Các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam - Pdf 21

MỤC LỤC
Trang LỜI NÓI ĐẦU 2
NỘI DUNG

PHẦN I: LÝ LUẬN VỀ NHỮNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 3
I/ TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIỆP VỤ TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 3
1. Khái niệm 3
2. Những nghiệp vụ chủ yếu trong hoạt động ngân hàng 3
II/ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 5
1. Rủi ro 5
2. Rủi ro tồn tại khách quan trong hoạt động ngân hàng 5
III/ NHỮNG RỦI RO ĐẶC THÙ TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 6
1. Rủi ro tín dụng 6
2. Rủi ro lãi suất 8
3. Rủi ro hối đoái 9
4. Rủi ro thanh toán 10
5. Rủi ro nguồn vốn 11
6. Rủi ro hoạt động ngoại bảng 12
7. Rủi ro công nghệ hoạt động 12
8. Rủi ro quốc gia 13 PHẦN II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG CỦA VIỆT NAM
VÀ BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 14
I/ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM

sức cuốn hút đặc biệt. Chính tính đặc biệt riêng có này của tiền tệ mà
hoạt động kinh doanh ngân hàng vừa là một loại hoạt
động đem lại
hiệu quả rất lớn đối với nền kinh tế, vừa là một lĩnh
vực mà khả năng
xảy ra rủi ro cao.
Nghiên cứu về rủi ro trong hoạt động ngân hàng là một việc làm
hết
sức cần thiết đối với hệ thống ngân hàng thương mại của Việt
nam.
Việc nghiên cứu này sẽ cho ta thấy rõ được các loại rủi ro,
nguyên
nhân xuất hiện rủi ro và hậu quả của nó, và để từ đó đề ra các
giải pháp
hữu hiệu, thiết thực nhằm hạn chế rủi ro, giảm thiểu tổn
thất cho hệ
thống ngân hàng.
Xuất phát từ những vấn đề trong lý thuyết cũng như thực trạng
hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt nam, em mạnh
dạn
lựa chọn đề tài nghiên cứu:
"Các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng ở Việt nam"
và cho rằng việc tìm hiểu và nghiên cứu ván đề này là hết sức cần thiết đối
với
một sinh viên khoa Ngân hàng-Tài chính của trường Đại học KTQD.

Mặc dù đã có sự giúp đỡ hết sức nhiệt tình về mặt khoa học cũng như
tài liệu phục vụ bài viết của cô giáo TS. Nguyễn Thị Bất, nhưng do kiến
thức còn hạn chế nên bài viết của em sẽ không thể tránh khỏi những thiếu
sót

nghĩa về ngân hàng như sau: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng
được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan. Trong đó hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên
là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các
dịch vụ thanh toán.
Hệ thống ngân hàng hiện nay được chia thành hai bộ phận
chính: Ngân hàng Trung Ương và các ngân hàng trung gian. Vì sự
liên
đối mật thiết với nhau trên thị trường tiền tệ và tài chính, nhiều
tổ chức
không phải là ngân hàng nhưng cũng tham gia vào hoạt động
cho vay và
kinh doanh tiền tệ như các tổ chức tín dụng, công ty Bảo hiểm, công ty
Tài chính, các quỹ tiền tệ... được nhiều nước xem như là bộ phận thứ ba
của hệ thống ngân hàng .

2/ Những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng
Như phần trên đã nghiên cứu, hệ thống ngân hàng hiện nay
được chia thành hai bộ phận chính, và mỗi bộ phận này sẽ thực hiện
những chức năng riêng có của nó.
Ở tất cả các nước, Ngân hàng Trung Ương là cơ quan duy nhất
phát hành giấy bạc để đưa vào lưu hành trong nền kinh tế. Nó có

3
nhiệm vụ là tổ chức in tiền và đưa khối lượng tiền giấy vào trong lưu
thông thông qua kênh cần thiết, đồng thời lựa chọn, tiêu huỷ các

lý... 4
Về hoạt động sử dụng vốn, Ngân hàng Thương mại có thể cho
vay. Đây hoạt động chủ yếu của các Ngân hàng Thương mại và nó
cũng phản ánh đúng tính chất của các Ngân hàng Thương mại là
huy
động vốn để cho vay
. Bên cạnh đó, Ngân hàng Thương mại cũng có
thể đầu tư kinh doanh chứng khoán, đầu tư tài sản cố định ...
Ngân hàng Thương mại còn thực hiện một số hoạt động trung
gian khác như làm trung gian thanh toán cho khách hàng, chuyển tiền cho
khách hàng, tư vấn, môi giới chứng khoán...
Chính vì những đặc trưng trong hoạt động của các Ngân hàng
Thương mại như nêu trên mà những rủi ro trong hoạt động ngân hàng
thường gắn liền với các Ngân hàng Thương mại .

II/

RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG

1/ Rủi ro
Rủi ro trong kinh doanh được hiểu là những thiệt hại trong kinh
doanh có thể nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị kinh doanh. Từ
đó ta có nhận xét:
- Không được coi tất cả các thiệt hại trong kinh doanh là rủi ro

hiệu quả. Nó tạo tiền đề cho quá trình đào thải tự nhiên của các
doanh nghiệp yếu kém, thúc đẩy sự chấn chỉnh, thích nghi của các
doanh nghiệp, tạo xu hướng phát triển ổn định và có hiệu quả cho
nền kinh tế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của
các Ngân hàng Thương mại cũng không nằm ngoài sự tác động trên.
Thậm chí, với hoạt động ngân hàng, hầu như không có loại nghiệp vụ
nào, không có loại dịch vụ nào của ngân hàng là không có rủi ro bởi
một lẽ là hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại trong nền
kinh tế thị trường là một hoạt động rất nhậy cảm, mọi biến động
trong nền kinh tế-xã hội đều nhanh chóng tác động đến hoạt động
ngân hàng, có thể gây nên những xaó trộn bất ngờ và dẫn đến hiệu
quả của ngân hàng bị giảm sút một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt
động kinh doanh của ngân hàng thương mại luôn chứa đựng những
rủi ro “tiềm ẩn”, nó có thể xẩy ra bất cứ lúc nào.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực đặc biệt do
hàng hoá của nó là tiền tệ-loại hàng hoá có tính nhạy cảm và sức
cuốn hút rất lớn; vì vậy mà rủi ro trong kinh doanh ngân hàng cũng rất
lớn và đa dạng.
Do vậy, nhận thức rõ từng loại rủi ro, đề ra những biện pháp
ngăn chặn phòng chống hữu hiệu để hạn chế thấp nhất rủi ro luôn là
vấn
đề cấp bách thường xuyên liên tục tồn tại song song với hoạt
động
của ngân hàng.

sau khi cho vay và biểu hiện ra bên ngoài là món vay không thu
hồi
được, nợ quá hạn, nợ khó đòi, mất vốn...
Để xem xét thực trạng rủi ro tín dụng của một ngân hàng, người
ta thường phải xét đến tỷ trọng nợ quá hạn cao hay thấp. Trong tỷ
trọng nợ quá hạn, người ta lại chia ra tỷ trọng nợ quá hạn dưới sáu
tháng, nợ quá hạn dưới một năm, nợ quá hạn trên một năm, nợ quá
hạn khó đòi, nợ không có khả năng thu hồi... Các tỷ trọng này càng
cao thì khả năng bảo toàn vốn tín dụng của ngân hàng càng thấp.
Khi nghiên cứu về các nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng,
người ta đã đưa ra một số nguyên nhân chủ yếu sau: nguyên nhân
khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân khách quan là nguyên nhân bất khả kháng, thông
tin không cân xứng, sự điều khiển sai lệch của cơ chế thị trường.
Nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân từ phía ngân hàng (mà chủ 7
yếu là từ sự yếu kém của cán bộ ngân hàng, các nhà quản trị điều
hành không có năng lực, thiếu kiểm tra giám sát), nguyên nhân từ
phía khách hàng...
Ngày nay, các Ngân hàng Thương mại dù đã mở rộng kinh
doanh trên nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng hoạt động cho vay vẫn là
nguồn cơ bản tạo nên thu nhập của ngân hàng. Đặc biệt, ở những
nước đang phát triển như ở Việt Nam, hoạt động cho vay chiếm tới
90% hoạt động của ngân hàng, và vì thế mà rủi ro tín dụng là vấn đề

bảng.
Cơ cấu tài sản Có, tài sản Nợ sẽ quyết định tình trạng rủi ro lãi
suất của một ngân hàng. Tình trạng rủi ro lãi suất phụ thuộc vào mức 8
độ cân đối giữa tài sản Có và tài sản Nợ mà điển hình là khi ngân
hàng dùng tài sản Nợ ngắn hạn hoặc với lãi suất thay đổi để đầu tư
vào
tài sản Có dài hạn hơn với lãi suất cố định. Ngân hàng sẽ gặp rủi
ro khi
lãi suất ngắn hạn tăng, chi phí ngân hàng tăng lên trong khi
thu nhập
ở tài sản Có dài hạn hơn vẫn giữ nguyên. Nếu chênh lệch
thu nhập ở tài
sản Có không bù đắp chi phí nghiệp vụ kinh doanh thì
ngân hàng sẽ bị ăn
mòn vào vốn. Ngược lại, khi nhận lại vốn với một
thời hạn và lãi suất ấn
định, lợi nhuận ngân hàng sẽ bị giảm khi lãi
suất thị trường bị giảm
xuống.
Ngoài ra, rủi ro lãi suất còn có thể xảy ra trong những trường
hợp
sau đây:
- Lạm phát tăng, lãi suất buộc phải điều chỉnh theo xu hướng tăng lên,
chi phí cho hoạt động ngân hàng cũng tăng lên, do đó làm giảm


ngắn, đối với một đồng tiền nhất định, đều có thể tạo cho ngân hàng
phải đối mặt với rủi ro tỷ giá hối đoái.
Sự thay đổi tỷ giá dẫn đến sự thay đổi giá trị ngoại hối, cụ thể:
- Nếu ngân hàng có dư dật về ngoai tệ nào đó, khi ngoại tệ đó lên
giá, ngân hàng sẽ có lãi, ngược lại ngân hàng sẽ lỗ khi ngoại tệ
đó
xuống giá.
- Nếu ngân hàng ở vị đoản về loại ngoại tệ nào đó, khi ngoại tệ
đó
lên giá, ngân hàng sẽ lỗ và ngược lại ngân hàng sẽ có lãi nếu
ngoại
tệ đó xuống giá.
Một trạng thái ngoại hối dù ở thế trường hay thế đoản đều có
nguy cơ gây tổn thất cho các nhà giao dịch. Dư dật về ngoại tệ càng
lớn
thì rủi ro càng cao khi tỷ giá giảm; ngược lại, đoản về ngoại tệ
nào đó
càng mạnh thì rủi ro cũng không ít khi tỷ giá giảm.
Khi phân biệt tình hình lãi, lỗ ngoại hối theo vị thế ngoại hối,
người ta so sánh số lỗ, lãi thực tế xảy ra so với mức lỗ, lãi dự kiến,
qua đó đánh giá chất lượng quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái của một
ngân hàng.

4/Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời

nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Trong những
trường
hợp như vậy, ngân hàng phải đi vay bổ sung nguồn vốn thanh


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status