Xây dựng và quản lý danh mục đầu tư hiệu quả tại các công ty bảo hiểm Việt Nam - Pdf 12

Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
MỞ ĐẦU: GIỚI THIỆU
1. Tính cấp thiết và mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Mười lăm năm qua, nhất là những năm gần đây, ngành bảo hiểm đã có những
đóng góp nhất định vào sự phát triển của hệ thống tài chính nói riêng và tăng trưởng
kinh tế Việt Nam nói chung. Thị trường bảo hiểm Việt Nam là một kênh quan trọng
trên thị trường vốn, thể hiện tất cả các vai trò trên thị trường tài chính. Đó là đảm bảo
sự ổn định thông qua việc tập trung và phân tán rủi ro, tăng cường ổn định tài chính
trong hộ gia đình và doanh nghiệp, huy động vốn dài hạn và đầu tư dài hạn… Vì vậy
phát triển ngành bảo hiểm tương ứng với mức độ phát triển của nền kinh tế là một
nhu cầu khách quan. Do đặc thù của ngành, các doanh nghiệp bảo hiểm bao giờ cũng
tiến hành đồng thời hai hoạt động đó là kinh doanh bảo hiểm và đầu tư. Nếu như hoạt
động kinh doanh bảo hiểm của ngành thời gian qua có tốc độ phát triển khá nhanh thì
tổ chức hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm còn mờ nhạt chưa thể hiện
tính chuyên nghiệp. Một trong những nguyên nhân của thực trạng này là vấn đề quản
lý danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm còn hạn chế. Vì vậy, đề tài “Xây dựng
và quản lý danh mục đầu tư hiệu quả tại các công ty bảo hiểm Việt Nam” được lựa
chọn nghiên cứu nhằm phân tích thực trạng, xác định nguyên nhân và đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm
Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động đầu tư và quản lý danh mục đầu tư
của các công ty bảo hiểm thương mại đang hoạt động trên thị trường tài chính: Bao
gồm các công ty bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ, không đi vào phân tích hoạt
động đầu tư của các công ty môi giới bảo hiểm cũng như các tổ chức bảo hiểm khác
như bảo hiểm xã hội…
Thời gian được chọn nghiên cứu là 2004-2008.
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 1
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
3. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn bắt đầu bằng các lý luận được tổng kết từ kinh nghiệm của của các

trị khác lớn hơn nhưng mang tính không chắc chắn ở tương lai.
Hoạt động đầu tư luôn gắn liền với hai yếu tố là lợi nhuận và rủi ro. Lợi nhuận
là thu nhập có được từ một khoản đầu tư, thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm
giữa thu nhập và giá trị khoản đầu tư bỏ ra. Rủi ro được định nghĩa là sự sai biệt của
lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng. Có một nguyên tắc trong hoạt động đầu
tư là có sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận. Nếu khả năng sinh lời từ hoạt động đầu
tư càng lớn thì mức độ rủi ro sẽ càng cao và ngược lại.
Có thể tạm chia hoạt động đầu tư làm 2 mảng lớn:
 Đầu tư thực: Họat động đầu tư vào các tài sản thực như đất đai, nhà xưởng,
máy móc thiết bị.
 Đầu tư tài chính: Hoạt động đầu tư vào các tài sản tài chính như cổ phiếu,
trái phiếu và các công cụ tài chính khác. Nhà đầu tư tài chính thông thường chỉ nhắm
vào mục đích mua bán chứ ít làm tăng giá trị thực của công ty mà họ đầu tư vào.
Trong nền kinh tế, hai hoạt động này quan hệ và hỗ trợ nhau cùng phát triển.
1.1.2. Các nhân tố tác động đến quyết định đầu tư:
 Lợi nhuận có thể đạt được từ hoạt động đầu tư: Đây chính là mục tiêu của
nhà đầu tư. Vì vậy, nhà đầu tư sẽ đưa ra quyết định đầu tư nếu hoạt động đầu tư này
mang lại lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Để đo lường lợi nhuận (hoặc có thể sử dụng
thuật ngữ tỷ suất sinh lợi) từ hoạt động đầu tư, có một số các chỉ tiêu được biết đến
như NPV, IRR, PI, ROE, ROA, EPS... Tuy nhiên cần cân nhắc với nhân tố đi liền với
lợi nhuận là rủi ro.
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 3
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
 Rủi ro: Là sự dao động của lợi nhuận từ hoạt động đầu tư làm cho lợi
nhuận đạt được không như dự kiến. Lợi nhuận dao động càng lớn, rủi ro càng cao.
Có một thực tế là nhà đầu tư có tính ưa thích lợi nhuận và có tính không ưa thích rủi
ro. Lợi nhuận và rủi ro là hai thuộc tính không thể tách rời của bất kỳ một tài sản đầu
tư nào. Từ đó lợi nhuận và rủi ro cấu thành nên các công thức xác định giá cả của
một tài sản đầu tư. Nội dung của rủi ro sẽ được đề cập chi tiết hơn trong mục tiếp
theo:

r =
P
o
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
C
t
: Lượng tiền mặt nhận được của tài sản đầu tư từ kỳ t
o
đến t
t

r : Tỷ suất sinh lợi trong suốt kỳ t
 Rủi ro trong hoạt động dầu tư:
Như đã đề cập ở phần trên, sự dao động của lợi nhuận hay tỷ suất sinh lời của các
tài sản đầu tư là yếu tố gây ra rủi ro khi tiến hành các hoạt động đầu tư. Rủi ro trong
hoạt động đầu tư có thể chia ra làm:
 Rủi ro hệ thống: Ảnh hưởng đến giá của tất cả chứng khoán. Những thay đổi
về kinh tế, chính trị, xã hội... là những yếu tố gây ra rủi ro hệ thống. Rủi ro hệ thống
có thể chia ra làm ba loại:
- Rủi ro thị trường: Đây là rủi ro hệ thống chỉ xảy ra với cổ phiếu. Rủi ro thị
trường chính là sự dao động của giá cổ phiếu, sự thay đổi của lãi suất đầu tư đối với
nhiều loại cổ phiếu trong một thời gian ngắn mặc đù thu nhập của công ty vẫn không
thay đổi. Rủi ro thị trường xuất hiện do những phản ứng của nhà đầu tư đối với các
sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội mà chủ yếu là do yếu tố tâm lý của thị trường tạo
nên phản ứng dây chuyền làm giá cả chứng khoán dao động mạnh gây ra rủi ro.
- Rủi ro lãi suất: Sự dao động trong mức lãi suất chung tạo ra sự dao động
trong giá thị trường và thu thập trong tương lai của chứng khoán, đó là rủi ro lãi suất.
Nguyên nhân chính của rủi ro này là do sự thay đổi của lãi suất trái phiếu chính phủ,
dẫn đến sự thay đổi trong mức sinh lời kỳ vọng của những chứng khoán khác (cổ
phiếu, trái phiếu công ty). Nói cách khác, Chính phủ vay vốn đối với chứng khoán

Rủi ro không
hệ thống
Rủi ro
hệ thống
Rủi ro
Tổng thể
Hình 1.1. Rủi ro hệ thống và không hệ thống
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
( )
2
1
1
= ( )
1
n
i
i
r r
n
s
=
-
-
å
Trong đó:

i
r
: Là tỷ suất sinh lợi trong trường hợp thứ i
r

i m
i
m
Cov r r
b
s
=
Trong đó:
( , )
i m
Cov r r
: Là hiệp phương sai giữa tỷ suất sinh lợi của tài sản thứ i và tỷ suất
sinh lợi thị trường.
Các tài sản đầu tư có beta lớn hơn 1 có khuynh hướng khuếch đại các thay đổi
tổng thể của thị trường. Nếu beta nằm giữa 0 và 1, thì tỷ suất sinh lợi của tài sản đầu
tư này có khuynh hướng di chuyển cùng hướng với tỷ suất sinh lợi của thị trường
nhưng không lệch nhiều lắm.
1.1.5. Mối quan hệ giữa rủi ro và tỷ suất sinh lợi (mô hình CAPM):
Tỷ suất sinh lợi của một tài sản có mối tương quan xác định với rủi ro của tài
sản đó. Nghĩa là nhà đầu tư nắm giữ một tài sản có rủi ro chỉ khi tỷ suất sinh lợi của
tài sản này bù đắp đủ phần rủi ro được thể hiện qua công thức sau:
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 7
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
( )
f m f
r r r r
b
= + -´
Trong đó:
m

tư đạt được:
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 8
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
 Hoặc là lãi suất kỳ vọng cao nhất với cùng một mức độ rủi ro so với các
danh mục đầu tư khác.
 Hoặc là có cùng lãi suất kỳ vọng với độ rủi ro nhỏ nhất.
1.2.2. Quy trình quản lý danh mục đầu tư:
Nhìn chung, một quy trình quản lý danh mục đầu tư sẽ đi theo các bước cụ thể
như sau:
 Lựa chọn các tài sản đầu tư đưa vào danh mục.
 Xác định mức phân bổ vốn đầu tư vào từng tài sản.
 Xác định hiệu quả (mức sinh lợi) và mức độ rủi ro của danh mục từ các tài sản
và tỷ trọng vốn vào từng tài sản đã được lựa chọn.
 Điều chỉnh danh mục khi có những tác động bất lợi của thị trường.
1.2.3. Các chiến lược quản lý danh mục đầu tư:
Các chiến lược quản lý có thể kể đến gồm có hai dạng chính: Quản lý thụ
động và quán lý chủ động.
 Quản lý thụ động: Gắn với việc mua và giữ chứng khoán trong một thời
gian dài. Chỉ điều chỉnh chút ít và hạn hữu trong suốt thời gian nắm giữ nó. Việc
quản lý danh mục đầu tư theo chiến lược thụ động phù hợp với hai điều kiện cần thỏa
mãn của thị trường chứng khoán là: Thị trường hiệu quả và tính đồng nhất của các dự
tính. Nếu thị trường chứng khoán hiệu quả thì các chứng khoán sẽ luôn được định giá
một cách hợp lý. Sẽ không có các chứng khoán bị đánh giá sai và vì vậy không có
động lực kích thích hình thức buôn bán chứng khoán chủ động. Mặt khác, nếu trong
thị trường chứng khoán, tất cả các nhà đầu tư đều có các dự tính thống nhất về tỷ lệ
rủi ro và thu nhập chứng khoán, dẫn đến việc nhất trí quan điểm về danh mục vốn
đầu tư thị trường, về đường thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thì lại một lần
nữa không khuyến khích hình thức buôn bán chứng khoán chủ động. Và đầu tư kiểu
này còn được gọi là đầu tư chứng khoán dài hạn.
 Quản lý chủ động: Gắn liền với những điều chỉnh thường xuyên và đôi

 Đa dạng hóa giản đơn:
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 10
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
Đa dạng hóa giản đơn là việc kết hợp hóa một cách ngẫu nhiên một số chứng
khoán với quyền số bằng nhau nhằm giảm rủi ro có thể đa dạng hóa (theo một số
nghiên cứu thì số chứng khoán kết hợp ngẫu nhiên này chỉ từ 10-15 cổ phiếu là
được). Mặc dù đa dạng hóa được phân tích với các quá trình chọn lựa ngẫu nhiên và
quyền số bằng nhau là một kỹ thuật sơ đẳng, tuy vậy các kỹ thuật sơ đẳng này không
làm mất khả năng hạ thấp rủi ro trong một danh mục đa dạng hóa (trung bình khoảng
15 tài sản thì giảm được ½ rủi ro).
 Đa dạng hóa giữa các ngành:
Một số nhà đầu tư khuyên nên chọn các chứng khoán từ các ngành khác nhau
để đạt được sự đa dạng hóa tốt nhất. Tuy nhiên những nghiên cứu thực tế lại cho thấy
việc đa dạng hóa giữa các ngành không tốt hơn nhiều so với việc lựa chọn ngẫu nhiên
do lợi nhuận từ chứng khoán ở các ngành đều có mối tương quan lớn với nhau, cùng
lên hoặc cùng xuống, do đó không thể triệt tiêu bằng đa dạng hóa theo các lựa chọn
chứng khoán giữa các nhà đầu tư. Để khẳng định hơn nữa Lorie và Fisher đã thống
kê và đưa ra bảng kết quả như sau:
Số cổ phiếu
trong danh
mục
Kỹ thuật đa
dạng hóa sử
dụng
Lợi nhuận
tối thiểu (%)
Lợi nhuận
tối đa (%)
Lợi nhuận
trung bình

121
98
93
78
13
13
13
13
13
13
13
0.22
0.22
0.21
0.21
0.20
0.20
0.19
Bảng thống kê kết quả từ các kỹ thuật đa dạng hóa khác nhau nghiên cứu trên
thị trường chứng khoán NewYork. Hai ông cũng đưa ra nhận xét:
 Đa dạng hóa bằng cách chọn chứng khoán từ nhiều ngành không tốt hơn
nhiều so với chọn ngẫu nhiên.
 Việc tăng số lượng chứng khoán trong danh mục lên cao thực ra không làm
giảm đáng kể rủi ro của danh mục.
Như vậy, không nên đa dạng hóa quá mức danh mục đầu tư, thông thường từ
10-15 tài sản khác nhau cho một danh mục đã đảm bảo hạ thấp rủi ro theo các đa
dạng hóa giản đơn. Nếu đa dạng hóa quá mức, đầu tư vào quá nhiều chứng khoán sẽ
dẫn đến những bất lợi sau:
 Không có khả năng quản trị tốt danh mục: Nếu danh mục bao gồm quá
nhiều tài sản khác nhau thì người quản trị danh mục không thể đồng thời nắm bắt hết

Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 13
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
Lợi nhuận
Xác suất
Lợi nhuận dự kiến
Hệ số biến thiên (%)
Độ lệch chuẩn (%)
7% hoặc 11%
50% mỗi mức lợi nhuận
9%*
4
2
13% hoặc 5%
50% mỗi mức lợi nhuận
9% **
16
4
* Lợi nhuận dự kiến = 0,5 x 7% + 0,5 x 11% = 9%
** Lợi nhuận dự kiến = 0,5 x 13% + 0,5 x 5% = 9%
Mặc dù X và Y đều có lợi nhuận dự kiến là 9%, Y vẫn có tính rủi ro hơn X
(độ lệch chuẩn là 4 so với 2). Giả sử khi lợi nhuận của X cao thì lợi nhuận của Y
thấp, và ngược lại. Nói cách khác, khi lợi nhuận của X là 7%. Lợi nhuận của Y là
13%. Hỏi liệu danh mục bao gồm một số X và một số Y có ưu việt hơn chút nào đó
so với chỉ đầu tư vào X không? (X là cổ phiếu có tính rủi ro thấp hơn).
Chúng ta hãy xây dựng một danh mục bao gồm 2/3 là cổ phiếu X và 1/3 là cổ
phiếu Y. Lợi nhuận bình quân của danh mục này chính là lợi nhuận bình quân gia
quyền của từng loại chứng khoán trong danh mục là:
n
p i i
i=1

và lợi nhuận thực hiện của chúng sẽ luôn luôn là 9%, với độ lệch chuẩn là 0. Chúng
ta khó có thể mong chờ việc đạt được lợi nhuận dự kiến tương tự mà rủi ro thấp hơn.
Việc giảm rủi ro của một danh mục bằng cách pha lẫn vào danh mục một loại
chứng khoán mà rủi ro của nó lớn hơn rủi ro của bất kỳ chứng khoán nào được đầu tư
từ đầu hàm ý là: Quá trình làm giảm tính rủi ro của danh mục chỉ bằng cách biết
được tính rủi ro của các chứng khoán cá thể là không thể được. Điều quan trọng là
chúng ta cũng phải hiểu rõ tác động qua lại của rủi ro giữa các chứng khoán với
nhau.
Làm thế nào để đạt đến các tỷ lệ thích hợp của cổ phiếu X và Y để làm giảm
rủi ro xuống còn 0. Việc tìm ra hai chứng khoán mà thị trường kia có khuynh hướng
xấu thì càng chắc chắn lợi nhuận hợp lý đối với danh mục nói chung, cho dù một
trong các thành phần của nó thật sự có rủi ro.
Nghiên cứu rủi ro của danh mục:
Rủi ro liên quan với các chứng khoán cá biệt có thể đo lường bằng độ lệch
chuẩn hoặc hệ số biến thiên. Khi kết hợp hai chứng khoán, chúng ta cần xem xét tác
động qua lại giữa các rủi ro chung, gọi là hiệp phương sai (covariance). Nếu lợi
nhuận của hai chứng khoán vận động cùng chiều, hiệp phương sai của chúng dương.
Nếu lợi nhuận của chúng độc lập với nhau hiệp phương sai của chúng là 0 và vận
động nghịch chiều sẽ có hiệp phương sai âm. Biểu diễn bằng phương trình toán học
thì hiệp phương sai là:
__ __
xy x x y y
1
COV R -R R -R
2
é ùé ù
ê úê ú
=
ê úê ú
ë ûë û

,
nghĩa là tỷ suất sinh lợi với hai cổ phiếu cùng thay đổi trong một kiểu tuyến tính xác
định hoàn toàn. Giá trị -1 có thể nhấn mạnh mối quan hệ phủ định hoàn toàn giữa hai
chuỗi tỷ suất sinh lợi. Như khi tỷ suất sinh lợi một cổ phiếu cao hơn mức trung bình,
tỷ suất sinh lợi của những cổ phiếu khác sẽ thấp hơn mức trung bình bằng một số
lượng lớn. Hệ số tương quan được tính toán như sau:

COV xy
xy
xy
r
y

Với :
r
xy
: Hệ số tương quan của X và Y.
COV
xy
: Tương quan biến thiên giữa X và Y.
σ
x
: Độ lệch chuẩn của X.
σ
y
:Độ lệch chuẩn của Y.
Trong thí dụ nêu ở phần trên, hệ số tương quan là:

σ = w .σ + w .w .COV (*)
å å å
Trường hợp danh mục chỉ gồm 2 chứng khoán, phương sai của danh mục sẽ
được áp dụng như sau:
Áp dụng công thức (*) với n = 2 ta được
2 2 2 2 2
p 1 1 2 2 1 2 12
. . 2w .w .COV w w= + +s s s
Trường hợp danh mục gồm 3 chứng khoán, ta cũng áp dụng (*) với n = 3 tính
được phương sai của danh mục như sau:
2 2 2 2 2 2 2
p 1 1 2 2 3 3 1 2 12 1 3 13 2 3 23
. . . 2w .w .COV 2w .w .COV 2w .w .COV w w w= + + + + +s s s s
2
p
s
: Độ lệch chuẩn của danh mục.
p
s
: Độ lệch chuẩn của cổ phiếu i.
w
i
: Tỷ trọng đầu tư vào cổ phiếu i trong danh mục đầu tư.
Cov
ij
: Hiệp phương sai của hai cổ phiếu.
Chúng ta có thể thấy rằng, rủi ro danh mục (
p
s
) nhạy cảm với tỷ lệ đầu tư

2
+ (1- 1/N) COV
Nếu số lượng chứng khoán trong danh mục tăng lên (N -> ∞) thì phương sai
danh mục chỉ còn lại
2
p
s
= COV
Điều này đưa đến một kết luận quan trọng là có thể loại trừ hoàn toàn các rủi
ro không hệ thống bằng cách nắm giữ một số lượng lớn chứng khoán, lúc này rủi ro
của danh mục chỉ còn lại là rủi ro thị trường.
1.2.4.3. Xây dựng mô hình danh mục đầu tư theo Harry Markowitz:
Để giảm thiểu rủi ro cho khoản đầu tư vào thị trường chứng khoán, hoạt động
đầu tiên và quan trọng nhất của việc quản lđ ý danh mục đầu tư là phải xây dựng một
danh mục đầu tư hiệu quả. Chúng ta cần làm rõ một số giả định chung của lý thuyết
danh mục của Harry Markowitz:
(1) Các nhà đầu tư xem mỗi khoản đầu tư khác nhau được đại diện cho một sự phân
phối xác suất của tỷ suất sinh lợi mong đợi lên một vài thời kỳ nắm giữ.
(2) Các nhà đầu tư luôn muốn tối đa hóa lợi ích mong đợi trong một thời kỳ nhất định
và đường cong hữu dụng của họ chứng tỏ việc thu nhỏ mức hữu dụng biên tế của sự
giàu có.
(3) Các nhà đầu tư đánh giá rủi ro của danh mục đầu tư dựa trên cơ sở phương sai
của tỷ suất sinh lợi mong đợi.
(4) Các nhà đầu tư căn cứ trên những quyết định độc lập của tỷ suất sinh lợi và rủi ro
mong đợi, vì vậy đường cong hữu dụng của họ là một phương trình của tỷ suất sinh
lợi và phương sai (hoặc độ lệch chuẩn) của tỷ suất sinh lợi.
(5) Với một mức độ rủi ro cho trước, các nhà đầu tư ưa thích tỷ suất sinh lợi cao hơn
là một tỷ suất sinh lợi thấp. Tương tự, với một mức độ tỷ suất sinh lợi mong đợi cho
trước, các nhà đầu tư thích ít rủi ro hơn là nhiều rủi ro.
Với những giả định này, một tài sản riêng lẻ hay danh mục của những tài sản

khác. Khi một hợp đồng bảo hiểm được ký kết, nhà kinh doanh bảo hiểm tiến hành
thu phí trước của khách hàng. Sau đó bằng sự cam kết của mình thông qua hợp đồng
bảo hiểm – các công ty sẽ thực hiện trách nhiệm đối với khách hàng. Chính vì lẽ ấy
người ta gọi kinh doanh bảo hiểm có “chu trình sản xuất ngược”. Nói cách khác,
cùng với hoạt động kinh doanh chính là bảo hiểm thì các công ty bảo hiểm luôn phải
quản lý một nguồn vốn lớn và ổn định. Đây là nguồn gốc hình thành nguồn vốn nhàn
rỗi hay còn gọi là các quỹ dự phòng nghiệp vụ trong các công ty bảo hiểm. Pháp luật
cho phép công ty bảo hiểm sử dụng nguồn dự phòng này để đầu tư. Việc đầu tư
nguồn vốn nhàn rỗi trong doanh nghiệp bảo hiểm vừa là quyền lợi đồng thời là trách
nhiệm của các công ty bảo hiểm.
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 19
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
Trong nền kinh tế thị trường, đầu tư nguồn vốn là sự cần thiết và có tầm quan
trọng đặc biệt, không chỉ đối với sự tồn tại và phát triển của một công ty bảo hiểm,
bới nó không chỉ mang lại lợi ích cho chính các công ty bảo hiểm mà còn mang lại
lợi ích cho sự phát triển của nền kinh tế.
Đối với công ty bảo hiểm phi nhân thọ (BHPNT), mục đích của thiết lập các
quỹ dự phòng kỹ thuật (technical reserve) đối với công ty bảo hiểm không phải hoàn
toàn nhằm vào việc đầu tư kiếm lời, mà để đảm bảo duy trì khả năng thanh toán
thường xuyên cho công ty bảo hiểm. Tuy nhiên, quỹ dự phòng bản chất là nguồn vốn
nhàn rỗi nên sẽ được công ty bảo hiểm thực hiện đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau
để đạt mục tiêu sinh lợi mà công ty đã đề ra. Thu nhập từ hoạt động đầu tư quỹ dự
phòng sẽ giúp công ty bảo hiểm tăng cường khả năng thanh toán và bảo vệ tốt nhất
quyền lợi của những người được bảo hiểm. Mặt khác, cho phép công ty bảo hiểm bù
đắp được các khoản chi phí bồi thường, chi phí quản lý, và đảm bảo lợi nhuận kinh
doanh. Từ đó tạo điều kiện cho công ty bảo hiểm tăng cường khả năng cạnh tranh
của mình và tăng năng lực ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Đối với các công ty bảo hiểm nhân thọ (BHNT), khi tính phí sản phẩm bảo
hiểm nhân thọ, công ty bảo hiểm đã cho khách hàng hưởng trước một mức lãi suất
nhất định, chính là lãi suất kỹ thuật. Vì vậy, sau khi thu phí, công ty bảo hiểm phải

tư mà tổng lợi nhuận của công ty bảo hiểm không bị giảm mà đôi khi có phần tăng
trưởng.
 Thứ hai, đảm bảo được lợi ích của người tham gia bảo hiểm: Lợi nhuận
thu được từ hoạt động đầu tư sẽ góp phần làm giảm phí bảo hiểm. Đặc biệt đối với
BHNT, lợi nhuận từ hoạt động đầu tư sẽ được chia cho người tham gia bảo hiểm.
Như vậy lợi nhuận của người được bảo hiểm sẽ gia tăng theo lợi nhuận đầu tư.
1.3.3. Các nguyên tắc trong đầu tư quỹ bảo hiểm:
Hoạt động đầu tư của bảo hiểm nói chung đều phải tuân theo những nguyên
tắc cơ bản sau:
1.3.3.1 . Nguyên tắc an toàn:
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 21
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
Nguyên tắc này được đặt ra nhằm hạn chế tối đa rủi ro trong đầu tư, bảo toàn,
tăng trưởng nguồn vốn sử dụng. Hoạt động đầu tư của nhà bảo hiểm cũng giống như
bất kỳ hoạt động đầu tư nào, luôn đứng trước những rủi ro đầu tư sau:
a. Rủi ro lãi suất: Rủi ro này xuất phát từ chỗ giá trị của các khoản đầu tư
có lãi suất cố định chịu sự biến động khi lãi suất trên thị trường thay đổi và
tỷ suất thu hồi thực (tức là lãi suất đã điều chỉnh theo lạm phát) có thể biến
đổi một cách tương tự.
b. Rủi ro tín dụng: Rủi ro này xảy ra khi bên vay vốn của nhà bảo hiểm bị
phá sản hay tái cơ cấu tổ chức, khiến họ không thể trả lại tiền đầu tư cho
nhà bảo hiểm như đã cam kết.
c. Rủi ro thị trường: Rủi ro này xuất phát từ sự thay đổi của thị trường
thuộc lĩnh vực mà nhà bảo hiểm đầu tư.
d. Rủi ro tiền tệ: Tỷ giá của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ luôn thay đổi
làm cho giá trị của các khoản đầu tư thông qua đồng ngoại tệ sẽ thay đổi
theo.
Việc đảm bảo nguyên tắc đầu tư vốn an toàn là rất quan trọng đối với doanh
nghiệp bảo hiểm (DNBH), nó đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện các cam kết với
khách hàng trong các hợp đồng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Nguyên tắc an toàn của

quỹ – đầu tư dài hạn hay ngằn hạn. Tính thanh khoản của các khoản mục đầu tư của
nhà bảo hiểm được pháp luật thể chế bằng việc quy định danh mục đầu tư với những
tỷ lệ nhất định.
Trong thực tế, việc đồng thời thực hiện các nguyên tắc trên đối với công ty
bảo hiểm là một vấn đề rất phức tạp và mâu thuẫn với nhau. Khi công ty bảo hiểm
thực hiện nguyên tắc an toàn, thì khả năng sinh lời của khoản đầu tư bị giảm xuống.
Ngược lại, nếu chỉ chú ý đến nguyên tắc sinh lời, rủi ro đầu tư sẽ tăng lên, ảnh hưởng
đến khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm. Ngoài ra, các nguyên tắc đầu tư cần
được áp dụng linh hoạt tùy thuộc vốn đầu tư được hình thành từ nguồn nào. So với
hoạt động đầu tư từ các nguồn vốn nợ (như vốn điều lệ), hoạt động đầu tư từ các
nguồn vốn có (như các quỹ dự phòng nghiệp vụ) phải tuân thủ các nguyên tắc trên là
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 23
Luận văn tốt nghiệp cao học. GVHD: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định
hết sức nghiêm ngặt. Bởi vì đây không phải là tiền của nhà bảo hiểm mà là các khoản
nợ của doanh nghiệp đối với khách hàng.
1.3.4. Quy định về danh mục đầu tư của công ty bảo hiểm:
Công ty bảo hiểm sẽ đầu tư các quỹ dự phòng kỹ thuật vào các tài sản khác
nhau. Nói chung, các tài sản được công ty bảo hiểm đầu tư là những tài sản mang lại
thu nhập bằng tiền. Tuy nhiên, không phải công ty bảo hiểm có thể đầu tư vào mọi
loại tài sản mà chỉ những tài sản đầu tư nào có đặc tính sinh lợi đáp ứng được những
nguyên tắc theo luật định, cho phép công ty bảo hiểm thực hiện tốt nhất các cam kết
của mình với người được bảo hiểm.
Để đảm bảo các công ty bảo hiểm thực hiện tốt nhất các nghĩa vụ với người
được bảo hiểm, nhìn chung luật pháp ở các nước đã giới hạn danh mục tài sản đầu tư
vốn từ các quỹ dự phòng kỹ thuật của công ty bảo hiểm, bao gồm:
 Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng để thanh toán thường xuyên cho khách hàng.
 Các loại chứng khoán và những giấy tờ có nguồn gốc chứng khoán. Đây là hình
thức đầu tư chủ yếu của các công ty bảo hiểm. Ở nhiều nước tỷ lệ này có thể lên đến
80% trong tổng vốn đầu tư công ty bảo hiểm. Tuy nhiên, chứng khoán chỉ là những
giấy tờ có giá chứ không phải là các tài sản thực, quá trình lưu thông của nó được vận

sản có tính thanh khoản (Tiền mặt và các tài sản Có có thể huy động, có thể quy đổi
ngay thành tiền).

Chỉ tiêu tỷ lệ đầu tư vào các công ty liên kết:
Chỉ tiêu tỷ lệ đầu tư vào các công ty liên kết tính tỷ lệ % của giá trị tài sản đầu
tư vào công ty liên kết (bao gồm vốn đầu tư và các khoản phải thu từ công ty liên kết)
so với nguồn vốn, quỹ của DNBH. Công ty liên kết là một đơn vị trong hệ thống tổng
công ty hay là một bộ phận, trực tiếp hay gián tiếp, thông qua một hay nhiều tổ chức
trung gian, kiểm soát, bị kiểm soát, hay nằm dưới sự kiểm soát thông thường với
công ty lập báo cáo. Công ty liên kết có thể bao gồm công ty mẹ, công ty con, công ty
Học viên thực hiện: Triệu Minh Châu Luân Trang 25
Tổng cộng nợ
Tài sản có tính thanh khoản
Chỉ tiêu thanh khoản =

Trích đoạn Khái quát sự ra đời và phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam: Thực trạng hoạt động của thị trường bảo hiểm Việt Nam 2004-2008: Thực trạng hoạt động đầu tư của các cơng ty bảo hiểm Việt Nam 2004-2008: 1 Cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư của các cơng ty bảo hiểm Việt Nam: Thực trạng đầu tư tại các cơng ty bảo hiểm Việt Nam: Thực trạng quản lý danh mục đầu tư tại các cơng ty bảo hiểm Việt Nam
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status