Góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Hải Phòng - Pdf 12

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
LỜI CAM KẾT
Tôi là: Lê Thị Huệ
Sinh viên lớp: Kinh tế phát triển 48B
Tôi xin cam đoan bài chuyên đề này là công trình nghiên cứu của bản thân tôi
và chưa từng được công bố trên bất kì phương tiện truyền thông nào. Các số liệu đưa
ra trong bài viết là hoàn toàn có thật. Trong quá trình nghiên cứu tôi có tham khảo
thêm một số tài liệu đã được liệt kê ở cuối chuyên đề.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2010.
Tác giả chuyên đề
Lê Thị Huệ
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy tôi
suốt thời gian ngồi trên ghế giảng đường đại học, cung cấp cho tôi những kiến thức
quý báu để tôi có thể vận dụng viết được bài chuyên đề này.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn tới các cô chú, các anh, các chị cán bộ công chức
trong Sở Kế hoạch – Đầu tư Thành phố Hải Phòng đã giúp đỡ tôi thu thập tài liệu, bổ
sung kiến thức phục vụ chuyên đề, học hỏi kinh nghiệm cũng như phương pháp làm
việc trong quá trình thực tập.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới Ths. Nguyễn Thị Phương Thu là người đã
giúp đỡ tôi rất nhiều từ việc xây dựng đề cương đến việc hoàn thiện bài chuyên đề
này trong suốt thời gian thực tập.
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2010.
Tác giả chuyên đề
Lê Thị Huệ
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
2

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
LỜI MỞ ĐẦU
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, vốn là một nhân tố không thể không
được đề cập. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần có vốn hơn
nhiều hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ cần phải có cả vốn
từ nước ngoài, trong đó có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
FDI được xem như chiếc chìa khoá của sự tăng trưởng kinh tế. Nó đã và đang
đóng góp một vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát
triển trên thế giới. Tại các quốc gia có chính sách đầu tư nước ngoài hợp lý, FDI
không chỉ làm tăng cung về vốn đầu tư mà còn có vai trò thúc đẩy chuyển giao công
nghệ, đặc biệt là thúc đẩy quá trình tích tụ vốn con người - một nhân tố thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế trong dài hạn.
Khu vực FDI đã tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế xã hội (KT- XH),
FDI góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH- HĐH), tăng năng lực sản xuất, mở ra nhiều ngành
nghề sản phẩm mới, tạo việc làm và quan trọng hơn là đào tạo và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực. FDI góp phần phát triển quan hệ đối ngoại và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế,mở rộng quy mô và thị trường xuất khẩu. Tạo điều kiện để tiếp
thu, đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ trong sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh và
học tập kinh nghiệm quản lý.
Điều này càng khẳng định sự lợi ích của FDI trong sự phát triển kinh tế, đặc
biệt là tại các quốc gia đang vươn mình cố gắng đạt đến giai đoạn cất cánh về kinh tế.
Việt Nam là một những trường hợp điển hình hiện nay đang cố gắng bắt kịp các
quốc gia lân cận trong vùng Đông Nam Á.
Trong quy hoạch tổng thể phát triển KT- XH của Hải Phòng đến năm 2010,
kinh tế đối ngoại luôn được xem là lĩnh vực kinh tế động lực của thành phố. Trong
đó hoạt động đầu tư nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng, là động lực để thúc
đẩy phát triển KT- XH của thành phố theo định hướng CNH – HĐH.
So với nhiều địa phương khác trong cả nước, Hải Phòng có lợi thế đặc biệt về vị
trí địa lý với vai trò là một trong những cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm

Chương I: Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài và
môi trường đầu tư.
1.1. Những lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của đầu tư
a. Khái niệm về đầu tư:
Cho đến nay, đầu tư không còn là một khái niệm mới đối với nhiều người, nhất là
với những người hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, thuật ngữ này
lại được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Có người cho rằng đầu tư là phải bỏ một cái gì
đó vào một hoạt động nhất định nhằm thu lại một lợi ích trong tương lai. Nhưng cũng
không ít người lại quan niệm đầu tư là các hoạt động sản xuất kinh doanh để thu lợi
nhuận. Thậm chí thuật ngữ này còn được sử dụng rộng rãi như câu cửa miệng để nói lên
chi phí về thời gian, sức lực và tiền bạc vào mọi hoạt động của con người trong cuộc
sống.
Theo Jonh Marnad Keynes: “Đầu tư là hoạt động mua sắm tài sản cố định để tiến
hành sản xuất hoặc có thể là mua tài sản tài chính để thu lợi nhuận. Đầu tư, theo cách
dùng thông thường là việc cá nhân hoặc công ty mua một tài sản tại sở giao dịch chứng
khoán”. Trong khái niệm của mình ông đã nói đến mua tài sản tài chính, song chủ yếu
tập trung vào khái niệm đầu tư tạo thêm tài sản vật chất mới (như máy móc, thiết bị, nhà
xưởng…), kéo theo các hoạt động khác, tạo thêm việc làm mới để thu về một khoản lợi
nhuận trong tương lai, “khi một người mua hoặc đầu tư một tài sản, người đó mua quyền
để được thu một loạt các khoản lợi tức trong tương lai mà người đó hy vọng dành được
qua việc bán tài sản cố định làm ra…”. Theo quan niệm của ông: kết quả đầu tư về hình
thái vật chất là tăng thêm tài sản cố định, tạo ra tài sản mới về mặt giá trị, kết quả thu
được lớn hơn chi phí bỏ ra.
Còn theo P.A.Samuelson: đầu tư là hoạt động tạo ra vốn tư bản thực sự, theo các
dạng nhà ở, đầu tư vào tài sản cố định của doanh nghiệp như máy móc, thiết bị, nhà
xưởng và tăng thêm hàng tồn kho. Đầu tư cũng có thể dưới dạng vô hình như giáo dục,
nâng cao chất lượng nhân lực, nghiên cứu, phát minh… Đối với ông thuật ngữ tài chính,
đầu tư mang một ý nghĩa hoàn toàn khác, dùng đầu tư để chỉ một loại chứng khoán…

các giấy tờ có giá khác..).
* Có sinh lời: lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã hội
Người ta không thể bỏ ra một số lượng tài sản mà lại không dự tính thu được giá trị
cao hơn giá trị ban đầu. Lợi nhuận là chênh lệch giữa thu nhập mà hoạt động đầu tư đem
lại cho chủ đầu tư với chi phí mà chủ đầu tư phải bỏ ra để tiến hành hoạt động đầu tư đó.
Lợi ích kinh tế xã hội là chênh lệch giữa những gì mà xã hội thu được với những gì mà
xã hội mất đi từ hoạt động đầu tư. Lợi ích kinh tế xã hội được đánh giá qua các chỉ tiêu
định tính và các chỉ tiêu định lượng. Thông thường, tư nhân và doanh nghiệp theo đuổi
mục tiêu lợi nhuận; còn chính phủ theo đuổi mục tiêu lợi ích kinh tế xã hội.
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
* Có rủi ro:
Hoạt động đầu tư thường diễn ra trong thời gian dài vì vậy nó có tính rủi ro. Thời
gian càng dài mức độ rủi ro càng cao. Ngoài ra, trình độ quản lý của nhà đầu tư và thực
trạng nền kinh tế cũng ảnh hưởng đến mức độ rủi ro.
1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài
a. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI – Foreign Direct Investment) tuy không còn là
hình thức quá mới mẻ ở Việt Nam nhưng để đưa ra một khái niệm tổng quát về FDI
cũng không phải là dễ. Xuất phát từ nhiều khía cạnh, góc độ, quan điểm khác nhau trên
thế giới đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về FDI.
Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF – International Monetary Fund), đầu tư trực tiếp
nước ngoài là một công cuộc đàu tư ra khỏi biên giới quốc gia, trong đó người đầu tư
trực tiếp (direct investor) đạt được một phần hay toàn bộ quyền sở hữu lâu dài một
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp (direct investment enterprise) trong một quốc gia khác.
Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phiếu mới được công nhận là FDI.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa: đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại
nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền
mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đối

quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể
kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiêu tối đa hoá lợi ích của mình. Như vậy, FDI bao giờ
cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài.
b. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Tìm kiếm lợi nhuận: do chủ thể là tư nhân nên tìm kiếm lợi nhuận được coi là
mục đích ưu tiên hàng đầu của hoạt động FDI. Do đó, các nước nhận đầu tư, nhất là các
nước đang phát triển cần lưu ý điều này khi tiến hành thu hút FDI, phải xây dựng cho
mình một hành lang pháp lý đủ mạnh và các chính sách thu hút FDI hợp lý để hướng
FDI vào phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của nước mình, tránh tình
trạng FDI chỉ phục vụ cho mục đích tìm kiếm lợi nhuận của các chủ đầu tư.
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong vốn pháp
định hoặc vốn điều lệ tuỳ theo quy định của luật pháp từng nước để giành quyền kiểm
soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư. Luật Mỹ quy định tỷ lệ này là
10%, Pháp và Anh là 20%, Việt Nam theo luật hiện hành là 30% còn theo qui định của
OECD (1996) thì tỷ lệ này là 10% các cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết của doanh
nghiệp - mức được công nhận cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia thực sự vào quản
lý doanh nghiệp. Tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ quy
định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời đây cũng là căn cứ để phân chia lợi nhuận
và rủi ro. Theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, trong doanh nghiệp liên doanh, các
bên chỉ định người của mình tham gia vào Hội đồng quản trị theo tỷ lệ tương ứng với phần
vốn góp vào vào vốn pháp định của liên doanh.
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
- Thu nhập mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ không phải lợi
tức.
- Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu
trách nhiệm về lỗ lãi. Nhà đầu tư nước ngoài được quyền tự lựa chọn lĩnh vực đầu tư,
hình thức đầu tư, thị trường đầu tư, quy mô đầu tư cũng như công nghệ cho mình, tự đưa

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
được áp dụng ở Việt Nam. Đó là: hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, hình thức
doanh nghiệp liên doanh, hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
1.1.2.1. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC)
BCC là hình thức đầu tư mà các bên tham gia hợp đồng ký kết thỏa thuận để cùng
nhau tiến hành thực hiện các hoạt động sản xuất và kinh doanh ở nước sở tại, trên cơ sở
quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho các bên. Trên thế giới, biểu
hiện của hình thức BCC cũng khác nhau về tên gọi, địa vị pháp lý và mục tiêu áp dụng.
Theo luật ĐTNN Việt Nam, BCC là văn bản được ký kết giữa hai hoặc nhiều bên để tiến
hành hoạt động đầu tư mà không hình thành pháp nhân mới. Quy định này thực tế làm
nhiều nhà đầu tư phải cân nhắc vì có thể hạn chế khả năng khuyếch trương thương hiệu
ra bên ngoài.
Như vậy, đặc điểm cơ bản của hình thức BCC là các bên cùng nhau góp vốn, cùng
tham gia quản lý hoạt động kinh doanh thông qua một ban điều phối chung, cùng phân
chia kết quả kinh doanh theo vốn góp. Đối với các nhà ĐTNN, hình thức này có ưu điểm
là thủ tục thành lập và triển khai thực hiện tương đối đơn giản, giúp dự án nhanh đi vào
hoạt động. Hình thức này thường không đòi hỏi vốn lớn và thời hạn hợp đồng thường
ngắn, cũng chính vì vậy mà ít thu hút được những nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng.
1.1.2.2. Hình thức doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghệp được thành lập tại nước nhận đầu tư
(nước chủ nhà) giữa các bên nước ngoài và nước chủ nhà trong đó các bên cùng đóng
góp vốn, cùng kinh doanh và cùng hưởng quyền lợi, nghĩa vụ theo tỷ lệ góp vốn. Nó có
thể dựa trên cơ sở hợp đồng liên doanh, hoặc Hiệp định ký giữa chính phủ Việt Nam và
chính phủ nước ngoài, hoặc là do doanh nghiệp có vốn FDI hợp tác với doanh nghiệp
Việt Nam.
Đặc điểm pháp lý, tỷ lệ góp vốn pháp định và điều kiện áp dụng hình thức doanh
nghiệp liên doanh giữa các nước có sự khác nhau nhất định. Trung Quốc quy định trong
doanh nghiệp liên doanh, bên nước ngoài không được góp vốn ít hơn 25%. ở Malaysia
đưa ra nhiều mức vốn góp cho bên nước ngoài tùy theo tỷ lệ xuất khẩu. Nếu tỷ lệ xuất
khẩu đạt trong khoảng 51- 79% thì chỉ được sở hữu vốn tối đa đến 79%, đối với các dự

doanh, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Sự khác nhau giữa các quốc gia là
đưa ra những điều kiện cho các nhà ĐTNN khi lựa chọn hình thức này. Malaysia quy
định muốn áp dụng hình thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án đó phải
có từ 80% sản phẩm xuất khẩu; hay Trung Quốc, Hàn Quóc và Thái Lan quy định chỉ áp
dụng hình thức này cho các dự án FDI trong các ngành kỹ thuật cao và phần lớn sản
phẩm xuất khẩu. Chính vì vậy mà hình thức này ít được khuyến khích ở một số quốc gia
và vùng lãnh thổ.
Hình thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài có thể mang lại nhiều lợi thế
cho cả nước chủ nhà và nước đi đầu tư. Nước chủ nhà không phải góp vốn và không
phải chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của đầu tư đối với những lĩnh vực có độ rủi
ro cao hoặc với những ngành sản xuất mới. Với phía nước ngoài thì đây cũng là hình
thức được ưa chuộng bởi ngoài việc tuân thủ những quy định có tính pháp luật của nước
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
chủ nhà thì bên phía nước ngoài được toàn quyền trong việc điều hành và quản lý doanh
nghiệp của mình, không bị bất kỳ sự can thiệp nào khác, không mất thời gian cho việc
tìm “tiếng nói chung” với những người cùng tham gia điều hành như hình thức liên
doanh. Bên cạnh đó, hình thức này cũng có bất lợi là chi phí thành lập và rủi ro hoạt
động cao hơn so với các hình thức khác.
1.1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.3.1. Vai trò của FDI đối với nước đi đầu tư
Trong thời đại và bối cảnh thế giới hiện nay, trên cơ sở đem lại lợi ích cho cả hai
bên, vai trò của hoạt động FDI được hiểu là do sự tác động đồng thời của bản thân hoạt
động đầu tư đối với cả nước đi đầu tư và nước nhận đầu tư. Bài viết này chủ yếu đề cập
đến vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước phát triển khi ở vị trí các
nước đi đầu tư và các nước đang phát triển khi ở vị trí các nước nhận đầu tư.
a. Tích cực
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép nước đi đầu tư có thể tận dụng
được lợi thế so sánh của nước nhận đầu tư. Đối với các nước đi đầu tư, họ nhận thấy tỷ

đối với nước chủ đầu tư. FDI làm vốn đầu tư chảy ra nước ngoài dẫn tới giảm tăng
trưởng GDP và việc làm trong nước. Việc đầu tư cho quốc gia khác sẽ dẫn đến chảy các
nguồn lực của quốc gia ra bên ngoài, do đó các nguồn lực tập trung cho phát triển và
tăng trưởng quốc gia sẽ ngày càng ít đi.
Vốn được đầu tư ra bên ngoài nên không được đầu tư trong nước sẽ không tạo
thêm việc làm, dễ làm gia tăng thất nghiệp trong nước. Tuy nhiên, cũng cần xem xét
cụ thể từng trường hợp vì có thể việc đầu tư ra bên ngoài lại có tác động làm gia
tăng việc làm trong nước nếu nó làm tăng các hoạt động xuất khẩu phục vụ cho
hoạt động đầu tư đó.
Vốn chảy ra bên ngoài có thể ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc gia vì mất thị
trường xuất khẩu. Bởi vì, nếu đầu tư một nhà máy ở nước ngoài sản xuất mặt hàng bán
cho thị trường đó thì coi như nước đầu tư sẽ mất luôn thị trường xuất khẩu mà trước đây
mình xuất hàng sang, thu ngoại tệ, nghĩa là mất đi một nguồn thu ngoại tệ quan trọng.
1.1.3.2. Vai trò của FDI đối với nước nhận đầu tư
a. Tác động tích cực
Để phát triển kinh tế xã hội, các nước đang phát triển trước hết phải đương đầu với
sự thiếu thốn gay gắt các nguồn lực cần thiết cho sự phát triển. Việc tiếp nhận đầu tư
trực tiếp nước ngoài có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất, giải quyết tình trạng thiếu vốn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. FDI có
thể ảnh hưởng tới nền kinh tế ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên,
đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước nghèo, kỳ vọng lớn nhất của việc thu
hút FDI chủ yếu là nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. FDI là một trong những nguồn
vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt vốn đầu tư góp phần tạo động lực cho sự tăng
trưởng và phát triển. Đối với các nước đang phát triển, việc tiếp nhận vốn đầu tư nước
ngoài sẽ vừa tác động đến tổng cầu, vừa tác động đến tổng cung của nền kinh tế. Về mặt
tổng cầu, vì đầu tư là một bộ phận của tổng cầu nên khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng…

công nghệ. Trong khi đó, nước sở tại khan hiếm vốn không có điều kiện nghiên cứu nên
mặt bằng công nghệ thường thấp hơn, luôn có nhu cầu tiếp nhận công nghệ song cũng
rất hạn chế việc tiếp nhận công nghệ thông qua con đường thương mại vì không có vốn.
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
Do đó, việc thông qua FDI để tiếp nhận công nghệ là một ưu điểm lớn. Với hình thức
này, các nước tiếp nhận có điều kiện tiếp nhận công nghệ mới và tận dụng được các
công nghệ hạng hai đã lỗi thời ở các nước đối tác song vẫn còn tiên tiến hơn so với công
nghệ trong nước với chi phí thấp, tiết kiệm được thời gian nghiên cứu, có điều kiện đi tắt
đón đầu, rút ngắn khoảng cách về mặt bằng công nghệ kỹ thuật. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài có tác dụng lan tỏa, thúc đẩy cạnh tranh và phát triển doanh nghiệp nội địa ở các
nước đang phát triển. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài
được nâng cao qua số lượng các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng vốn đầu
tư, mở rộng quy mô sản xuất. Hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Việt Nam cũng đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới
công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng. sức cạnh tranh của hàng hóa
và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế.
Thứ tư, tạo việc làm phát triển nguồn nhân lực. FDI giúp các nước đang triển tận
dụng được lợi thế về nguồn lao động dồi dào. Ở nhiều nước, khu vực có vốn FDI tạo ra
số lượng lớn việc làm cho người lao động đặc biệt là trong lĩnh vực chế tạo. Nhìn chung,
số lượng việc làm trong khu vực có vốn FDI và tỷ trọng trong tổng lao động ở các nước
đang phát triển có xu hướng tăng lên. Bên cạnh đó, FDI còn góp phần vào việc đào tạo,
nâng cao trình độ cho người lao động. Năng suất lao động trong các doanh nghiệp có
vốn FDI thường cao hơn trong các doanh nghiệp trong nước. Với tiêu chí coi hiệu quả
làm việc là ưu tiên hàng đầu trong tuyển dụng và sử dụng lao động, các doanh nghiệp có
vốn FDI thường xây dựng được một đội ngũ công nhân, nhân viên lành nghề, có tác
phong công nghiệp, có kỷ luật cao. Đội ngũ cán bộ của nước nhận đầu tư tham gia quản
lý hoặc phụ trách kỹ thuật trong các dự án FDI trưởng thành nhiều mặt. Phần lớn số lao
động cấp cao này được tham gia đào tạo, huấn luyện ở trong và ngoài nước, được tiếp

trường tốt nhất để thu hút nguồn FDI. Điều này cũng dễ hiểu vì doanh nghiệp FDI lo
ngại nếu lạm phát cao và tỉ giá hối đoái không ổn định, lợi nhuận tạo ra có thể bị triệt
tiêu khi chuyển đổi trở lại ngoại tệ mạnh. Việt Nam hiện nay có lạm phát khá cao
(khoảng 28%) nhưng có thuận lợi là tỉ giá hối đoái VND và USD tương đối ổn định nhờ
có dự trữ ngoại tệ mạnh khá dồi dào (khoảng 15 tỷ dollar, trong đó kiều hối đóng góp
một phần quan trọng). Tuy nhiên cũng cần lưu ý là FDI có thể là nguyên nhân gây ra lạm
phát trong nước vì lương nhân công sẽ được trả cao hơn, giá cả nguyên vật liệu sẽ tăng
vọt cũng như tiền thuê mướn mặt bằng, giá sinh hoạt dịch vụ ngoại vi sẽ tăng dần lên và
đưa đến lạm phát.
Thứ ba, FDI ảnh hưởng đến môi trường và làm khánh kiệt tài nguyên thiên nhiên.
Một trong những chi phí lớn của doanh nghiệp nước ngoài là chi phí bảo toàn môi
trường và luật lệ của các quốc gia phát triển rất nghiêm ngặt về vấn đề này. Hiện nay vẫn
còn nhiều sự tranh cãi về ảnh hưởng của FDI đến môi trường với giả thuyết “nơi trú ẩn
của ô nhiễm” ám chỉ các FDI muốn vào các quốc gia chậm tiến vì luật lệ và kiến thức về
ô nhiễm còn thấp nên họ có khả năng tiết giảm chi phí về khoản này. Hiện tượng FDI
làm khánh kiệt tài nguyên thiên nhiên là một thực tế có thể xảy ra nhất là đối với các loại
FDI nhằm vào tài nguyên và lao động rẻ tiền.
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
Thứ tư, tác động tới đời sống xã hội. Điều đầu tiên dễ thấy là sự cách biệt giàu
nghèo giữa các khu công nghiệp có doanh nghiệp FDI trú đóng và phần còn lại của quốc
gia sẽ tăng dần lên và người dân có thể sẽ bỏ dần nông thôn và di chuyển về các nơi
thành thị. Có rất nhiều trường hợp vì muốn thu hút FDI nên quốc gia sở tại đã nới lỏng
các quy định về lao động khiến quyền lợi của công nhân có thể bị xâm phạm, phúc lợi
tập thể không được giải quyết thỏa đáng mà thiếu sự giúp đỡ của chính quyền địa
phương.
1.2. Những lý luận cơ bản về môi trường đầu tư
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của môi trường đầu tư
a. Khái niệm về môi trường đầu tư

quan trọng là số và chất lượng vật chất cơ sở hạ tầng kỹ thuật như: điện, nước, giao
thông vận tải, thông tin liên lạc, dịch vụ tài chính – ngân hàng, trình độ lao động…
Như vậy, các khái niệm về môi trường đàu tư dù là tiếp cận ở góc độ nào cũng đề
cập đén môi trường tiến hành các hoạt động đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư,
những yếu tố, điều kiện có ảnh hường, tác động đến sự tồn tại và phát triển của các
doanh nghiệp. Do đó, có thể khẳng định: môi trường đầu tư là tổng hợp các yếu tố và
điều kiện khách quan, chủ quan bên ngoài, bên trong của doanh nghiệp hoặc các nhà đầu
tư, có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt
động kinh doanh của các nhà đầu tư.
b. Đặc điểm của môi trường đầu tư
* Tính khách quan của môi trường đầu tư: bất kỳ một nhà đầu tư nào hay một
doanh nghiệp nào muốn tồn tại một cũng phải đặt mình trong một môi trường đầu tư
kinh doanh nhất định, ngược lại cũng không thể có môi trường đầu tư nào mà lại không
có một nhà đầu tư hay một đơn vị sản xuất kinh doanh. Nói cách khác, ở đâu có hoạt
động đầu tư sản xuất kinh doanh thì ở đó sẽ hình thành môi trường đầu tư. Môi trường
đầu tư tồn tại một cách khách quan, nó có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn
cho các nhà đầu tư. Môi trường đầu tư một mặt tạo ra các ràng buộc cho các hoạt động
đầu tư, mặt khác lại tạo ra những cơ hội thuận lợi cho các nhà đầu tư.
* Tính tổng hợp: tính tổng hợp thể hiện ở chỗ nó bao gồm nhiều yếu tố cấu thành
có mối quan hệ qua lại ràng buộc lẫn nhau. Tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã
hội, trình độ quản lý mà số lượng và những bộ phận cấu thành cụ thể của môi trường đầu
tư có sự khác nhau.
* Tính đa dạng: môi trường đầu tư là sự đan xen của các môi trường thành phần,
các yếu tố của các môi trường thành phần có tác động ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Do
đó, khi nghiên cứu và phân tích môi trường đầu tư phải xem xét tổng thể trong mối
tương quan giữa các môi trường thành phần và giữa các yếu tố với nhau.
* Môi trường đầu tư có tính động: môi trường đầu tư và các yếu tố cấu thành luôn
luôn vận động và biến đổi. Sự ổn định của môi trường đầu tư chỉ mang tính tương đối
hay ổn định trong sự vận động. Môi trường đầu tư luôn vận động và biến đổi bởi ngay
nội tại của hoạt động đầu tư cũng là một quá trình vận động và biến đổi không ngừng.

nước. Ổn định chính trị sẽ tạo ra sự ổn định về kinh tế xã hội và giảm bớt độ rủi roc ho
các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc trưng nổi bật về sự tác động của
những yếu tố chính trị đối với hoạt động đầu tư thể hiện ở những mục đích mà thể chế
chính trị nhắm tới. Thể chế chính trị giữ vai trò định hướng, chi phối toàn bộ các hoạt
động trong xã hội trong đó các hoạt động đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư thông
qua vai trò của nhà nước cầm quyền.
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
Tình hình chính trị không ổn định sẽ dẫn tới việc bất ổn định về chính sách và
đường lối phát triển không nhất quán. Khi gặp rủi ro chính trị, các biến cố và hoạt động
chính trị có thể gây ra những tác động tiêu cực đối với môi trường đầu tư, với lợi nhuận
dài hạn tiềm tàng của các dự án đầu tư đem lại cho các nhà đầu tư. Ngoài ra còn có một
số yếu tố rất quan trọng của môi trường chính trị là xung đột với nước ngoài. Xung đột
với nước ngoài là mức độ thù địch của một quốc gia với một quốc gia khác, khi xảy ra
xung đột các quốc gia thường áp dụng chính sách cấm vận, trừng phạt kinh tế, chính
trị… mà hậu quả hay các thiệt hại của nó thì các nhà đầu tư sẽ phải gánh chịu đầu tiên.
Như vậy, ổn định môi trường chính trị xã hội có vai trò đặc biệt quan trong trong việc
thu hút FDI.
1.2.2.2. Môi trường cơ sở hạ tầng
Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm: mạng lưới giao thông vận tải, đường sá,
cầu cống, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống cung cấp năng lượng, phương tiện vận
chuyển, mạng lưới thông tin – bưu chính – viễn thông, tính hữu hiệu của các dịch vụ môi
giới, dịch vụ ngân hàng, tài chính… Những yếu tố này có ảnh hưởng quan trọng đối với
hoạt động của các nhà đầu tư, các nhà đầu tư có thể sẽ không đầu tư vào khu vực nhiều
nhân công giá rẻ nhưng chưa qua đào tạo chuyên môn hoặc những nơi mà hệ thống giao
thông khó khăn, thiếu phương tiện vận chuyển, liên lạc hay không đủ các ngành dịch vụ
hỗ trợ cho quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, yếu tố công nghệ cũng được
phản ánh trong môi trường cơ sở hạ tầng kỹ thuật thông qua các chỉ số như trình độ phát
triển công nghệ, các yếu tố hạ tầng công nghệ, nền tảng kiến thức khoa học – công nghệ,

xuống tới mức thấp nhất của chu kì, các hoạt động đầu tư kinh doanh bị ngưng trệ để
chuẩn bị cho sự chuyển tiếp sang một chu kì phát triển kế tiếp. Chu kì kinh tế có thể diễn
ra ngắn hay dài tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố và chu kì kinh tế có ảnh hưởng rất mạnh
đến các quyết định quản trị doanh nghiệp của các nhà đầu tư. Nhiều nhà kinh tế cho
rằng các yếu tố kinh tế của nước nhận đầu tư là những yếu tố có ảnh hưởng quyết
định trong thu hút FDI.
1.2.2.4. Môi trường luật pháp, chính sách
Mỗi quốc gia đều có một hệ thống luật quy định rõ các nhà đầu tư hay các doanh
nghiệp được đầu tư kinh doanh sản phẩm hàng hóa, dịch vụ gì, cấm các mặt hàng gì,
nghĩa vụ và quyền lợi của các nhà đầu tư… Hệ thống các công cụ chính sách và những
quy định của nhà nước có liên quan đến những hoạt động đầu tư kinh doanh như: chính
sách tài chính – tiền tệ, chính sách thu nhập, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách bảo
vệ môi trường, chính sách lao động – tiền lương, chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần… Chính sách kinh tế thể hiện quan điểm, định hướng phát triển nền kinh tế
của nhà nước, thông qua các chủ trương và chính sách, nhà nước, thông qua các chủ
trương và chính sách, nhà nước điều hành và quản lý nền kinh tế và các doanh nghiệp
hay các nhà đầu tư trên phương diện quản lý nhà nước về kinh tế. Các chính sách kinh tế
thể hiện những ưu đãi, khuyến khích đối với một số khu vực, ngành, lĩnh vực kinh tế nào
SV: Lê Thị Huệ Lớp: Kinh tế phát triển 48B
19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Nguyễn Thị Phương Thu
đó, đồng thời các chính sách cũng sẽ là các biện pháp, chế tài để kiểm soát các lĩnh vực
đó.
Một quốc gia được coi là có chính sách kinh tế mở khi những chính sách đó có sức
hấp dẫn và mang lại sự thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, chính sách kinh
tế có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra một môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn.
Cơ chế quản lý, điều hành của Chính phủ sẽ quyết định trực tiếp đến tính hiệu lực của luật
pháp và các chính sách kinh tế, nếu một nhà nước mạnh, điều hành chuẩn mực thì sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư kinh doanh chính đáng.
Hệ thống pháp luật được xây dựng nhằm quy định những điều mà các thành viên

chặt chẽ tài nguyên thiên nhiên. Các chính phủ thường khuyến khích thăm dò khảo sát
tìm kiếm tài nguyên tại những vùng xa và có khả năng phục hồi, khuyến khích sử dụng
tài nguyên hiệu quả hơn và tiết kiệm hơn… Sự hạn chế tài nguyên này đã khiến các nhà
đầu tư thường tìm kiếm nơi có nhiều tài nguyên thiên nhiên và chính phủ có những chính
sách thông thoáng về quản lý tài nguyên thiên nhiên để đầu tư.
1.2.3. Sự cần thiết phải cải thiện môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư có vai trò rất quan trọng tới sự tồn tại và phát triển của các
doanh nghiệp, các nhà đầu tư sẽ quyết định bỏ vốn đầu tư mới hoặc mở rộng đầu tư kinh
doanh nếu như họ tìm được một môi trường đầu tư thuận lợi, các quốc gia sẽ thu hút
được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nếu tạo lập được một môi trường đầu tư tốt, khi thu
hút được nhiều vốn đàu tư, các chính phủ sẽ giải quyết được nhiều vấn đề liên quan tới
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Một môi trường đầu tư tốt sẽ có tác động đến hiệu quả kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia, tại bất kỳ thời điểm nào, mọi lúc mọi nơi trên thế giới. Các doanh nghiệp hay
các nhà đầu tư thường phải cân nhắc tính toán với những quyết định đầu tư quan trọng,
từ quyết định mở rộng trang trại của một người nông dân hay quyết định mở rộng quy
mô sản xuất kinh doanh của một công ty vừa và nhỏ cho đến quyết định của các tập đoàn
kinh tế lớn, các công ty xuyên quốc gia, những quyết định của các doanh nghiệp khi thực
hiện sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới mục tiêu, chỉ số tăng trưởng của từng khu vực, từng
quốc gia, từng địa phương..Tuy nhiên, các quyết định đầu tư của các doanh nghiệp được
thực hiện hay không lại phụ thuộc hoàn toàn vào một tập hợp các yếu tố mà ta thường
gọi đó là môi trường đầu tư. Khi các doanh nghiệp thực hiện một quyết định đầu tư đúng
sẽ tạo ra nhiều giá trị sản xuất, việc làm và các giá trị khác mà nó sẽ làm cho của mục
tiêu tăng trưởng và giảm nghèo của mỗi quốc gia thành hiện thực, chính vì vậy cải thiện
môi trường đầu tư luôn là nhiệm vụ trọng tâm của các chính phủ. Ngày nay, khi cả thế
giới có khoảng 1,2 tỷ người đang sống dưới mức 1USD/ngày, khi lực lượng lao động thế
giới ngày nay đang phải đối mặt với một tỷ lệ thất nghiệp cao và thậm chí một số nước
có tỷ lệ thất nghiệp cao gấp đôi tỷ lệ thất nghiệp trung bình của thế giới, khi tỷ lệ tăng
dân số nhiều khi cao hơn mức tăng trưởng kinh tế thì việc tạo ra nhiều việc làm, giá trị
sản phẩm gia tăng là hết sức cần thiết cho một thế giới cân bằng, hòa bình và phát triển.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status