Ebook - Đổi mới quản lý kinh tế ở việt nam - số 10 - Pdf 13



1
TRUNG TÂM PHÁP VIỆT ĐÀO TẠO VỀ QUẢN LÝ
CENTRE FRANCO-VIETNAMIEN DE FORMATION A LA GESTION

ĐỔI MỚI

QUẢN LÝ

KINH TẾ
Ouverture Economique

Hà Nội – tháng 05 năm 2006

SỐ 10
TRONG SỐ NÀY

Tập nghiên cứu “Đổi mới quản lý kinh tế” là một ấn phẩm khoa học của CFVG. Với 9 số
đã phát hành, tập trung vào các chủ đề nghiên cứu về kinh tế Việt Nam và thế giới, “Đổi mới
quản lý kinh tế ” đã chứng tỏ là một ấn phẩm có chất lượng và đã được nhiều độc giả (các nhà
nghiên cứu, các chuyên gia, sinh viên) trong và ngoài nước đón nhận.
Trong số này, với chủ đề tái cơ cấu doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế ở
Việt Nam, có sự đóng góp của các tác giả trong nước và quốc tế, các chuyên gia, giảng viên, học
viên và các cộng tác viên của CFVG.
Thông qua việc nghiên cứu mối quan hệ giữa phát triển bền vững và phương thức quản lý
của các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển, Georges Hénault – GS Trường Đại học Tổng
hợp Ottawa (Canada) – đã chỉ ra sự cần thiết phải tính đến yêu cầu phát triển bền vững trong hoạt
động quản lý của doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN), nhằm nâng cao
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp này trong điều kiện hiện nay. Một số hướng giải pháp
áp dụng cho các DNVVN của Việt Nam đáng để cho Chính phủ và các nhà lãnh đạo doanh


3
DANS CE NUMERO L’Ouverture Economique est une publication scientifique du CFVG. Avec ses 8 derniers
numéros, focalisant sur les thèmes de recherche de l’économie vietnamienne et mondiale,
l’Ouverture Economique est une publication de qualité et retient beaucoup d’attention des
lecteurs (chercheurs, praticiens, étudiants) au Vietnam et à l’étranger.
Ce présent numéro, portant sur le thème principal de la restructuration des entreprises
dans le contexte de transition de l’économie vietnamienne, réunit les communications des
chercheurs vietnamiens et étrangers, professionnels et étudiants, intérieur et extérieur au CFVG.
En examinant les liens entre le développement durable et le mode de gestion des
entreprises dans les pays en développement, Georges Hénault – professeur titulaire à l’Université
d’Ottawa (Canada)- a montré la nécessité de prendre en compte des enjeux de développement
durable dans la pratique de gestion chez les entreprises, y compris les PME, afin d’atteindre une
meilleure compétitivité dans le contexte actuel. Quelques pistes de réflexion proposés aux PME
vietnamiennes méritent une attention particulière de la part du gouvernement vietnamien ainsi
que des dirigeants de PME dans son processus d’intégration à l’économie mondiale.
L’étude de Laura Bacali – professeur à l’Université Technique de Cluj-Napoca
(Roumanie) - se concentre sur les changements, dans la pratique de gestion chez les entreprises
dans les pays d’Europe de l’Est, résultés de la transition d’une économie dirigée à celle de
marché ces dernières années. Une étude comparative nous montre qu’il y a certaines différences
dans l’application des outils modernes de gestion dans chaque pays et que l’application du
marketing reste un besoin important chez les entreprises roumaines.
La troisième communication porte sur un sujet important de la transition économique au
Vietnam : l’actionnarisation des entreprises étatiques. Prof. Associé. Docteur Nguyen Dinh Tai
(ICGE) a réalisé une étude approfondie sur les entreprises étatiques du secteur bancaire – un
secteur particulièrement sensible dans cette période de transition – et a révélé qu’une nécessité
d’actionnariser les banques commerciales étatiques ainsi que les conditions de réussite pour une

of enterprises in developing countries, Georges Hénault – professor of Ottawa University – has
concluded the needs of taking into account the sustainable development in management activities
by companies, including SMEs, in order to improve the competitiveness in the present context.
Some solutions to be applied to SMEs in Vietnam were recommended; these could be useful for
the Vietnamese government and enterprises leaders to refer to for their own use in the current
international economic integration.
The paper of Laura Bacali – professor of the Technical University Cluj-Napoca, Rumania
– emphasised on the changes in the management of East European enterprises in the
transformation process from planned to market economy in recent years. By using a comparative
study, the author has shown the differences in the approaches to the modern management tools
and concluded that the marketing application is a great interest of Rumanian enterprises.
The third research studied an important topic of the economic transition in Vietnam: the
equitisation of state owned enterprises. Dr. Nguyen Dinh Tai (Central Institute of Economic and
Management) has studied in depth the state owned enterprises from banking sector – a key sector
in the Vietnamese equitisation – and has shown the necessity of equitising the state commercial
banks and the conditions to be applied for the success of their equitisation.
The fourth paper is a summary of MBA dissertation which has been realised and
successfully defensed at CFVG in 2004. Through the case study of a post-equitised company, this
dissertation has shown that the equitisation has not only changed the ownership structure but also
the corporate culture. 6
The following paper is also a summary of a MBA dissertation. This researched a
compatible salary scheme in the post-equitisation context. The author has conducted a survey on
the current situation of the enterprise and recommended to establish a dynamic salary scheme to
motivate the employees contributing to the development of the enterprise.
Finally, a research was made by Truong Thi Nam Thang (CFVG-Hanoi) for the purpose
of learning some lessons from the corporatisation of state owned enterprises in China from the
perspective of corporate governance. The results have shown the shared commonities in the


 Quản trị và phát triển trong quá trình chuyển đổi.
Laura Bacali

 Tái cơ cấu doanh nghiệp trong điều
kiện chuyển đổi kinh tế

 Được mất cổ phần hoá ngân hàng thương mại quốc
doanh.
Nguyễn Đình Tài

 Thay đổi văn hoá doanh nghiệp tại SEAREFICO,
một doanh nghiệp mới cổ phần hoá.
Bùi Quốc Liêm & Trương Thị Nam Thắng

 Đề xuất hệ thống thù lao cho doanh nghiệp mới cổ
phần hoá tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đoàn Nguyễn Ngọc Quỳnh & Trần Vân Như

 Những bài học từ quá trình công ty hoá doanh nghiệp
nhà nước ở Trung quốc : phân tích dưới giác độ quản
trị công ty.

Trương Thị Nam Thắng
MỤC LỤC
44


Newly-Equitized Enterprise.
Bui Quoc Liem & Truong Thi Nam Thang

 Suggesting Salary Scheme for Newly-Equitized
Companies in HCM City.
Doan Nguyen Ngoc Quynh & Tran Van Nhu

 Learning from the Corporatisation of SOEs in China :
A Coporate Governance Perspective.

Truong Thi Nam Thang
SOMMAIRE
17 31 44

74
1
GIỚI THIỆU

Phát triển bền vững không chỉ đơn thuần là sự bảo vệ môi trường vốn được xem như là
trách nhiệm của Nhà nước và của các doanh nghiệp lớn theo quan điểm của chủ nghĩa tân tự do
châu Âu. Nó còn bao gồm cả nghĩa vụ đạo đức « vững mạnh về kinh tế, lành mạnh về môi trường
và trách nhiệm với xã hội » đối với các doanh nghiệp này. Phát triển bền vững cũng liên quan đến
xã hội dân sự và đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo nghĩa rộng, bao gồm cả các tổ
chức dạng hợp tác xã, hiệp hội và tất nhiên là không thể bỏ qua các doanh nghiệp nhỏ chính thức
hoặc không chính thức.


Về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, vốn đã từng là chủ đề của nhiều cuộc thảo luận
trong nửa cuối thế kỷ 20, dường như đã được thừa nhận như là một phần không thể tách rời trong
sứ mạng và tầm nhìn chiến lược của các doanh nghiệp (
www.wbcsd.org).

Trường phái đạo đức kinh doanh kiểu Mỹ đã nêu bật bốn loại trách nhiệm : trách nhiệm
kinh tế (sản xuất sản phẩm dịch vụ và tạo ra lợi nhuận), trách nhiệm pháp lý (nghĩa vụ pháp lý đã
được quy tắc hoá cần tuân thủ), trách nhiệm đạo đức (nghĩa vụ đạo đức không được quy tắc hoá)

2
và tự chịu trách nhiệm (hành vi vượt trên sự kỳ vọng của xã hội); tuy nhiên bốn loại trách nhiệm
này không phải là duy nhất. (Ballet, J. et De Bry, F., 2001). Chúng ta cũng có thể hiển thị theo
cách thức của Maslow và đặt nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận xuống dưới cùng của tháp Maslow, sau
đó đến sự tuân thủ pháp luật, rồi đến hành vi đạo đức và trên cùng là nghĩa vụ xã hội, như trong
hình 1 dưới đây.

Hình 1 : Các cấp độ trách nhiệm của doanh nghiệp ĐẠO ĐỨC
KINH TẾ
PHÁP LÝ
XÃ HỘI



Tài chính
Cung ứng
Nội bộ / Bên ngoài
Nhân viên

Nguồn nhân lực
Hạ nguồn
Khách hàng

Tiêu dùng

3
Xã hội dân sự Dư luận xã hội

Vai trò và sức ép của các bên hữu quan đòi hỏi doanh nghiệp lựa chọn chiến lược phát
triển bền vững ngày càng trở thành một ưu tiên và sẽ được cụ thể hoá trong phần sau.

Nguyên tắc phòng ngừa

Từ sau Hội nghị Thượng đỉnh Rio năm 1992, nguyên tắc phòng ngừa được khẳng định là
điều cốt yếu trong quản lý rủi ro, đặc biệt là rủi ro về hệ sinh thái. Nguyên tắc này dựa trên yêu
cầu ngày càng cấp bách sau một loạt các thảm hoạ (Bohpal, Tchernobyl, vv ) mà thế giới đã
phải gánh chịu và buộc những người có trách nhiệm phải tính đến nhu cầu này trong việc đánh
giá các rủi ro tiềm năng. Nguyên tắc phòng ngừa này là một dấu mốc mới trong quản lý rủi ro, nó
không đợi đến khi các mối nguy hiểm xuất hiện mà chủ động đưa ra các phương tiện phòng ngừa
với chi phí có thể chấp nhận (Canel-Depitre, B., 2001).

SỨC ÉP ĐI THEO CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐỐI VỚI CÁC DNVVN
TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN


4
1- Kỳ vọng mới của các đối tác và trung gian tài chính : khi xét duyệt tài trợ cho các dự án, các
ngân hàng ngày càng quan tâm đến các tiêu chí về môi trường. Rủi ro sinh thái-tài chính
(écologico-financier) trên thực tế là một trong những nền tảng của nguyên tắc phòng ngừa.

2- Nhu cầu thông tin ngày càng tăng từ phía các khách hàng nước ngoài : các khách hàng này,
do bị thúc ép bởi dư luận xã hội về cam kết chính trị và sức ép từ phía các phương tiện thông
tin đại chúng cũng như các tổ chức bảo vệ môi trường, đòi hỏi các đối tác phía Nam (các
nước đáng phát triển) cung cấp nhiều hơn các thông tin về điều kiện sản xuất. Nhu cầu tạo lập
lòng tin của các doanh nghiệp và nhất là các doanh nghiệp Việt nam với tư cách là nhà cung
cấp hay gia công, thông qua việc tôn trọng các chuẩn mực về môi trường (tiêu chuẩn ISO
14001) và chuẩn mực xã hội (tiêu chuẩn SA 8000 liên quan đến điều kiện làm việc chẳng
hạn), được xem như là không thể lảng tránh. Trên thực tế, sự hiểu biết văn hoá đạo đức của
khách hàng ngày càng trở thành cấp thiết, nó được đặc trưng bởi « 10 điều răn của một nhà
quản lý có đạo đức » (Declairieux, 2003), theo đó sự cần thiết phải tôn trọng các giá trị kỳ
vọng của các bên hữu quan được tuyên bố, với một chút hài hước, như sau : bạn sẽ không sử
dụng lao động trẻ em, hay bạn sẽ đối xử bình đẳng với các nhà cung cấp của bạn, vv. Việc
tập đoàn Carrefour tiến hành hàng loạt các cuộc kiểm tra các nhà thầu gia công ở châu Á là
một minh chứng điển hình cho điều này.

3- Nghĩa vụ pháp lý phải tăng cường thông tin về một hay nhiều mặt của hiệu quả sinh thái : các
tiêu chuẩn lựa chọn các chỉ tiêu phải : xác đáng, đáng tin cậy, có thể so sánh (theo thời gian
và theo các chuẩn mực đã được thiết lập), có thể kiểm tra, có thể đo lường, có hiệu lực, có ý
nghĩa, minh bạch, có tính đại diện, có khả năng thích ứng, với số lượng hạn chế và đầy đủ
(Table ronde, 1997, p. 9 et 65).

Ba thách thức thay đổi văn hoá tổ chức

Các yếu tố nội bộ thúc đẩy ban lãnh đạo doanh nghiệp chuyển hướng phát triển bền vững

trên một yêu cầu kép về môi trường quốc gia và khu vực, tạo điều kiện cho sự quản lý có hiệu
quả hơn quá trình phát triển bền vững và qua đó tạo thuận lợi cho việc tiếp cận các chuẩn mực
thương mại quốc tế nhằm chinh phục các thị trường xuất khẩu.

Ưu tiên cách tiếp cận khuyến khích phát triển bền vững tập trung vào kinh tế vùng

Cấp độ kinh tế vùng được coi như một phạm vi can thiệp mong muốn của các cơ quan
Pháp ngữ đa phương. Trên thực tế, kinh tế vùng kết hợp với nhau ở cấp các mạng lưới, nằm ở
giữa cộng đồng, các DNVVN (vi mô) và nhà nước (vĩ mô), chẳng hạn : các doanh nghiệp Việt
Nam, các cụm công nghiệp, các tổ chức kiểu lãnh sự, các tổ chức xúc tiến hoạt động, cùng thúc
đẩy tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp. Các tổ
chức trung gian, người quản lý theo mạng lưới các bên hữu quan theo chiến lược phát triển bền
vững, là chỗ dựa cho việc tạo lập và phát triển của một nền kinh tế lân cận.

Tiếp cận thông tin theo mạng.

Xa lộ thông tin pháp ngữ đa phương hiện đang tồn tại. Có ít nhất ba con đường tạo thành
xa lộ thông tin này, thông qua AIF, AUF với mạng lưới các trung tâm syfed-refer và FFA với
Trung tâm diễn đàn kinh doanh Internet Pháp ngữ (Ceffanet).

Internet cho phép một doanh nghiệp nhỏ có được một công cụ thương mại hoá tương tác
trên bình diện toàn cầu. Nó cũng có thể là một công cụ tìm kiếm thông tin về các doanh nghiệp
trên toàn thế giới, cho phép tiếp cận các mạng lưới doanh nghiệp, các nguồn cung cấp nguyên
liệu hoặc phụ tùng, và các trung gian thương mại quốc tế.

Đào tạo về phát triển bền vững trong điều kiện Việt nam

Tiếp theo có thể là việc tổ chức các chương trình đào tạo, với việc minh hoạ các khoá học
cho các cụm doanh nghiệp của Việt nam về các thách thức trong quản lý do đòi hỏi của phát triển
bền vững. Cách tiếp cận theo cấp độ kinh tế vùng này có thể cho phép giảm thiểu các yếu kém

1. Ballet, J. et De Bry F. (2001). L’entreprise et l’éthique. Paris, Éditions du Seuil, 437 p.
2. Canel-Depitre, B., (2001). L’entreprise face aux engagements du consommateur-
citoyen ». Revue Française de Gestion, No 136 spécial sur Mondialisation, éthique
environnement : de nouvelles règles pour l’entreprise, Nov-déc., pp 168-172
3. Declairieux, B. (2003), Développement durable : comment concilier business et morale.
Capital, juin, pp. 124-126
4. Freeman, R.E. (1984), Strategic Management : a stakeholder approach, Boston, Pitman-
Ballinger, 276 p.
5. Gendron, C. (2004), La gestion environnementale et la norme ISO 14001, Montréal, Les
Presses de l’université de Montréal, 349 p.
6. Hawken, P., Lovins.A, and Hunter-Lovins, L. (1999). Natural Capitalism: Creating the
Next Industrial Revolution. Boston, Mass. Little Brown and Company, 415 p.
7. Hénault, G.[ed], (2002), L’appui à la petite entreprise francophone : une analyse
comparée des services d’aide non financiers. Paris, AUF, 219 p.
8. Laville, E (2002), L’entreprise verte : le développement durable change l’entreprise pour
changer le monde. Paris, Village Mondial, 320 p.
9. Le Quan et Van Chan Nguyen (2003), « La formation en entrepreneuriat au Vietnam :
perspectives et réalité ». in Niculescu, M. et Ponson B. (eds), La formation en
entrepreneuriat , Paris, AUF, Actes des VIIèmes Journées Scientifiques du réseau
Entrepreneuriat, pp 145-149.
10. Nguyen, Minh-Ngoc et Cliquet, G. (2003), La franchise, une méthode d’implantation
dans le commerce de détail : le cas du Vietnam. Revue Francophone de Gestion, 17 p.
11. Table ronde sur l’environnement et l’économie (1997), Rapport de synthèse sur la mesure
de l’éco-efficacité dans l’entreprise. Ottawa, Gouvernement du Canada, 70 p. 7
LE DÉVELOPPEMENT DURABLE : UNE MODE OU UN MODE DE GESTION
IRRÉVERSIBLE POUR LES PME DES PAYS EN TRANSITION AVEC QUELQUES
APPLICATIONS AU VIETNAM?
8
INTRODUCTION
Le Développement Durable (DD) se veut bien plus que la seule et incontournable
protection de l’environnement censée être assumée par les États et les grandes entreprises du
monde néo-libéral occidental. Il comprend également le devoir éthique pour ces dernières d’être
« économiquement viables, écologiquement saines et socialement responsables ». Il concerne
aussi la société civile et plus particulièrement les Petites et Moyennes Entreprises (PME) au sens
large du terme incluant les organisations de type coopératif, mutualiste, sans oublier, bien sûr, les
micro-entreprises formelles et ou informelles
La pertinence du DD commence à s’affirmer dès les résolutions de la conférence de
l’ONU de Stockholm (1972) sur l’environnement et se confirme lors des sommets de la Terre de
Rio (1992) et de Johannesburg (2002). L’Agenda 21 adopté par les Nations Unies pose le défi de
réconciliation des trois E (respect de l’Environnement et développement Économique avec
Équité sociale). Le DD s’avère également en harmonie avec les objectifs de développement pour
le millénaire initiés par l’ONU et les conclusions du neuvième sommet francophone de Beyrouth
qui sert de fondement aux délibérations du dixième sommet de Ouagadougou.
En s’appuyant au plan épistémologique sur les avancées conceptuelles de la théorie des
parties prenantes et de celle de la responsabilité sociale des entreprises ainsi que sur l’émergence
du principe de précaution, l’objectif de cette présentation est de démontrer le bien fondé
existentiel d’une stratégie de DD pour les PME notamment des pays en transition avec quelques
illustrations au Vietnam.
LE DÉVELOPPEMENT DURABLE, UN MODE DE GESTION HOLISTIQUE
PÉRENNE
Une tendance lourde pointe à l’horizon d’un mode (qui n’a rien d’une mode passagère) de
gestion en pleine mutation. Il s’agit de stratégies dites de développement durable qui s’articulent
autour des quatre P que sont le Progrès des organisations qui passe par le respect des Personnes et
de la Planète tout en assurant des Profits (Laville, 2002).
On démontre ainsi que le DD va bien au-delà du seul respect de notre environnement au

naturel » qui part du paradigme suivant : l’environnement n’est pas un facteur de production
mineur, mais bien une enveloppe qui comprend, fournit et soutient l’ensemble de l’économie
(Hawken, P., Lovins A. and Hunter-Lovins, L., 1999).
Les parties prenantes : des partenaires promoteurs du DD.
L’analyse institutionnelle, qui prend en compte la réponse des entreprises aux pressions
externes, repose sur le principe de la légitimité sociale publique par lequel la société leur délègue
le pouvoir de production à condition de se conformer aux normes légales et éthiques existantes
(Ballet et De Bry, 2001). Or cette légitimité sociale se trouve étroitement liée aux perceptions et
intérêts non seulement des partenaires de l’entreprise mais aussi des membres de la société civile
regroupés désormais sous le vocable de parties prenantes. Freeman (1984) en précise le concept

10
en affirmant: « une partie prenante dans une organisation est (par définition) tout groupe ou
individu qui affecte ou est affecté par l’accomplissement des objectifs de l’organisation ». En
guise d’illustration, la figure ci-dessous répertorie les grandes catégories de parties prenantes
ainsi que les divers marchés auxquelles elles font face.
Figure 2 : Les parties prenantes et leurs marchés
Typologie Marché desservi
Amont
Actionnaires
Fournisseurs

Financiers
Approvisionnement
Interne / Externe
Employés

Ressources humaines
Aval
Client

effet, les innovations du micro crédit lancées au Bangladesh par la Grameen Bank
contribuent à une réduction des inégalités sociales. Les démarches de commerce équitable
issues du Sud vont également dans le même sens.
Cette approche de court terme occulte, de surcroît, le potentiel de création de produits
nouveaux comme ceux de l’agriculture biologique et la diversification de marchés
d’exportation vers les pays de la Triade
Les pressions des parties prenantes
Illustrons l’influence qu’exercent les banquiers, les clients et le système juridique.
1- Nouvelles attentes des partenaires et intervenants financiers : les banques prennent de plus en
plus en compte les critères environnementaux pour le financement de projets. Le risque
écologico-financier est en effet un des fondements du principe de précaution.
2- Demande accrue d’information de la part des clients étrangers : ces derniers, assaillis par une
opinion publique de politiquement engagée et la pression qu’exercent tant les média que les
groupes environnementaux, exigent en conséquence de plus en plus d’information sur les
conditions de production de la part de leurs partenaires du sud. Le besoins d’accréditation
démontrant le respect des normes environnementales (norme ISO 14001) et sociales (norme
SA 8000 concernant les conditions de travail, par exemple) par les entreprises notamment
vietnamiennes qui agissent comme des sous-traitants et/ou fournisseurs se confirment comme
devenant inéluctables. Il devient en effet impérieux de bien comprendre la culture morale de
ses clients qui se caractérise notamment par « les dix commandements du manager éthique »
(Declairieux, 2003), qui énoncent, avec un certain sens de l’humour, la nécessité de respecter
les valeurs exprimées par les parties prenantes telles que : tu n’utiliseras pas le travail des
enfants, ou encore tu traiteras tes fournisseurs avec équité.
L’exemple de Carrefour qui multiplie ses audits auprès de ses sous-traitants en Asie est à cet
égard fort révélateur.

12
3- Obligation juridique d’accroître l’information sur un ou plusieurs aspects de l’éco-efficacité :
les critères de sélection des indicateurs doivent être: pertinents, fiables/crédibles, comparables
(dans le temps et par rapport aux normes établies), vérifiables, mesurables, rentables,

13
favorise une gestion efficace de DD et facilite ainsi l’accès à des normes commerciales
internationales pour la conquête des marchés d’exportation.
Privilégier une approche de promotion du DD centrée sur la méso-économie
Le niveau méso économique apparaît comme un champ souhaitable d’intervention pour
les instances de la francophonie multilatérale. En effet, se situant entre les communautés et les
PME (le micro) et l’État (le macro), le méso s’articule au niveau des réseaux, par exemple,
d’entrepreneurs vietnamiens, des grappes industrielles, des regroupements de type consulaire, des
facilitateurs d’activités stimulant l’entrepreneuriat afin de créer un environnement d’affaires
propice à la croissance des entreprises. L’appui à la création et au développement d’une
économie de proximité est alors mise en place par des organismes intermédiaires qui gèrent en
réseaux les parties prenantes des entreprises optant pour une stratégie de DD.
L’accès cybernétique à l’information.
L’inforoute francophone multilatérale existe bel et bien. Elle est constituée d’au moins
trois voies construites aussi bien par l’AIF, que par l’AUF avec son réseau de centres syfed-refer
et par le FFA avec son Centre du Forum Francophone des Affaires d’Internet (Ceffanet).
Internet permet à la petite entreprise de disposer d’un outil de commercialisation
instantané et interactif d’envergure planétaire. Il se révèle être, également, un outil de recherche
d’information qui relie l’entreprise au monde entier, et qui donne ainsi accès à des réseaux
d’entreprise, à des sources d’approvisionnement en matières premières ou pièces détachées, aussi
bien qu’à des intermédiaires du commerce international.
Une formation au DD adaptée au contexte vietnamien
Ce pourrait être, ensuite, la mise en place de programme de formation avec en guise
d’illustration des cours cybernétiques sur les défis de la gestion posés par les stratégies de
développement durable à destination des regroupements d’entreprises vietnamiennes. Cette
démarche de type méso économique permettrait de minimiser les déficiences relevées par Le
Quan et Chan (2003) à propos de la formation à l’entrepreneuriat puisque cette dernière est
perçue comme trop théorique lorsque dispensée au sein du milieu universitaire ou alors pas assez
appliquée au contexte vietnamien lorsque diffusée au monde des entrepreneurs. La formation au
DD dirigée vers les chambres de commerce, par exemple, permettrait une démarche concrète qui

6. Hawken, P., Lovins.A, and Hunter-Lovins, L. (1999). Natural Capitalism: Creating the
Next Industrial Revolution. Boston, Mass. Little Brown and Company, 415 p.
7. Hénault, G.[ed], (2002), L’appui à la petite entreprise francophone : une analyse
comparée des services d’aide non financiers. Paris, AUF, 219 p.
8. Laville, E (2002), L’entreprise verte : le développement durable change l’entreprise pour
changer le monde. Paris, Village Mondial, 320 p.
9. Le Quan et Van Chan Nguyen (2003), « La formation en entrepreneuriat au Vietnam :
perspectives et réalité ». in Niculescu, M. et Ponson B. (eds), la formation en

15
entrepreneuriat , Paris, AUF, Actes des VIIèmes Journées Scientifiques du réseau
Entrepreneuriat, pp 145-149.
10. Nguyen, Minh-Ngoc et Cliquet, G. (2003), La franchise, une méthode d’implantation
dans le commerce de détail : le cas du Vietnam. Revue Francophone de Gestion, 17 p.
11. Table ronde sur l’environnement et l’économie (1997), Rapport de synthèse sur la mesure
de l’éco-efficacité dans l’entreprise. Ottawa, Gouvernement du Canada, 70 p.

16


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status