khoa học sinh học, bên cạnh niềm tin tinh
thần, người ta cho rằng khi các sinh vật biến đổi gen được tạo ra bởi con người có khả
năng tạo ra kết quả vượt xa các mối liên hệ phức tạp trong 4 tỷ năm tiến hóa của sinh vật
giới. Một số người cho rằng sự hội tụ của tất cả những điều không chắc chắn, sự phức tạp
và những rủi ro khác có thể dẫn đến những điều tồi tệ hơn cho con người. Tuy nhiên một
phần đông công chúng không tin là như vậy. Kinh tế có thể là sự trợ giúp đáng kể khi nó
đặt hệ tư tưởng của mình về một phía và thông báo cho công chúng về khả năng có thể
cung cấp được nhiều hơn. Spangenberg (2005) cho rằng điều cần thiết là phải phát triển
các phương pháp tiếp cận đa tiêu chuẩn để phản ánh đầy đủ sự không chắc chắn về khoa
học, những rủi ro có thể gây ra cho con người và điều đó được thừa nhận hoàn toàn về
các mức độ thay đổi trong giá trị nhân văn giữa các nền văn hóa riêng biệt theo thời gian.
Các cuộc tranh luận về phát triển bền vững đã nâng cao nhận thức cộng đồng và góp
phần làm tăng mối quan tâm của cộng đồng về vấn đề này. Các chính phủ đã thừa nhận
một sự chuyển đổi về nhận thức là cần thiết đặc biệt là tìm ra các mẫu hình tiêu thụ và
sản xuất mới (United Nations, 1992). Điều này cũng dẫn đến quan điểm có xu hướng tách

trong khi các hậu quả tiêu cực về môi trường lại xuất hiện ở phần khác trên thế giới
(Giljum & Eisenmenger, 2004).
Tính khả thi của việc tách riêng như một phương tiện để phát triển bền vững dựa
trên những giả định cho rằng toàn bộ thế giới có thể đi theo con đường phát triển đã được
thực hiện ở các nước có thu nhập cao, từ nông nghiệp sang sản xuất đến các dịch vụ.
Theo đó mọi nền kinh tế đều có thể trở thành một nền kinh tế dịch vụ, sự tăng trưởng
kinh tế của họ sẽ đến từ việc mở rộng các hoạt động mà sự tiêu thụ không vượt quá sự cải
thiện môi trường và ô nhiễm không nhiều hơn khả năng hấp thụ của môi trường. Bản chất
của nền kinh tế này có thể là khả thi, nhưng sẽ có sự khác nhau cơ bản với bất kỳ một nền
kinh tế nào đó đã được biết từ trước. Những nền kinh tế dịch vụ thu nhập cao hiện nay
không tồn tại một cách độc lập. Chúng là một phần của kinh tế toàn cầu, trong đó có trao
đổi thương mại rộng rãi với các nền kinh tế phi dịch vụ có thu nhập và tiêu thụ bình quân
trên đầu người là thấp hơn nhiều.

Sự phát triển của ai?

Ngay từ đầu thời kỳ đình trệ vào những thập niên 1930, John Maynard Keynes
(1930/1963) đã viết về một giải pháp cho sự ảm đạm này bằng việc đề cao các ưu điểm
của sự tích lũy tư bản, đồng thời cũng cảnh báo những tồn tại của nó. Trong đó, ông đã
nghiên cứu về sự tích lũy tái sản quốc tế của Anh Quốc đến những kho báu mà Drake đã
lấy trộm từ Tây Ban Nha năm 1580. Ông thực hiện một phép tính đơn giản để chỉ ra bằng
cách nào mà Anh Quốc có thể chiếm hữu tài sản nước ngoài để sau đó được tích lũy
thông qua sự đầu tư hào phóng của Drake trong Công ty Levant, tiếp theo là việc sử dụng
lợi nhuận để thành lập Công ty Đông Ấn (East India Company), những nguồn thu nhập
này sau đó đã được đầu tư vào các phần khác trên thế giới đã làm tăng vốn tích lũy gấp
hàng trăm nghìn lần trong giai đoạn 1580 - 1930. Toàn bộ thời kỳ này là một giai đoạn
đầu tư trực tiếp và gián tiếp mạnh mẽ ra nước ngoài tại Trung Đông và Bắc Phi, trong
tiểu lục địa Ấn Độ, tại châu Mỹ Latin, vùng cận Sahara Châu Phi. Việc đầu tư đã giúp
nước Anh phát triển, nhưng lúc này nước Anh vẫn không phải là một nước được nhận
(Donaldson, 1986).

châu Âu và Mỹ nhưng với lao động rẻ hơn. Các nước phương Tây do đó không còn có
khả năng xuất khẩu sản phẩm tương tự của họ sang các thị trường cũ hoặc không thể tách
họ ra như những thị trường riêng ngoài hệ thống thương mại toàn cầu mà tài sản của họ
dựa vào đó. Một giải pháp mới được thực hiện là họ sẽ không tiếp tục sản xuất và đưa
vào thị trường các hàng hoá có số lượng lớn (Held, McGrew, Goldblatt, & Perraton,
1999). Họ chuyển sang đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ quảng cáo và dịch vụ phân
phối, tạo ra các thương hiệu toàn cầu (Klein, 2001). Như vậy sẽ tạo điều kiện cho các sản
phẩm nguồn gốc ở các nước có mức lương thấp có thể được bán ra trên toàn cầu ở một
mức giá cao đủ để trả cho chi phí tiếp thị. Song song với điều đó, các công nghệ mới
được phát triển, được hứa hẹn và được bảo vệ về sở hữu trí tuệ, tiền bản quyền của tác
giả sẽ đóng góp thêm vào thu nhập của nền kinh tế dịch vụ thương mại quốc tế.
Với nguồn đầu tư nước ngoài, ảnh hưởng của các hoạt động nêu trên đến sự phát
triển ở các nước đang phát triển là phức tạp, nó có thể có lợi hoặc có hại (George &
Kirkpatrick, 2004; Katrak & Strange, 2004). Nhưng lợi ích cho các nước phát triển là rõ
ràng và dần hình thành các chính sách trọng tâm của các chính phủ. Chiến lược Lisbon
hứa hẹn đưa EU trở thành nền kinh tế tri thức năng động và cạnh tranh nhất trên thế giới
(Commission of the European Communities, 2005, p. 3). Việc cân nhắc chính thức dưới
sự chủ trì của cựu thủ tướng Hà Lan Wim Kok đã tuyên bố “Lisbon là sự hoàn tất tầm
nhìn của châu Âu về những gì họ muốn có và những gì họ muốn giữ … đối thủ cạnh
tranh gồm cả các nước và vùng lãnh thổ sẽ cùng chuyển động theo, sẽ đe dọa vị trí của
châu Âu trong các liên minh kinh tế toàn cầu". Trong đó đặc biệt quan tâm là Trung

8
Quốc, họ đã bắt đầu cạnh tranh không chỉ ở hàng hóa có giá trị gia tăng thấp mà ngay cả
các hàng hóa có giá trị gia tăng cao”, trong khi “Ấn Độ cũng là một thách thức đáng kể -
đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ" (European Communities, 2004, p. 12).
Nếu lý thuyết phát triển đương đại là đúng, những quan ngại này là không có cơ
sở. Thu nhập của châu Âu sẽ không giảm đi do kết quả của sự phát triển ở Trung Quốc
hoặc Ấn Độ. Khả năng cạnh tranh của những nước này trong hàng hóa có giá trị gia tăng
thấp, sau đó là hàng hoá có giá trị gia tăng cao và tiếp đến thậm chí là dịch vụ có giá trị

cầu hóa đang thay đổi nền kinh tế hướng tới sự không phân biệt giữa các nền kinh tế có
thu nhập cao và những nền kinh tế có thu nhập thấp. Nếu điều đó xảy ra và nếu lý thuyết
kinh tế cổ điển được áp dụng, mức lương tối thiểu toàn cầu sẽ giữ nguyên không thay đổi
và trở nên tương tự ở mọi nơi. Ỏ đây sẽ không có sự san bằng tăng lên, thậm chí cũng
không san bằng đến mức trung bình. Chỉ có thể là sự san bằng xuống thấp. Chiến lược
Lisbon cố gắng để duy trì vị trí của châu Âu ở hàng đầu các liên minh kinh tế toàn cầu sẽ
là một câu trả lời rất có lý.
9
Một tương lai chung

Phát triển bền vững đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện. Để đạt
được sự phát triển bền vững đòi hỏi phải có sự hiểu biết sâu sắc về sinh học, vật lý, kinh
tế, xã hội và các quá trình chính trị liên quan. Các lý thuyết kinh tế cổ điển và các lý
thuyết kinh tế khác đều nhằm giải thích cho hành vi kinh tế xã hội được quan sát tuy
nhiên đây không phải là điều bắt buộc. Những quy luật mà các lý thuyết này xác định
không nhất thiết phải được tuân theo, ngoài quy luật phụ thuộc lẫn nhau cần phải tuân
thủ. Họ chỉ đơn thuần giải thích những gì sẽ xảy ra trong khi không có hành động nào
nhằm ngăn chặn nó.
Một trong những khó khăn của việc thực hiện phát triển bền vững là không có
một khái niệm rõ ràng và đầy đủ về phát triển bền vững. Quan điểm phát triển bền vững
được đưa ra trong báo cáo Brundtland là quá rộng, lại không có các tài liệu tham khảo để
mở rộng về hai khái niệm quan trọng được đưa ra (World Commission on Environment
and Development, 1987):
+ Khái niệm về nhu cầu, đặc biệt là nhu cầu thiết yếu của người nghèo trên thế giới,
theo đó ưu tiên quan trọng nhất cấn phải được đưa ra; và
+ Ý tưởng các giới hạn được đặt ra bởi tình trạng công nghệ và tổ chức xã hội, về khả
năng của môi trường đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai. (p. 43)

không có luật pháp tương đương với những gì trong một xã hội hiện đại thực thi trong
khuôn khổ quốc gia và các cấp dưới quốc gia. Điều bị phê phán thứ hai liên quan đến
Hardin là sự chiếm hữu tư nhân chỉ như một phương thuốc. Nó không phải là sự công
bằng như các phân tích ban đầu của tác giả, trong đó tư nhân hoá là sự lựa chọn thích hợp
nhưng không phải luôn luôn là một điều có thể làm được và nó không phải là duy nhất.
"Nghĩ về sự trộm cướp ngân hàng" ông đã viết: người ta có hành vi lấy tiền từ ngân hàng
vì ngân hàng là của chung. Làm thế nào để chúng ta ngăn chặn hành động tương tự như
vậy? Chắc chắn không phải là cố gắng để kiểm soát hành vi của anh ta chỉ bằng lời nói
yêu cầu ý thức trách nhiệm của anh ta (p. 378). Thay vào đó, luật pháp để ngăn cấm các
hành động không mong muốn cần phải được ban hành và thực thi mạnh mẽ. Tài sản công
cộng có thể được chuyển đổi thành hàng hoá công cộng nếu nó được quản lý và sở hữu
công, hoặc trong một số trường hợp tài sản tư nhân đang thuộc sở hữu và quản lý cá
nhân, nhưng theo một cách khác khi luật pháp được thiết lập và tăng cường để thay mặt
công chúng thì trong tương lai sẽ không còn tự do cho tất cả.
Khí hậu toàn cầu và đa dạng sinh học toàn cầu vẫn là những gì có thể được coi là
một tài nguyên tự do cho mọi người, trừ khi có một sự đồng thuận ràng buộc đạt được về
bảo vệ chúng. Mỗi quốc gia riêng có rất ít sự lựa chọn trong cuộc đua tối đa hóa hiệu quả
kinh tế của riêng mình nên họ có thể bất chấp các tác động đến sự bền vững của môi
trường toàn cầu. Hãy xem tình trạng này được quản lý như thế nào trong hai trường hợp
(Vogler, 2000). Một mặt yêu cầu ý thức trách nhiệm và sự hợp tác giữa các quốc gia có
chủ quyền, trong khi đó lại không có câu trả lời ngắn gọn về sức mạnh của luật pháp toàn
cầu có thể được thi hành.
Bản thân thị trường không có khả năng giải quyết được vấn đề. Tốt nhất là thực
thi các giải pháp cộng đồng, ví dụ thông qua các vấn đề về cấp chứng chỉ cho lượng phát
thải khí nhà kính. Thương mại hóa cacbon là ví dụ về một công cụ có thể được sử dụng
bởi các nhà hoạch định chính sách nhằm điều chỉnh hành vi của các doanh nghiệp tư
nhân, để sức mạnh thị trường có thể được đưa vào dịch vụ cung cấp hàng hoá công cộng.
Cuối cùng, cũng giống như có một khung pháp lý trong đó sức mạnh thị trường có thể
cho phép hoạt động vì lợi ích chung. Bằng cách cấp chứng chỉ cacbon, các chính phủ tạo
ra một thị trường nhân tạo và ưu đãi để giảm lượng khí thải với cách có hiệu quả kinh tế

trọt, chúng ta phải cắt bỏ một phần lãnh thổ hàng xóm lân cận của chúng ta. Và nếu họ
cũng tự xác các nhu cầu cần thiết và bắt tay vào việc theo đuổi mục đích sở hữu không
giới hạn các vật chất, họ cũng sẽ muốn có một phần lãnh thổ của của chúng ta. (pp. 107-
108).
Cũng như đã từng có nhiều người trước đây suy nghĩ và chấp nhận quan điểm như
vậy, ông viện dẫn rằng nhà nước tất phải có quân đội, lực lượng sẽ đi ra ngoài để chiến
đấu cho quyền lợi và bảo vệ công dân của họ, và chống lại tất cả những người đến xâm
chiếm. Với các phân tích của Plato, tự do cạnh tranh kinh tế không có điều tiết chung sẽ
phá hủy về môi trường không có điểm cuối cùng. Nó chỉ có thể kết thúc thông qua các
cuộc đấu tranh đến khi người chiến thắng đã kiểm soát an toàn và cộng đồng có thể quản
lý được môi trường. Kết luận này là không dễ dàng được chấp nhận vì trên thực tế rất ít
khi có cuộc chiến tranh lớn nào xảy ra để khắc phục sự ô nhiễm hoặc sự tuyệt chủng của
sinh vật hoang dã. Biến đổi khí hậu và mất đa dạng sinh học rất nhanh chóng dẫn đến suy
giảm nghiêm trọng sản xuất nông nghiệp ở một số vùng nào đó nhưng có thể không xảy
ra ở những vùng khác. Điều này sẽ làm sống lại cuộc xung đột đối với các nguồn tài
nguyên lâu đời nhất mà con người phụ thuộc. Ảnh hưởng trực tiếp của vấn đề này khó có
thể được đón nhận hơn là một cách nhìn toàn cảnh về sự tích lũy dần dần của sự tuyệt
chủng hàng loạt hoặc thậm chí là sự tự tuyệt chủng. Điều này đã được suy tính rõ ràng
bởi vì chúng là ở xa vô cực không thể tưởng tượng. Hệ quả trực tiếp hơn là một sự thật
nghiệt ngã.
Plato coi chiến tranh như là một tình thế lâu dài của con người, nó được thúc đẩy
bởi sự cạnh tranh để tiếp cận và kiểm soát các nguồn tài nguyên môi trường. Chiến tranh
vẫn được xem là không thể tránh khỏi cho đến 2000 năm sau, khi von Clausewitz
(1832/2005) mô tả nó chỉ là một cách kéo dài chính trị bằng các giải pháp khác (p. 31).
Hiện nay, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, sự mở rộng chưa từng có của các phương
tiện giao tiếp của con người đã tạo ra khả năng cùng suy ngẫm cho một tương lai chung.

Quản lý chung

Phát triển bền vững là một ý tưởng cách mạng. Khi nguồn tài nguyên và môi

nhiệm hiện nay. Cho dù đó là một chính phủ đơn nhất hoặc một chính phủ liên bang và
cho dù hệ thống bầu cử của nó đã có từ trước đến nay hoặc một hình thức nào đó được
phân chia theo đại diện tương xứng hoặc một vấn đề tương tự nào đó sẽ được ứng dụng.
Trừ khi chúng ta bỏ nguyên tắc cơ bản nhất của nền dân chủ như đã áp dụng trong tất cả
các nước phương Tây và được khuyến khích cho các nước khác, tổ chức bao quát quyền
lực toàn cầu sẽ được bầu ra thông qua các cuộc bầu cử đa đảng, trong đó tất cả những
người trưởng thành đều có quyền bầu cử. Mong muốn thấy toàn thế giới được quản lý
theo con đường như vậy không có gì tốt hơn là ở các nước có thu nhập cao hiện nay so
với nó từng diễn ra trong tầng lớp quý tộc Pháp trước khi bị lật đổ trong cuộc cách mạng
để đưa nền dân chủ hiện đại đến châu Âu.
Khả năng mà một hình thức quản lý dân chủ toàn cầu cuối cùng có thể được
thông qua là không lớn, vì sẽ có rất nhiều khó khăn do có quá nhiều hệ thống quản lý đã
và đang tồn tại cho đến ngày nay (Bull, 2000). Dù một hình thức quản lý như vậy có thể
được thực hiện hay không, người ta vẫn hy vọng rằng nó có thể được bắt đầu bằng một
cuộc cách mạng trong tư duy hơn là trong bạo lực, cuộc cách mạng này cũng có thể là
không hiệu quả và sẽ bị thất bại. Tuy nhiên, nó cũng có thể không thể xảy ra, trừ khi có
một mong muốn rộng rãi để điều này được thực hiện.
Điều cần thiết để vấn đề quản lý toàn cầu có thể tiến xa hơn là phải có sự thảo
luận bổ sung theo nhiều hướng khác nhau để hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý có thể thích
ứng với chính phủ dân chủ trên toàn cầu. Từ góc độ kinh tế xã hội, Stiglitz (2002) đã gợi

13
ý rằng thật không may, chúng ta không có được một chính phủ thế giới chịu trách nhiệm
đối với người dân của mọi quốc gia, để giám sát quá trình toàn cầu hóa có so sánh các
cách mà chính phủ các nước đã hướng dẫn quá trình quốc gia hóa (p. 21). Từ góc nhìn về
môi trường, các lập luận cho rằng cộng đồng không thể được quản lý nếu không có luật
pháp và luật pháp không thể được ban hành và thực thi khi không có chính phủ. Từ cách
nhìn về sự leo thang của công nghệ vũ khí trong các cuộc xung đột quốc tế, Bertrand
Russell (1949/1976) đã kết luận rằng một xã hội khoa học chỉ có thể được ổn định với
điều kiện của một chính phủ duy nhất của toàn thế giới, sở hữu độc quyền lực lượng vũ

ra do có sự khác nhau rõ rệt về các nền văn hóa. Theo tác giả, có khoảng bảy hoặc tám
nhóm các nền văn minh chính, bao gồm nền văn minh phương Tây, Nho giáo, Nhật Bản,
Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Slavơ (Slavic-Orthodox), Mỹ Latinh và có thể là Châu Phi. Với
một số trường hợp ngoại lệ có thể có, mỗi nền văn hoá trên đều có những ưu thế nổi trội
riêng cho nền văn hóa của họ. Phương Tây tin tưởng sâu sắc vào sự tăng trưởng kinh tế
vĩnh viễn cũng như người Hồi giáo tin vào đạo Hồi.
Xét về tổng thể, mỗi nền văn minh đều tin rằng nền văn hóa của họ có sự tiến
triển vượt xa những nền văn minh khác, rằng thế giới không thể thống nhất cho đến khi

14
những nền văn hóa khác có sự tiến bộ theo hướng của họ, và rằng bất kỳ sự chuyển biến
nào theo hướng riêng vốn có của đều là sự lạc hậu. Nếu những niềm tin này là đúng đắn,
sẽ là có lý cho mỗi nền văn minh để bảo vệ sự toàn vẹn của nền văn minh riêng của họ và
cần thiết có thể phải thông qua các cuộc chiến tranh. Nguyên lý của sự bình đẳng, khả
năng của một tương lai chung vẫn còn là những sự thử nghiệm, cùng với những khả năng
có thể đạt được vào bất cứ khi nào kết thúc của cuộc chiến tranh. Hardin (1993) bác bỏ ý
tưởng về một chính phủ thế giới với quan điểm rằng những kẻ thù từ bên ngoài được yêu
cầu để duy trì sự hợp tác toàn cầu theo là không thể có được trong một thế giới liên kết
(p. 277). Một ví dụ hiếm hoi cho thấy sự tồn tại của một thế giới thù địch là trở ngại duy
nhất cho sự khôi phục lại nước Mỹ trong cuộc nội chiến. Tuy nhiên quan điểm của
Hardin lại có ảnh hưởng rộng rãi. Nếu chiến tranh thực sự là điều kiện lâu dài của con
người, mà chúng ta cố tình né tránh chúng từ bây giờ thì sẽ có rất khó đạt được kết quả.
Do vậy, chiến lược Huntington (1993) sẽ là thích hợp nhất để tăng tối đa lợi thế ngắn
hạn, điều cần thiết để giành thắng lợi khi cuộc chiến tranh xảy ra.
Tuy không phải là chỉ là một chiến lược duy nhất, nhưng tìm kiếm lợi ích kinh tế
vẫn đang diễn ra một cách mạnh mẽ. Mặc dù các ý tưởng tự do mới có vẻ như bác bỏ học
thuyết Smith-Ricardo về giá trị lao động, nó vẫn được thực thi với sự hợp lý trong chiến
lược Lisbon của châu Âu để bảo vệ vị trí dẫn đầu của châu Âu trong bảng xếp hạng các
liên minh kinh tế toàn cầu cũng như trong những nỗ lực của các nước có thu nhập cao
khác. Nó cũng có vị trí quan trọng trong suy nghĩ của toàn bộ cử tri phương Tây, những

Matthews và Paterson (2005) nhận thấy những yếu điểm trong vấn đề này như là
một giải pháp cho sự tồn tại lâu dài. Nó bao gồm một sự điều chỉnh thỏa hiệp cơ bản các
chuẩn mực tự do mới mà không được chấp nhận và tuân thủ trong nền chính trị toàn cầu
trên một tiến trình định hướng tích lũy có thể tác động một cách hệ thống đến các vấn đề
sinh thái. Đối với vấn đề này có thể sẽ không là sự quan tâm của cả Mỹ và Trung Quốc
để thúc đẩy một làn sóng làm thui chột sự sáng tạo trong khi phát triển một ngành công
nghiệp mới lại tự phá hủy những cái riêng của mình. Nếu họ chuyển đổi như vậy, họ sẽ
cần phải có sự hợp tác với nhau. Cho dù lợi ích của họ được thỏa mãn tốt nhất bằng cách
tích lũy vốn, tăng trưởng GDP hoặc cả hai, hoặc một mục tiêu hàng đầu nào khác của họ.
Điều này có thể đến vào thời điểm mà lợi ích kinh doanh được xem là quan trọng hơn lợi
ích quốc gia trong nền kinh tế hoàn toàn tích hợp toàn cầu, nhưng cho đến hiện tại thì
mục tiêu hàng đầu của nhà nước vẫn như đã được mô tả của Plato (360 B.C./1955).
Cả Mỹ và Trung Quốc đều cần năng lượng để cung cấp nhiên liệu cho ngành
công nghiệp và vật liệu cho công dân của họ. Cho dù năng lượng đến từ dầu giá rẻ như
hiện nay, hoặc từ các nhiên liệu sinh học có giá rẻ hơn hoặc đắt hơn được phát triển thông
qua các sáng kiến. Tuy nhiên vấn đề sử dụng hiệu quả năng lượng vẫn có ý nghĩa quan
trọng nhằm duy trì nguồn tài nguyên thiên nhiên toàn cầu và có vai trò sống còn cho cho
nền kinh tế của mỗi quốc gia. Nhiều nước trên thế giới đã phải cạnh tranh cho các nguồn
tài nguyên thiên nhiên trong suốt lịch sử phát triển của họ. Hiện nay Mỹ và Trung Quốc
vẫn tiếp tục cuộc cạnh tranh cho nguồn tài nguyên quan trọng này. Mỗi nước đều tiếp tục
theo đuổi một chiến lược rủi ro cao của Huntington (1993) để tối đa hóa lợi thế kinh tế và
quân sự của họ, trong khi vẫn hy vọng tìm thấy một sự thay đổi nào đó trong tương lai
lâu dài.
Để đưa ra một chỉ dẫn về chiến lược thay thế có thể được theo đuổi, phần còn lại
bài viết này bỏ qua các hành động ngắn hạn và trung hạn để xem xét kết quả dự đoán của
việc thực hiện một kế hoạch lâu dài. Theo đó một chiến lược có thể được đặt ra với tất cả
sự tính toán của họ. Trong kịch bản dài hạn này, pháp luật về môi trường toàn cầu được
giả định là hoàn toàn được thực thi, hoặc sử dụng cụ các công cụ kinh tế và các quy định
hướng dẫn để quản lý môi trường toàn cầu có hiệu quả. Giả sử rằng đã có sự tích hợp đầy
đủ của nền kinh tế thế giới mặc dù không nhất thiết với mức độ dòng chảy thương mại

trường, nhưng ở đây chủ quyền quốc gia và quyền tự chủ cũng đã được xác định trong
một phạm vi rộng của luật pháp quốc tế, với việc thừa nhận sự cần thiết của các tổ chức
mới hoặc mở rộng hơn tại các khu vực khác (Held, 2002). Có hoặc không có một quy
trình dân chủ và sự tích hợp kinh tế để thúc đẩy liên bang toàn cầu của Kant hướng tới sự
thích ứng với một khuôn khổ pháp lý đầy đủ có thể tương ứng với một nhà nước bao quát
toàn cầu.
Bull (2000) đã đề cập đến làm thế nào để vận dụng được các hình thức quản lý
khác nhau trong quá khứ và hiện tại để quản lý hiệu quả một thế giới toàn cầu hóa và các
khả năng khác có thể thay thế mà không tuân theo bất kỳ mẫu hình nào đã có trước đây
của các tổ chức chính trị trên toàn cầu (p. 466). Điều này có thể được suy ra từ phân tích
của Plato cho rằng còn xa mới có thể đạt được.
Với cách nhìn theo chủ nghĩa duy tâm của Plato về những gì ông hy vọng về một
nước có thể không bao giờ được vật chất hóa, nhưng ông mô tả về những gì thực tế đã
được chứng minh thông qua mọi loại hình chính phủ đã từng được thành lập, cho dù là
theo chủ nghĩa bình quân hoặc áp đặt. Ông giải thích cho điều này là do mỗi nước đều
cần thiết phải có một quân đội với tầm quan trọng rõ ràng. Đối với quân đội hoạt động có
hiệu quả phải được lãnh đạo bởi người lãnh đạo với những quyền lực của người thống trị.
Dưới các luật lệ đó, cũng có thể được quân đội nước ngoài sang giúp đỡ nhằm giúp người
thống trị trong việc thực thi các quyết định của họ ( Plato, 360 B.C./1955, p. 159). Trong
một nền dân chủ hiện đại, những người thống trị được bầu bởi chính sách phổ thông đầu
phiếu, nhưng vẫn còn có các luật lệ. Họ vẫn còn có đội quân tinh nhuệ trợ giúp để làm
điều đó. Quân đội vẫn còn tồn tại cho cùng một lý do, như Plato đã giải thích, cho phép
nhà nước bảo vệ và thúc đẩy lợi ích của nó chống lại những nước khác. Khi không có các
nước khác nhau, mọi thứ sẽ thay đổi.
Thật khó để có thể đánh giá được tầm cỡ ý nghĩa của khái niệm toàn cầu hóa.
Theo một cách hiểu thông thường chúng ta đã biết, toàn cầu hóa nghĩa là thế giới được
xem như là một. Nếu phải chịu một quy định của luật pháp, đó phải là một hội đồng làm
luật, một tòa án công bằng và một lực lượng cảnh sát, tất cả đều được toàn cầu hóa nhưng
cần xác định chức năng của nó cho từng quốc gia. Sẽ có một số mức quản lý qua đó có
thể tự xác định sự quản lý riêng, với từng cấp dưới đối với cấp trên tương ứng sẽ thông

Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với các quyết định đang được đưa ra hiện
nay. Trong một thế giới đang trong quá trình toàn cầu hóa mạnh mẽ, mọi khía cạnh của
nền văn hóa đều chịu ảnh hưởng của cấu trúc kinh tế xã hội của một nhà nước phải có sự
khác nhau cơ bản từ các nền văn hóa mà chúng ta đã quen thuộc. Nền văn hóa dân chủ tự
do thiên chúa Judeo-Christian phương Tây, các nền văn hóa Nho giáo của phương Đông,
nền văn hóa Hồi giáo, các nền văn hóa Ấn Độ giáo và mọi nền văn hóa khác trong thế
giới hiện đại, tất cả đã tiến hóa qua hàng ngàn năm của cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia
có chủ quyền riêng biệt. Nếu không có sự cạnh tranh như vậy, tất cả các nền văn hóa sẽ
thay đổi đáng kể. Điều này có thể ít ảnh hưởng về mặt tinh thần, nhưng vẫn cần phải học
cách chung sống với nhau, những các khía cạnh kinh tế xã hội của họ phải được phát
triển thành một tập hợp của một nền văn hóa mới, cuối cùng sẽ có sự khác nhau hoàn
toàn so với các nền văn hóa vốn có. Kết quả là, lý thuyết kinh tế cổ điển, lý thuyết kinh tế
tân cổ, lý thuyết kinh tế Marx-Lênin và bất cứ một lý thuyết kinh tế nào khác mà chưa đề
cập đến, tất cả sẽ trở thành vô nghĩa ngoài một sự giải thích về các hành vi của con người
đã cư xử như thế nào trong quá khứ, trong các hoàn cảnh hoàn toàn khác nhau.
Điều này mang lại niềm hy vọng về một sự phát triển bền vững. Sẽ không gặt hái
được gì từ việc bảo vệ cái chết của một nền văn hóa hoặc một hệ thống kinh tế mà nó
đang bị biến mất. Nếu chúng ta thực sự không có sự khác biệt cơ bản giữa các chủng tộc
mà chỉ có một chủng tộc duy nhất, nó sẽ trở nên không thích hợp để phát triển nền văn
hoá và hệ thống kinh tế của một thế giới toàn cầu hóa, hoặc tốt hơn là tất cả chúng tồn tại

18
trong một sự hòa hợp. Cho dù chúng ta lựa chọn cạnh tranh, cuối cùng cũng sẽ một nhóm
nào đó sẽ giành thắng lợi, hoặc một tập hợp liên kết các nhiệm vụ hiện nay, chỉ có sự
khác biệt về kết quả cuối cùng là chất lượng môi trường mà con người đang tồn tại và tổ
tiên của những người đã tồn tại.
Để cho sự phát triển bền vững trong thực tế, mọi nguyên lý của khoa học xã hội
đều có một vai trò to lớn trong bước đầu khởi động rất khó khăn này. Sẽ là không cường
điệu nếu so sánh nó với toàn bộ sự tiến bộ của nhân loại, trong đó Smith, Ricardo và một
loạt các nhà tư tưởng khác đã phân tích cấu trúc kinh tế xã hội nổi bật của một hệ thống

thống mà thế giới loài người phụ thuộc.
Vai trò lớn nhất trong cuộc cách mạng toàn cầu về tư tưởng kinh tế và xã hội chắc
chắn sẽ phải có sự đóng góp của các nhà tư tưởng và các nhà hoạch định chính sách ở Mỹ
và Trung Quốc. Tất nhiên là tất cả chúng ta đều có trách nhiệm, và chúng ta đang đi trên
con đường không có lối ra. Chúng ta đang theo đuổi việc tạo lập một nền kinh tế tích hợp
toàn cầu với những gì nó đã xảy ra, mà không có ý tưởng xa hơn về những gì một nền
kinh tế tích hợp toàn cầu sẽ là như thế nào. Chúng ta đang thử nghiệm phát triển một xã
hội có tổ chức để quản lý nó, mà không có ý tưởng về mô hình đó sẽ là như thế nào. Để

19
tránh những tai họa tiềm năng của phát triển không bền vững, phát triển bền vững cần có
một cách nhìn rõ ràng hơn về những gì sẽ được phát triển.

Kết luận

Các vấn đề phức tạp và mâu thuẫn trong sự hiểu biết hiện tại về phát triển bền
vững đang che giấu một áp lực tiềm ẩn cần phải được giải quyết trước khi khái niệm này
có thể trở thành một thực tế. Những điều đó bao gồm sự cần thiết cho sự tăng trưởng kinh
tế để duy trì sự ổn định của một nền kinh tế thị trường không bị hạn chế; xu hướng của
một nền kinh tế như vậy có thể làm giảm thu nhập đang tồn tại ở một nơi nào đó trên thế
giới; tiềm năng của nền kinh tế toàn cầu hóa có thể xoá bỏ sự phân biệt giữa các nước có
thu nhập cao ở vị trí cốt lõi của hệ thống thương mại quốc tế và những nước có thu nhập
thấp ở vị trí ngoại vi; sự bất lực của sức mạnh thị trường về quản lý hàng hoá công cộng
toàn cầu khi không có luật pháp toàn cầu đủ mạnh; xu hướng lịch sử của sự khan hiếm tài
nguyên sẽ kích hoạt các cuộc chiến về tài nguyên; và những căng thẳng giữa các hệ thống
niềm tin có sự phát triển khác nhau ở những phần khác nhau trên thế giới.
Bài viết này đã xác định một khía cạnh quan trọng về vấn đề môi trường và kinh
tế toàn cầu hóa có thể cho phép giải quyết những tình trạng căng thẳng trên thế giới: Nếu
một nền kinh tế hợp nhất toàn cầu quản lý có hiệu quả môi trường toàn cầu được thực
hiện, nó sẽ loại bỏ các mối đe dọa kinh tế và quân sự đã từng xảy ra trong suốt lịch sử của

Clémençon, R. (2006). What future for the global environment facility? Journal of
Environment &Development, 15, 50-74.
Cleveland, C. J. (2003). Biophysical constraints to economic growth. In D. Gobaisi (Ed.),
Encyclopedia of life support systems. Oxford, UK: UNESCO Encyclopedia of Life
Support Systems. Available from
Commission of the European Communities. (2005). Working together for growth and
jobs: A new start for the Lisbon Strategy (COM 24). Brussels, Belgium: Author.
Daly, H. E. (1992). Steady-state economics (2nd ed.). London: Earthscan.
Daly, H. E., & Townsend, K. N. (1993). Valuing the earth: Economics, ecology, ethics.
Cambridge, MA: MIT Press.
Donaldson, P. (1986). Worlds apart: The development gap and what it means (2nd ed.).
Harmondsworth, UK: Pelican.
European Communities. (2004). Facing the challenge: The Lisbon strategy for growth
and employment (Report from the High Level Group chaired by Wim Kok). Brussels,
Belgium: Office for Official Publications of the European Community.
Farrell, K. N., Kemp, R., Hinterberger, F., Rammel, C., & Ziegler, R. (2005). From *for*
to governance for sustainable development in Europe: What is at stake for further
research? International Journal of Sustainable Development, 8(1/2), 127-148.
George, C., & Kirkpatrick, C. (2004). Trade and development: Assessing the impact of
trade liberalisation on sustainable development. Journal of World Trade, 38(3), 441-469.
Georgescu-Roegen, N. (1971). The entropy law and the economic process. Cambridge,
MA: Harvard University Press.
Giljum, S., & Eisenmenger, N. (2004). North-south trade and the distribution of
environmental goods and burdens: A biophysical perspective. Journal of Environment &
Development, 13, 73-100.
Giljum, S., Hak, T., Hinterberger, F., & Kovanda, J. (2005). Environmental governance
in the European Union: Strategies and instruments for absolute decoupling. International
Journal of Sustainable Development, 8(1/2), 31-46.
Hardin, G. (1969). The tragedy of the commons. In G. Hardin (Ed.), Population,
evolution and birth control (pp. 367-381). San Francisco: Freeman. (Original work

Mill, J. S. (1909). The principles of political economy (7th ed., W. J. Ashley, Ed., Book 4,
chap. 6). London: Longman, Green. Retrieved from
(Original work published 1848)
Millennium Ecosystem Assessment. (2005). Millennium ecosystem assessment synthesis
report. Rome: Millennium Ecosystem Assessment Secretariat.
Mishan, E. J. (1969). The costs of economic growth. Harmondsworth, UK: Pelican.
Offer, A. (2000). Economic welfare measurements and human wellbeing (Discussion
Papers in Economic and Social History No. 34). Oxford, UK: University of Oxford.
Ott, H. E., & Sachs, W. (2000). Ethical aspects of emissions trading (Wuppertal Papers
No. 110). Wuppertal, Germany: Wuppertal Institute.
Pearce, D. (1993). Blueprint 3: Measuring sustainable development. London: Earthscan.
Pearce, D., & Moran, D. (1994). The economic value of biodiversity. London: Earthscan.
Plato. (1955). The republic (H. D. P. Lee, Trans.). Harmondsworth, UK: Penguin.
(Original work published 360 B.C.)
Redclift, M. (2005). Sustainable development 1987-2005: An oxymoron comes of age.
Sustainable Development, 13, 212-217.
Ricardo, D. (2001). On the principles of political economy and taxation (3rd ed.).
Ontario, Canada: Batoche Books. (Original work published 1821)
Russell, B. (1961a). Has man a future? Harmondsworth, UK: Penquin.
Russell, B. (1961b). History of Western philosophy. London: George Allen & Unwin.
Russell, B. (1976). Can a scientific society be stable? In The impact of science on society
(pp. 109-127). London: George Allen & Unwin. (Original work published 1949)
Sachs, J., & Warner, A. (1995). Natural resource abundance and economic growth.
Cambridge, MA: Harvard Institute for International Development.
Smith, A. (1904). An inquiry into the nature and causes of the wealth of nations (E.
Cannan, Ed., Book 1, chap. IX, chap. VIII, Book 5, chap. I). New York: Methuen.
Retrieved from (Original work
published 1776)
Soroos, M. S. (2001). Global climate change and the futility of the Kyoto process. Global
Environmental Politics, 1, 2.

World Bank. (2000). The quality of growth. Washington, DC: Author.
World Bank. (2004). World development report 2005: A better investment climate for
everyone. Washington, DC: Author.
World Commission on Environment and Development. (1987). Our common future.
Oxford, UK: Oxford University Press.
Yale Center for Environmental Law & Policy. (2006). Pilot 2006 environmental
performance index. New Haven.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status