Luận văn: Các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hang ở Việt Nam - Pdf 12


Luận văn
Các biện pháp hạn chế rủi
ro trong hoạt động ngân
hang ở Việt Nam
MỤC LỤC
Trang LỜI NÓI ĐẦU 2
NỘI DUNG

PHẦN I: LÝ LUẬN VỀ NHỮNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 3
I/ TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIỆP VỤ TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 3
1. Khái niệm 3
2. Những nghiệp vụ chủ yếu trong hoạt động ngân hàng 3
II/ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 5
1. Rủi ro 5
2. Rủi ro tồn tại khách quan trong hoạt động ngân hàng 5
III/ NHỮNG RỦI RO ĐẶC THÙ TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 6
1. Rủi ro tín dụng 6
2. Rủi ro lãi suất 8
3. Rủi ro hối đoái 9
4. Rủi ro thanh toán 10
5. Rủi ro nguồn vốn 11

lớn của hoạt động ngân hàng đối với sự phát triển nền kinh
tế và xã hội
được xuất phát từ chính những đặc trưng của nó. Hoạt
động kinh
doanh ngân hàng là một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt bởi
hàng hoá
trong quá trình kinh doanh là tiền tệ-loại hàng hoá có tính
nhạy cảm và
sức cuốn hút đặc biệt. Chính tính đặc biệt riêng có này của tiền tệ mà
hoạt động kinh doanh ngân hàng vừa là một loại hoạt
động đem lại
hiệu quả rất lớn đối với nền kinh tế, vừa là một lĩnh
vực mà khả năng
xảy ra rủi ro cao.
Nghiên cứu về rủi ro trong hoạt động ngân hàng là một việc làm
hết
sức cần thiết đối với hệ thống ngân hàng thương mại của Việt
nam.
Việc nghiên cứu này sẽ cho ta thấy rõ được các loại rủi ro,
nguyên
nhân xuất hiện rủi ro và hậu quả của nó, và để từ đó đề ra các
giải pháp
hữu hiệu, thiết thực nhằm hạn chế rủi ro, giảm thiểu tổn
thất cho hệ
thống ngân hàng.
Xuất phát từ những vấn đề trong lý thuyết cũng như thực trạng
hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt nam, em mạnh
dạn
lựa chọn đề tài nghiên cứu:
"Các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng ở Việt nam"

Khi nghiên cứu về ngân hàng, do có sự xâm nhập mạnh mẽ
của
các định chế tài chính phi ngân hàng và sự phát triển đa dạng của
bản
thân ngành ngân hàng nên rất khó để đưa ra một định nghĩa
chính
xác, ngắn gọn về ngân hàng.
Ở Việt Nam, luật các tổ chức tín dụng đã đưa ra một định
nghĩa về ngân hàng như sau: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng
được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan. Trong đó hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên
là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các
dịch vụ thanh toán.
Hệ thống ngân hàng hiện nay được chia thành hai bộ phận
chính: Ngân hàng Trung Ương và các ngân hàng trung gian. Vì sự
liên
đối mật thiết với nhau trên thị trường tiền tệ và tài chính, nhiều
tổ chức
không phải là ngân hàng nhưng cũng tham gia vào hoạt động
cho vay và
kinh doanh tiền tệ như các tổ chức tín dụng, công ty Bảo hiểm, công ty
Tài chính, các quỹ tiền tệ được nhiều nước xem như là bộ phận thứ ba
của hệ thống ngân hàng .

2/ Những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng
Như phần trên đã nghiên cứu, hệ thống ngân hàng hiện nay
được chia thành hai bộ phận chính, và mỗi bộ phận này sẽ thực hiện
những chức năng riêng có của nó.
Ở tất cả các nước, Ngân hàng Trung Ương là cơ quan duy nhất

dụng vốn và các hoạt động trung gian khác.
Về hoạt động tập trung huy động vốn, ngân hàng có thể tạo lập
nguồn vốn thông qua hoạt động mở tài khoản tiền gửi cho khách
hàng, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, hoặc đi vay các ngân
hàng khác. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng Thương mại có thể được
hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như do Nhà nước cấp, do các cổ
đông góp vốn hoặc của các bên liên doanh; ngoài ra, vốn chủ sơ hữu
còn có thể do ngân hàng mở rộng các hoạt động như làm dịch vụ, đại
lý 4
Về hoạt động sử dụng vốn, Ngân hàng Thương mại có thể cho
vay. Đây hoạt động chủ yếu của các Ngân hàng Thương mại và nó
cũng phản ánh đúng tính chất của các Ngân hàng Thương mại là
huy
động vốn để cho vay
. Bên cạnh đó, Ngân hàng Thương mại cũng có
thể đầu tư kinh doanh chứng khoán, đầu tư tài sản cố định
Ngân hàng Thương mại còn thực hiện một số hoạt động trung
gian khác như làm trung gian thanh toán cho khách hàng, chuyển tiền cho
khách hàng, tư vấn, môi giới chứng khoán
Chính vì những đặc trưng trong hoạt động của các Ngân hàng
Thương mại như nêu trên mà những rủi ro trong hoạt động ngân hàng
thường gắn liền với các Ngân hàng Thương mại .

II/


thành phần này và thúc đẩy sự cạnh tranh lẫn nhau một cách lành
mạnh.
Rủi ro tuy là sự bất trắc gây thiệt hại không mong đợi song lại
là hiện tượng dồng hành với các hoạt động kinh doanh trong cơ chế
thị trường, trong quá trình cạnh tranh. Rủi ro xuất hiện ở những điểm
yếu, kém hiệu quả, mất cân đối trong phát triển kinh tế. Rủi ro vừa là
nguyên nhân, vừa là hậu quả của những hoạt động kinh tế không có
hiệu quả. Nó tạo tiền đề cho quá trình đào thải tự nhiên của các
doanh nghiệp yếu kém, thúc đẩy sự chấn chỉnh, thích nghi của các
doanh nghiệp, tạo xu hướng phát triển ổn định và có hiệu quả cho
nền kinh tế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của
các Ngân hàng Thương mại cũng không nằm ngoài sự tác động trên.
Thậm chí, với hoạt động ngân hàng, hầu như không có loại nghiệp vụ
nào, không có loại dịch vụ nào của ngân hàng là không có rủi ro bởi
một lẽ là hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại trong nền
kinh tế thị trường là một hoạt động rất nhậy cảm, mọi biến động
trong nền kinh tế-xã hội đều nhanh chóng tác động đến hoạt động
ngân hàng, có thể gây nên những xaó trộn bất ngờ và dẫn đến hiệu
quả của ngân hàng bị giảm sút một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt
động kinh doanh của ngân hàng thương mại luôn chứa đựng những
rủi ro “tiềm ẩn”, nó có thể xẩy ra bất cứ lúc nào.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực đặc biệt do
hàng hoá của nó là tiền tệ-loại hàng hoá có tính nhạy cảm và sức
cuốn hút rất lớn; vì vậy mà rủi ro trong kinh doanh ngân hàng cũng rất
lớn và đa dạng.
Do vậy, nhận thức rõ từng loại rủi ro, đề ra những biện pháp
ngăn chặn phòng chống hữu hiệu để hạn chế thấp nhất rủi ro luôn là
vấn

Rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra
trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi
bên đi vay, trong một giao dịch nào đó, không thực hiện được việc
thanh toán tiền vay theo thời hạn và điều kiện trong hợp đồng
làm cho
người cho vay phải gánh chịu tổn thất tài chính.
Rủi ro tín dụng có muôn hình muôn vẻ, với nhiều hình thái,
cung bậc khác nhau, chúng tiềm ẩn trong suốt quá trình trước, trong

sau khi cho vay và biểu hiện ra bên ngoài là món vay không thu
hồi
được, nợ quá hạn, nợ khó đòi, mất vốn
Để xem xét thực trạng rủi ro tín dụng của một ngân hàng, người
ta thường phải xét đến tỷ trọng nợ quá hạn cao hay thấp. Trong tỷ
trọng nợ quá hạn, người ta lại chia ra tỷ trọng nợ quá hạn dưới sáu
tháng, nợ quá hạn dưới một năm, nợ quá hạn trên một năm, nợ quá
hạn khó đòi, nợ không có khả năng thu hồi Các tỷ trọng này càng
cao thì khả năng bảo toàn vốn tín dụng của ngân hàng càng thấp.
Khi nghiên cứu về các nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng,
người ta đã đưa ra một số nguyên nhân chủ yếu sau: nguyên nhân
khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân khách quan là nguyên nhân bất khả kháng, thông
tin không cân xứng, sự điều khiển sai lệch của cơ chế thị trường.
Nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân từ phía ngân hàng (mà chủ 7

Rủi ro này là hậu quả của những thay đổi lãi suất. Trong nền
kinh tế, lãi suất là yếu tố rất nhạy cảm đối với biến động của nền
kinh tế; hơn nữa, nó là công cụ trong việc thực hiện chính sách tài
chính tiền tệ của Chính phủ. Vì vậy, rủi ro lãi suất là rủi ro xuất hiện
thường xuyên trong hoạt động kinh doanh ngân hàng .
Như vậy, rủi ro lãi suất là những tác động do biến động lãi suất
đối với hoạt động của ngân hàng. Rủi ro lãi suất bắt nguồn từ mối
quan hệ qua lại của tài sản Có, tài sản Nợ và các hợp đồng ngoại
bảng.
Cơ cấu tài sản Có, tài sản Nợ sẽ quyết định tình trạng rủi ro lãi
suất của một ngân hàng. Tình trạng rủi ro lãi suất phụ thuộc vào mức 8
độ cân đối giữa tài sản Có và tài sản Nợ mà điển hình là khi ngân
hàng dùng tài sản Nợ ngắn hạn hoặc với lãi suất thay đổi để đầu tư
vào
tài sản Có dài hạn hơn với lãi suất cố định. Ngân hàng sẽ gặp rủi
ro khi
lãi suất ngắn hạn tăng, chi phí ngân hàng tăng lên trong khi
thu nhập
ở tài sản Có dài hạn hơn vẫn giữ nguyên. Nếu chênh lệch
thu nhập ở tài
sản Có không bù đắp chi phí nghiệp vụ kinh doanh thì
ngân hàng sẽ bị ăn
mòn vào vốn. Ngược lại, khi nhận lại vốn với một
thời hạn và lãi suất ấn

đổi của tỷ giá hối đoái, bất kỳ một khoản nợ nào cho dù dài hay

9
ngắn, đối với một đồng tiền nhất định, đều có thể tạo cho ngân hàng
phải đối mặt với rủi ro tỷ giá hối đoái.
Sự thay đổi tỷ giá dẫn đến sự thay đổi giá trị ngoại hối, cụ thể:
- Nếu ngân hàng có dư dật về ngoai tệ nào đó, khi ngoại tệ đó lên
giá, ngân hàng sẽ có lãi, ngược lại ngân hàng sẽ lỗ khi ngoại tệ
đó
xuống giá.
- Nếu ngân hàng ở vị đoản về loại ngoại tệ nào đó, khi ngoại tệ
đó
lên giá, ngân hàng sẽ lỗ và ngược lại ngân hàng sẽ có lãi nếu
ngoại
tệ đó xuống giá.
Một trạng thái ngoại hối dù ở thế trường hay thế đoản đều có
nguy cơ gây tổn thất cho các nhà giao dịch. Dư dật về ngoại tệ càng
lớn
thì rủi ro càng cao khi tỷ giá giảm; ngược lại, đoản về ngoại tệ
nào đó
càng mạnh thì rủi ro cũng không ít khi tỷ giá giảm.
Khi phân biệt tình hình lãi, lỗ ngoại hối theo vị thế ngoại hối,
người ta so sánh số lỗ, lãi thực tế xảy ra so với mức lỗ, lãi dự kiến,
qua đó đánh giá chất lượng quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái của một

- Khi đến hạn, các khoản cho vay khó thu hồi được, uy tín của
ngân hàng giảm sút, người gửi tiền và người đi vay thường phản ứng
trước những khó khăn của ngân hàng bằng cách sử dụng hết hạn mức tín
dụng để đảm bảo có tiền cho những nhu cầu về sau hoặc rút hết số dư tiền
gửi vì sợ có thể không rút được.
Tất cả những khía cạnh trên dẫn đến những rủi ro trong thanh
toán của ngân hàng. Các nhà chuyên môn khẳng định rằng đây là loại
rủi
ro riêng của ngân hàng và liên quan đến sự sống còn của ngân
hàng.
Rủi ro này thường là hậu quả của một hay nhiều loại rủi ro mà ngân
hàng không lường trước được.
Trong trường hợp này, vốn tự có của ngân hàng không có khả
năng bù đắp hết tất cả các khoản mất mát, thiệt hại, ngân hàng dễ rơi vào
tình trạng vỡ nợ hay phá sản.

5/ Rủi ro về nguồn vốn
Rủi ro về nguồn vốn thường xẩy ra dưới hai hình thức: rủi ro
thiếu vốn và rủi ro thừa vốn. Trước hết, chúng ta cần phải hiểu rõ về
khái niệm thừa và thiếu vốn trong kinh doanh ngân hàng.
Thừa vốn là tình trạng vốn tồn đọng ở quỹ nghiệp vụ, bao gồm cả
quỹ thanh toán tiền gửi ở ngân hàng Nhà Nước, quỹ tiền mặt, quỹ dự trữ
của ngân hàng.
Thiếu vốn là tình trạng xuất hiện trong các bộ phận thanh toán của
ngân hàng.
Rủi ro do thừa vốn
: Ngân hàng Thương mại thông qua hình
thức “đi vay để cho vay” nhằm kiếm lợi nhuận, còn nguồn vốn tự có
”chỉ là cái đệm chống đỡ sự sụt giá của các tài sản Có”. Khi nguồn
vốn huy động của ngân hàng bị ứ đọng có nghĩa là ngân hàng không

Một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ trong hoạt động của
một ngân hàng hiện đại là việc mở rộng các nghiệp vụ ngoại bảng.
Theo định nghĩa, hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc
bảng cân đối tài sản (nội bảng), bởi vì các hoạt động này không liên
quan đến việc nắm giữ các chứng khoán hay giấy nhận nợ thứ cấp.
Tuy nhiên, các hoạt động ngoại bảng có thể ảnh hưởng đến trạng thái
tương lai của bảng cân đối tài sản nội bảng bởi vì các hoạt động
ngoại bảng có thể tạo ra những tài sản Có và tài sản Nợ bổ sung cho
bảng cân đối nội bảng.
Xuất phát từ tính chất của các hoạt động ngoại bảng là ngân
hàng thu được phí trong khi không phải sử dụng đến vốn kinh doanh
cho nên đã khuyến khích phát triển các hoạt động ngoại bảng ngày
càng phát triển. Tuy nhiên, hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Chẳng hạn, trong trường hợp công ty phát hành trái phiếu phá sản thì
ngân hàng phải đứng ra thanh toán toàn bộ gốc và lãi chứng khoán do
công ty phát hành. Trong thực tế, những trường hợp thua lỗ nghiêm
12
trọng trong các hoạt động ngoại bảng đã trở thành nguyên nhân chính
khiến cho ngân hàng có thể phá sản.
Ngày nay, hoạt động ngoại bảng rất phong phú và đa dạng.
Trong khi một số hoạt động ngoại bảng được sử dụng tích cực vào việc
phòng ngừa rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối và rủi ro tín dụng
thì nếu
việc quản trị điều hành không hiệu quả hoặc không đánh giá 13
ngoài cũng có thể chịu rủi ro đầu tư nước ngoài, đó là rủi ro
Quốc gia.
Rủi ro Quốc gia còn nghiêm trọng hơn cả trường hợp tín
dụng mà ngân hàng gặp phải khi đầu tư cho các công ty nội địa.
Trong trường hợp ngân hàng đầu tư cho công ty nước ngoài thì
ngay cả trong trường hợp công ty có khả năng và sẵn sàng hoàn
trả vốn vay, nhưng cũng có thể không thực hiện được, bởi vì
Chính phủ nước này cấm hoặc hạn chế việc thanh toán cho nước
ngoài do dự trữ ngoại hối hạn hẹp hoặc vì lí do chính trị. 14

PHẦN II

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG
VÀ BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
NGÂN HÀNG CỦA VIỆT NAM

I/ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA
Với chính sách và thành tựu đổi mới nền kinh tế, ngành ngân
hàng Việt nam đã có những thay đổi bước ngoặt. Việt nam đã xây
dựng được những cơ sở quan trọng cho một nền kinh tế thị trường và
một
hệ thống ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường.
Hơn 10 năm qua, nhờ tích cực đổi mới và hội nhập, Việt nam đã
đẩy lùi và kiềm chế được lạm phát, ổn định vĩ mô, tạo điều kiện
cho
nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao trong nhiều năm, từng
bước
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện
đại hoá,
đạt được thành tựu nổi bật trong sự nghiệp xoá đói giảm
nghèo, ổn

hai, nó làm cho các ngân hàng thương mại vốn đã non yếu giờ
càng khó khăn thêm, đồng thời còn gây ra những khó khăn
hơn
trong quá trình quản lý rủi ro tín dụng
Về chính sách lãi suất
. Tháng 7 vừa qua, ngân hàng nhà
nước Việt nam đã xoá bỏ chính sách lãi suất cố định và đưa ra
chính sách lãi suất hợp lý hơn, cho phép các ngân hàng thương
mại đưa ra mức lãi suất hợp lý mà người vay chấp nhận được (
0,75%/tháng ), và cho phép các tổ chức tín dụng tự đưa ra mức
lãi suất với điều kiện phần chênh lệch không được vượt quá 0,3%
đối với các khoản vay ngắn hạn và 0,5% đối với các khoản vay
trung và dài hạn. Tuy nhiên điều này cũng gây ra những khó khăn
cho ngân hàng trong việc cho vay đối với những khách hàng
mang tính rủi ro cao.
Thêm nữa, chúng ta đều thấy năm vừa qua lãi suất trên thị
trường Việt nam giảm mạnh. Tuy nhiên đây không phải do chính
sách giảm lãi suất của nhà nước, mà trên thực tế nhà nước hoàn
toàn bị động. Nguyên nhân ở đây chính là: do lãi suất thực bằng
lãi suất danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát. Mà trong những năm vửa
qua, do tình trạng nền kinh tế yếu kém, trì trệ đã kéo tỷ lệ lạm
phát xuống, và vì vậy lãi suất cũng bị giảm xuống theo.
- Rủi ro về đầu tư tín dụng ở các Ngân hàng Thương mại:
+ Chẳng hạn như một số vụ án kinh tế như vụ của
công ty Minh Phụng Những vụ án này đã gây những hậu quả
thiệt hại nặng nề cho ngân hàng và cho nền kinh tế Việt nam.
+ Rủi ro cho vay từ cầm cố, thế chấp.
+ Rủi ro trong bảo lãnh xuất nhập khẩu.
- Rủi ro trong thanh toán:


hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương mại. Trong khi đó,
huy động vốn để đáp ứng nhu cầu chi ngân sách hoặc cho những dự
án lớn dưới hình thức huy động bằng bán trái phiếu kho bạc với lãi
suất cao hơn lãi suất cùng loại của Ngân hàng Thương mại tại thời
điểm đó. Sự chênh lệch này đã tạo ra một hình thức cạnh tranh không
đáng có, đồng thời nó thể hiện tính không nhất quán trong việc thực
hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước.
Bên cạnh đó, những biến động tiền tệ và tỷ giá trong thời gian
qua đã tạo một áp lực về thanh khoản nội tệ ở một số nhiều trở nên 17
căng thẳng, buộc các ngân hàng đồng loạt phải giảm lãi suất để huy
động thêm nguồn vốn, và điều đó tăng sức “nóng” của thị trường vốn
và lãi suất. Hiện nay, lãi suất huy động tiết kiệm kỳ hạn dưới 1 năm
bình quân khoảng 0,85% tháng; sau khi dự trữ bắt buộc và đảm bảo
thanh toán thì lãi suất đầu vào gần 1,1%. Phần lớn các ngân hàng
chấp nhận huy động 0,9%-1%/tháng cũng có nghĩa là họ chấp nhận
hoà vốn hoặc lỗ nếu so với lãi suất ngắn hạn là 1,2%/tháng. Nếu tình
huống này kéo dài thì đây là nguy cơ rủi ro tiềm tàng đối với khả
năng tồn tại và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt nam đang còn
rất non yếu. Thêm nữa, hệ thống ngân hàng hiện nay đang ở trong
tình trạng ứ đọng vốn trầm trọng, tốc độ tăng trưởng tín dụng không
tương xứng với tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn huy động do sức
hấp thụ vốn của nền kinh tế thuyên giảm, tiến độ giải ngân của một
số dự án lớn chậm, tiền gửi của dân cư tiếp tục đổ vào hệ thống các
Ngân hàng Thương mại; trong khi đó, lãi suất cho vay thực tế trên thị

biện pháp hạn chế rủi ro được trình bày dưới đây.

II/ CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA, HẠN CHẾ RỦI RO
Sau khi phân tích các rủi ro trong hệ thống ngân hàng Việt nam

những nguyên nhân dẫn đến các loại rủi ro này, ta có thể có một số giải
pháp sau:

1/ Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng
1.1/ Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý
Chính sách tín dụng của một Ngân hàng Thương mại là một hệ
thống các biện pháp nhằm mở rộng hay thu hẹp hoạt động cho vay
của
nó với việc thực hiện 3 mục tiêu chủ yếu là lợi

nhuận cao, sự an
toàn và
sự lành mạnh. Đây là chính sách để quản lý cho vay, đảm bảo
hiệu quả
của vốn tín dụng, chính sách cho vay cần quy định cụ thể trong việc
xem xét các loại khách hàng có thể cho vay, tiêu chuẩn
ngân hàng có
thể cho vay. Chính sách tín dụng là kim chỉ nam đảm
bảo cho hoạt động
tín dụng đi đúng quĩ đạo. Chính sách tín dụng của
một ngân hàng cần bao
quát các vấn đề sau:
- Giới hạn về mặt địa lý, lĩnh vực đầu tư tín dụng
- Thể thức cho vay
- Giới hạn kỳ hạn nợ, thời hạn cho vay

trình cho vay.
Về quá trình thẩm đinh
: quá trình này được bắt đầu từ khi nhận
đơn
xin vay cho đến khi phát tiền vay, trong giai đoạn này chú ý đến
mục
tiêu kinh doanh, các nguyên tắc tín dụng đã quy định. Đây là
giai
đoạn khởi đầu nên mức độ rủi ro phụ thuộc nhiều vào việc xem xét, lập
hồ sơ vay vốn, đánh giá tài sản thế chấp, quyết định cho vay và giám sát
sau khi vay. Trong quá trình này, các ngân hàng phải tập trung đánh giá
những mặt sau:
+ Năng lực pháp lý của khách hàng
: khách hàng vay vốn phải có tư
cách pháp nhân. Đây là điều kiện tiên quyết để ngân hàng xem xét
cho
vay nhằm xác định trách nhiệm trước pháp luật về việc trả nợ
vay cho
ngân hàng.
+ Uy tín của người vay vốn
: đây là yếu tố hết sức quan trọng mà
ngân hàng cần phải đánh giá. Phần lớn các thông tin về khách hàng
đều đã được ngân hàng biết đến. Đối với một khách hàng truyền
thống, những giao dịch trước đó của ngân hàng với họ sẽ đưa lại một
lượng thông tin về tính trung thực, các nguồn tài chính và năng lực
của khách hàng, thông tin về tính nghiêm túc trong việc thực hiện
nghĩa vụ trả nợ, tính ổn định trong sản xuất kinh doanh. Đối với
khách hàng mớivà tiềm năng, phần nhiều phụ thuộc vào sự giới thiệu,
quá trình tính toán, ngân hàng cần tính đến yếu tố rủi ro của
tài sản thế
chấp, cầm cố, bảo lãnh đó.
1.3/ Phân tán rủi ro
- Không nên tập trung cho vay một vài lĩnh vực, khu vực
vì khi đó
ngân hàng sẽ chịu ảnh hưởng của các yếu tố, khuynh hướng vận
động
của các khu vực đó (về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế,
chính trị,
xã hội).
- Ngân hàng Thương mại không nên dồn vốn đầu tư vào một vài
khách hàng
vì nếu khách hàng đó gặp khó khăn trong kinh doanh thì
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của Ngân hàng Thương mại. Do đó,
cần phải tôn trọng giới hạn an toàn. Bất kỳ một khoản vay nào vượt
giới hạn quy định so với vốn của ngân hàng đều có thể rơi vào trạng
thái rủi ro.

21
Ở Việt nam, Luật tổ chức tín dụng áp dụng từ ngày 1/10/ 1998 có
quy định rằng “dư nợ của một khách hàng không vượt quá 15%
vốn
của ngân hàng“, và “tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được xác định

phía khách hàng.
1.5/ Thực hiện tốt các hình thức đảm bảo tín dụng (Cầm cố, Thế
chấp, Bảo lãnh )
1.6/ Chú trọng đến nghệ thuật cho vay
Các ngân hàng cần phải hiểu rõ cho vay là một nghệ thuật chứ không
phải chỉ là một ngành khoa học đơn thuần. Do đó, cần phải đưa khía
cạnh con người trong các ứng xử và tâm lý và công tác đào tạo và tín
dụng, lựa chọn và sử dụng các cán bộ vừa có kỹ năng xử thế của con
người vừa có năng lực kỹ thuật.

22
Trên đây là một số biện pháp làm giảm rủi ro có tính chất cơ
bản. Tuy nhiên, trong từng điều kiện cụ thể của mỗi Ngân hàng
Thương mại, tổ chức tín dụng đều có những biện pháp và sách lược
riêng để hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.

2/ Biện pháp làm giảm rủi ro lãi suất
Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro lãi suất có thể giảm xuống
bằng cách vận dụng các phương pháp sau:
+ Cho vay vốn với lãi suất thả nổi
cho phép các ngân hàng có
những thay đổi tương ứng trong mức lãi suất cho vay phù hợp với sự
biến
động của lãi suất thị trường.

Các điều kiện của hợp đồng tương lai có thể dễ được xem xét lại khi
cần thiết.
+ Đa dạng hoá nguồn vốn ngoại tệ của ngân hàng
Ngoài các biện pháp trên, ngân hàng còn có thể áp dụng biện
pháp lựa chọn ngoại tệ, bảo hiểm ngoại tệ để giảm rủi ro hối đoái.

4/ Các biện pháp làm giảm rủi ro thanh toán
Để giảm rủi ro thanh toán, ngân hàng thường phải thực thi các
giái
pháp sau:
+
Tính toán nhu cầu khả năng thanh toán
: để tính toán được khả
năng thanh toán đòi hỏi phải đánh giá được nhu cầu tiền phải chi và
có thể phải chi. Muốn vậy phải dựa vào việc thanh toán nguồn tiền,
chi tiết về các nguồn tiền gắn với tài sản Nợ, tài sản Có hiện hành.
Ngân hàng phải dự tính khả năng tăng vốn trong cho vay và tiền
gửi
+ Quản lý khả năng thanh toán
nhằm duy trì đủ mức vốn cần
thiết để thanh toán cho các nhu cầu dự tính và nhu cầu đột xuất.
Giống như rủi ro về lãi suất, để quản lý khả năng thanh toán, các
ngân hàng buộc phải quản lý theo từng loại tiền mà ngân hàng có
giao dịch. Hơn nữa, để định lượng được những hậu quả trong một
môi trường bất ổn, ngân hàng thường có kế hoạch dự phòng bất trắc,
kế
hoạch này sẽ tính đến trường hợp xấu nhất có thể xẩy ra và đưa ra


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status