phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến năng suất cao su ở nông trường tây hiếu ii - Pdf 13

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Cây cao su là một cây công nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao, được
trồng chủ yếu ở vùng xích đạo có tên khoa học là “Hevea” sản phẩm chính
của nó là nhựa mủ cao su tự nhiên được sử dụng cho nhiều ngành sản xuất kể
cả công nghiệp nặng và công nghiệp hàng tiêu dùng. Nước ta nằm trong khu
vực khí hậu nhiệt đới, có điều kiện thuận lợi cho quá trình sinh trường và
phát triển của cây cao su. Với lợi thế này Việt Nam đã trở thành nhà xuất
khẩu cao su thiên nhiên đứng hàng thứ 4 trên thế giới. Trong năm 2008, Việt
Nam đã xuất khẩu gần 900 ngàn tấn cao su thiên nhiên với giá xuất khẩu
khoảng 2.000USD cho một tấn, thu về một khoản ngoại tệ khoảng 2 tỷ
đô la Mỹ. Đến năm 2010 ngành sản xuất cao su thiên nhiên đạt mức tăng
trưởng vào khoảng 13,4% . Kể từ năm 1897, thời điểm cây cao su được đưa
vào trồng ở Việt Nam, đến nay đã hơn 100 năm. Đầu tiên được trồng ở
Quảng Bình, Kom Tum nhưng với qui mô nhỏ sau đó được trồng rộng ra ở
Phủ Quỳ Ngệ An, Đắc Lắc và Lâm Đồng…
Nông trường Tây Hiếu II nằm trên địa bàn xã Nghĩa Hiếu, huyện
Nghĩa Đàn nằm về phía tây bắc Nghệ An có nhiều tiềm năng để phát triển
cây công nghiệp dài ngày và ngắn ngày trong đó có cây cao su. Là loại cây
công nghiệp dài ngày, đồng thời cũng là cây lâm nghiệp, cây cao su ngoài giá
trị kinh tế cao, còn là loại cây bảo vệ và chống xói mòn đất. Cũng là loại cây
dễ trồng, đầu tư chủ yếu một lần và thời gian thu hoạch kéo dài trên 30 năm.
Đât trồng cao su phải là đất có tầng canh tác dày để kéo dài được thời gian
khai thác mủ. Đây là điều kiện tiên quyết để cây cao su phát triển mạnh mà
đem lại hiệu quả kinh tế cao cho vùng đất đỏ Nghĩa Đàn. Trong thời kì hiện
nay khi nên kinh tế nước ta đang trên đà hội nhập vào tổ chức thương mại thế
giới WTO, đặt ra cho nền nông nghiệp nước ta nói chung và ngành sản xuất
1
cao su nói riêng nhiều cơ hội và thách thức. Hiện nay, vấn đề đặt ra cho các
hộ ở nông trường là làm sao để nâng cao năng suất cũng như chất lượng cao
su nhằm tăng thu nhập cho nông dân. Vì vậy chúng tối tiến hành nghiên cứu

2.1.1 Một số khái niệm,định nghĩa
- Năng suất; Năng suất cây trồng
Năng suất là mối quan hệ giữa sản lượng của một đơn vị kinh tế và các
đầu vào được sử dụng để sản xuất ra sản lượng đó.
3
Năng suất cây trồng là sản lượng sản phẩm chính của một loại cây
trồng thu hoạch được bình quân trên một đơn vị diện tích gieo trồng trong
một vụ hoặc một năm. Năng suất cây trồng là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp
của ngành trồng trọt. Năng suất cao hay thấp chẳng những ảnh hưởng đến
sản lượng mà còn ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế của trồng trọt. Năng suất là
yếu tố quan trọng của quá trình tăng trưởng kinh tế, đặc biệt khi nền kinh tế
đang chuyển sang giai đoạn phát triển chiều sâu.
Năng suất = Sản lượng / Diện tích
Năng suất và sản lượng cây trồng: Sản lượng cây trồng có hai chỉ tiêu
là sản lượng ngoài đồng ( hay sản lượng tại gốc ) và sản lượng thực thu. Chỉ
tiêu năng suất tính theo sản lượng ngoài đồng phản ánh khả năng của đất đai
và trình độ kỹ thuật canh tác. Năng suất tính theo sản lượng thực thu phản
ánh kết quả sản xuất và làm căn cứ tính toán cân đối sản phẩm.
Năng suất và diện tích: Diện tích có hai chỉ tiêu là diện tích gieo trồng
và diện tích thu hoạch. Nếu tính theo diện tích gieo trồng thì nó phản ánh
đúng kết quả phấn đấu nâng cao năng suất trên toàn bộ diện tích. Còn tính
theo diện tích thu hoạch thì chỉ tiêu năng suất và sản lượng phản ánh được
khả năng của đất đai và kỹ thuật canh tác.
- Sản lượng cây trồng là toàn bộ sản phẩm chính của một loại cây trồng thu
được trên toàn bộ diện tích gieo trồng của cây trồng đó trong một vụ hoặc cả
năm.
Sản lượng cây trồng là chỉ tiêu số lượng tổng hợp của ngành trồng
trọt. sản lượng cây trồng có mối quan hệ chặt chẽ với năng suất.
Sản lượng = Năng suất x Diện tích
- Diện tích gieo trồng; diện tích canh tác.

ngầm cao và có thể trồng được trên đồi núi có độ dốc 5 – 8 độ. Là loại cây ít
sâu bệnh, đầu tư lao động chăm sóc ít hơn so với cây trồng dài ngày khác.
Cây cao su khác với cây dài ngày khác là thời gian thu hoạch của cao
su liên tục trong năm chỉ trừ thời gian nhiệt độ quá thấp và thời kỳ thay lá, do
vậy tính thời vụ của cao su rất thấp so với cây khác. Mặc dù vậy đây là loại
cây có thời gian kiến thiết cơ bản khá dài ( 5 – 7 năm), điều này làm kéo dài
thời gian thu hồi vốn.
Cây cao su thường được trồng xa nơi tiêu thụ và cung cấp vật tư nên
chi phí vận chuyển chiếm tỷ lệ khá cao. Không những thế sản phẩm của cây
cao su thường là mủ tươi, đặc điểm của loại mủ này rất dễ đông, nếu để lâu
mủ đông lại sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của mủ chế biến. Cho nên các công
ty trồng và khai thác cao su luôn gắn liền với khâu chế biến, làm như thế sẽ
khắc phục được các hiện tượng bất lợi trên và giảm được chi phí vận chuyển.
Như vậy, đối với các doanh nghiệp nông nghiệp sản xuất cao su cần phải trải
qua hai giai đoạn đó là: Giai đoạn sản xuất mủ tươi và giai đoạn chế biến.
2.1.2.2 Chu kỳ năng suất cây cao su
Cao su là cây công nghiệp dài ngày, chu kỳ sản xuất kinh doanh phải
trải qua hai thời kỳ: Thời kỳ kiến thiết cơ bản và thời kỳ kinh doanh.
6
Đồ thị 1: chu kỳ năng suất của cây cao su
* Thời kỳ kiến thiết cơ bản (I) ( 0 – t
1
) trong sản xuất cao su thường
kéo dài 5 -7 năm. Đây là thời kỳ hết sức quan trọng quyết định đến hiệu quả
đối với thời kỳ kinh doanh: Ở thời kỳ này nếu vườn cây được sử dụng tốt,
đầu tư chăm sóc hợp lý, giữ được mật độ thì thời kỳ kinh doanh sẽ cho năng
suất cao, chất lượng mủ tốt. Ngược lại nếu không được chú trọng trong quá
trình chọn giống cũng như chăm sóc sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng vườn
cây khi đưa vào kinh doanh và khó có thể khắc phục được. Do vậy, cần phải
chú trọng trong việc chọn giống cũng như đầu tư chăm sóc vườn cây ở thời

) được tính bắt đầu từ khi cây trưởng thành cho
đến năng suất ổn định, đến khi cây bắt đầu giảm năng suất (khoảng 20 – 25
năm). Giai đoạn này vườn cây cho năng suất cao, ổn định, yêu cầu đầu tư
chăm sóc đều qua các năm, hiệu quả kỹ thuật xét cho từng năm và cả giai
đoạn thường cao.
- Giai đoạn cuối (t
3
– t
4
) được tính từ khi cây bắt đầu giảm năng suất
đến khi thanh lý ( khoảng 4 – 6 năm) giai đoạn năng suất vườn cây thấp,
giảm nhanh, yêu cầu đầu tư chăm sóc giảm, hiệu quả kinh tế thường thấp.
Như vậy ta thấy đối với cây cao su khi đánh giá hiệu quả của nó ở một
thời điểm nhất định phải xem xét mình đang đánh giá ở giai đoạn nào của
thời kỳ kinh doanh. Nếu đánh giá thuộc giai đoạn đầu hay giai đoạn cuối thì
không chính xác vì hiệu quả của giai đoạn này thường thấp, hoặc đánh giá
vào giai đoạn giữa thì có thể hiệu quả lại quá cao từ đó các kết luận dễ dẫn
đến sai lầm. Do vậy khi đánh giá phải xem xét vấn đề này một cách cụ thể để
tránh sự nhầm lẫn và có các kết luận chính xác hơn.
2.1.2.3 Vai trò của sản xuất mủ cao su
- Sản xuất mủ cao su tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con
người. Cao su là loại cây cho sản lượng mủ cao, phẩm chất tốt nhất trong các
loại cây cho mủ. Cao su là một trong bốn nguồn nguyên liệu cơ bản của nền
công nghiệp hiện đại ( than đá, dầu hóa, gang thép, cao su ). Cao su có tác
dụng lớn trong các lĩnh vực như: công nghiệp, nông nghiệp, dân dụng…
Trong xã hội hiện nay có tới 50000 loại sản phẩm có chất liệu cao su, như
một áo đi mưa cần 1kg cao su khô, một ô tô cần 240kg cao su khô và một
máy bay cần 600kg cao su khô.
8
Từ khi phát hiện ra cây cao su là cây có nhiều mủ, cao su đã được phát

mủ khô, trong đó xuất khẩu gần 900000 tấn với giá trị bình quân khoảng 750
triệu USD thu nhập bình quân hiện nay cho toàn ngành bình quân khoảng
450000 – 500000 đồng/người/tháng. Sản xuất cao su góp phần nâng cao thu
nhập nhất là các nước đang và chậm phát triển, giúp cải thiện đời sống nhân
dân, tạo công ăn việc làm cho người lao động, đặc biệt là đồng bào trung du
miền núi giúp dân xóa đói giảm nghèo.
- Sản xuất cao su góp phần chống xói mòn bảo vệ môi trường. Việt Nam
là nước nhiệt đới gió mùa, nắng lắm mưa nhiều rất thuận lợi cho cây trồng
sinh trưởng và phát triển. Tuy nhiên lượng mưa không phân bố đều trong
năm, sông suối nước ta thường ngắn và dốc nên thường xuyên gây ra lũ lụt
trong năm. Cây cao su là cây công nghiệp dài ngày, có thân cây là gỗ. Vì vậy
việc phát triển cây cao su có tác dụng to lớn đối với môi trường, thảm cao su
dày có thể chống xói mòn bảo vệ đất nhất là ở các vùng đất dốc, khả năng
chống xói mòn là rất lớn, bên cạnh đó có khả năng phủ xanh đất trống đồi núi
trọc, tạo cân bằng sinh thái bảo vệ môi trường tự nhiên.
- Sản xuất cao su tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế. Với nhu cầu ngày
càng tăng về sản phẩm cao su trên thế giới. Cao su đã trở thành sản phẩm
hàng hóa để tiến hành trao đổi, các nước có lợi thế về cây cao su sẽ tiến hành
xuất khẩu góp phần tăng tích lũy về tăng trưởng và phát triển kinh tế đồng
thời mở rộng quan hệ kinh tế với các bạn hàng quốc tế. Hiện nay cây cao su
là một trong những cây công nghiệp có hiệu quả kinh tế cao. Khối lượng sản
xuất và xuất khẩu là rất lớn, trong khi đó Việt Nam là nước có điều kiện thời
tiết khí hậu thích hợp, hơn nữa giá lao động lại rẻ nên không có lý do gì mà
chúng ta không tiến hành trồng cây cao su.
10
Do cao su được tiêu thụ ở nhiều nước trên thế giới ngay cả các nước
không trồng cũng có nhu cầu tiêu thụ cao su, như vậy sản xuất cao su trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng
quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế đặc biệt là Trung Quốc và Việt Nam. Trong
tương lai sản xuất cao su sẽ tạo điều kiện để mở rộng quan hệ kinh tế với

j
Cj
1
C
j
: là các khoản chi phí thứ j trong một vụ sản xuất
11
* Gía trị tăng thêm (VA)
Là phần giá trị tăng thêm của người lao động khi sản xuất một đơn vị
diện tích trong một vụ.
VA = GO – IC
* Thu nhập hỗn hợp (MI)
Là phần thu nhập thuần túy của người sản xuất bao gồm thu nhập của
công lao động và lợi nhuận khi sản xuất 1 đơn vị diện tích trong một vụ.
MI = VA – ( A + T )
A: Phần giá trị khấu hao tài sản cố định và các chi phí phân bổ.
T: Thuế nông nghiệp
* Tỷ suất giá trị sản xuất theo chi phí (T
GO
)
Là tỷ số giá trị sản xuất của sản phẩm thu được bình quân trên 1 đơn vị
diện tích với chi phí trung gian của 1 vụ.
T
GO
=
TC
GO
Đơn vị tính chỉ tiêu tỷ suất có thể hiểu là số lần hay chính là giá trị sản
xuất thu được ( tính bằng 1000 đồng) chi phí 1000 đồng bỏ ra sản xuất.
* Tỷ suất giá trị tăng thêm theo chi phí (T

Cây cao su thiên nhiên cùng họ thực vật với cây khoai mì, nguồn gốc
xứ Brasil, Nam Mỹ, tên khoa học là Hevea brasiliensis. Khoảng năm 1878,
tàu Chasseloup Laubat chở 7000 hột giống cao su Brasil sang Á Châu Sri
LanKa (trước đây là Ceylan), Singapore và Inđônexia. Trồng thử thấy mọc
13
tốt các năm 1888 – 1911 ở các Vuờn Bách Thảo Singapore và Sri Lanka. Nên
các chính quyền thuốc địa Âu Châu đã di dời cây cao su về trồng ở các nước
Á Châu, thay vì khai thác cao su thiên nhiên ở Nam Mỹ, tại châu nguyên
quán lại còn dễ nhiễm bệnh tàn phá nặng nề cây cao su là bệnh đốm cháy lá.
Năm 1930, mức sản xuất cao su thiên nhiên đã đạt 467.000 tấn, nhất là ở Mã
Lai, nhờ cấp đất dễ dàng, nhờ áp dụng cả hai thể thức khai thác là tiểu điền
thường đa dạng, xen kẻ cây ăn trái, rau đậu hay hoa màu hàng niên – ( dưới
100 Ha ) và đồn điền (công ty tư bản ngọai quốc). Trong khi các nơi khác chỉ
khai thác theo phương thức đồn điền như ở Việt Nam (11.000 tấn) Ấn độ
(9.000 tấn), Thái Lan (4.000 tấn), Inđônexia (3.000 tấn). Sau Thế chiến thứ
hai, vào năm 1950, Malaysia vẫn duy trì địa vi hạng nhất của mình (761.000
tấn) nhưng Inđônexia đã tiến lên hàng nhì (487.000 tấn ), Thái Lan hạng ba
(111,000 tấn ). Việt Nam chiếm hạng tư ( 92,000 tấn). Hai mươi năm sau, vì
chiến tranh tiếp diễn, mức sản xuất của Việt Nam tụt dốc nặng nề, chỉ còn
28.000 tấn vào năm 1970, trong khi đó Ấn độ gia tăng đến 90.000 tấn, Trung
Quốc xuất hiện với cao su trồng ở đảo Hải Nam, mức sản xuất lên đến 40.000
tấn. Các nước Mã Lai Á (1.269.000 tấn), Inđônêxia (805.000 tấn), Thái Lan
(287.000 tấn) vẫn tăng đều sản xuất cao su thiên nhiên. Năm 1990, Thái Lan
tiến nhanh, mức sản xuất vươn lên hàng nhì (1.271.000 tấn) không mấy thua
kém Mã Lai Á (1.291.000 tấn) trên Inđônêxia (1.262.000 tấn). Mức sản xuất
Ấn độ (324.000 tấn) và Trung Quốc (264.000 tấn) tăng nhiều. Mức sản xuất
Việt Nam có phần phục hồi (103.000 tấn), nhưng đã bi Ấn độ và Trung Quốc
bỏ xa. Diện tích cao su Mã Lai Á, sau thập niên 1980, đã giảm đi rỏ rệt, vì
chính phủ và dân gian cho rằng khai thác cao su thiên nhiên lợi tức kém hẳn
cọ dầu (oil palm), chỉ trung bình 2.000 kg/ha ở các đồn điền cao su, trong khi

15
đạo. Cao su mọc tốt nhất khi nhiệt độ trung bình là 20-28 độ C và lượng mưa
hàng năm là 1800–2000 mm. Nhưng cũng vì vậy mà các nước tân tiến đã cố
chế tạo ra những cao su nhân tạo, cao su tổng hơp (artificial, synthetic
rubber) nhóm elastomers, thay thế cao su thiên nhiên ở ngành công nghệ chế
biến. Làm giá cao su thiên nhiên giảm nhiều. Các elastomers tổng hợp cạnh
tranh lớn với cao su thiên nhiên là polychloroprene, SBR, polybutadiene,
EPDM, polyurethane, butyl rubber, polypropylene.
Vào thập niên 1980, tiêu thụ cao su nhân tạo thay thế, chiếm 70% tổng
số cả hai lọai; tiêu thụ cao su thiên nhiên chỉ còn 30% tổng số. Tuy nhiên
ngày nay, mức tiêu thụ và giá cả cao su thiên nhiên có phần tái gia tăng, vì
giá dầu lửa gia tăng, công nghệ nhất là công nghệ xe hơi các nước như Trung
Quốc, Ấn Độ dùng nhiều cao su thiên nhiên, và khuynh hướng tiết kiệm năng
lượng hóa thạch bằng sản phẩm tái sinh thiên nhiên, thân thiện sinh thái hơn.
Đến năm 2000 sản lượng sản xuất và xuất khẩu cao su của các nước đang và
chậm phát triển có tốc độ tăng trưởng 3% một năm. Năm 2001, giá cao su
thiên nhiên lên mức cao nhất sau 27 năm giá thấp (ngày 13 tháng 6/2001 giá
lên đến, 2.81 đô la Mỹ một kgr ở thị trường Tokyo). Hy vọng mức tiêu thụ
cao su thiên nhiên nhiên phục hồi đến 40% mức tiêu thụ cả hai loại cao su
vào năm 2015, theo ước lượng chuyên viên quốc tế. Mức gia tăng tiêu thụ
cao su thiên nhiên sẽ vào khoảng 2,4% một năm từ 2007 đến 2015. Sản phẩm
chế tạo sơ khởi thành nguyên liệu cao su thiên nhiên xuất khẩu cũng đa dạng
hơn là dạng lá xông khói – RSS (rubber smoking sheets). Năm 1991, các
dạng cao su thiên nhiên xuất khẩu của Thái Lan là: cao su kỹ thuật đăc thù –
TRS, RSS, cao su đen vớt lớp mặt – Skim Black, DĐS, mủ cô dặc. 70% cao
su thiên nhiên được dùng để làm thành các chất dính, lớp dưới thảm, các đai
dây chuyền máy, các linh kiện tế bào và bột nổi , các ổ quay cầu, bộ phận xe
hơi, các đồ điện thổi phồng được. Những ứng dụng mà cao su nhân tạo không
16
thay thế được cao su thiên nhiên là các lốp xe vận tải chở nặng nề, các lốp xe

cao su tiểu điền (small holding), như Mã Lai Á, Inđônexia, Thái lan và Tich
Lan. Nhưng với những đặc tính khác biệt, nhất là ở chương trình cao su dinh
điền. Các tiểu điền cao su dinh điền thiết lập liên canh liên địa thành diện tích
lớn, trồng tháp các tinh dòng năng suất cao lúc đó là các tinh dòng GT1, PB
86 v.v… Những tinh dòng này do các đồn điền Công ty Pháp du nhập trồng
thành công năng suất 1000-2000 kg/ha từ các trung tâm khảo cứu cao su tư
nhân, tư bản Hà Lan ở Inđônexia. Do cố kỹ sư canh nông Pháp Richard, thân
thiện dân Việt, nguyên là một kỹ sư Công Ty Đất đỏ, đích thân chọn đúng
tinh dòng trồng ở các đồn điền cao su Pháp, đem phổ biến ở các địa điểm
dinh điền. Một số tiểu điền cao su Việt Nam chi trồng các giống cao su xa cạ,
năng suất kém cỏi hay nhiều lắm là trồng giống TJ1, cũng là môt cao su du
nhập trước nhất vào Viêt Nam từ Inđônêxia, năng suất không cao bằng GT1,
PB86 …
Chương trinh cao su dinh điền dự trù phát triển đến 200,000 ha, không
những ở những sinh thái thích hợp ở miền Đông Nam bộ và ở tỉnh Đặc Lắc,
mà còn mở rộng ở Tây Nguyên, cao độ 700- 900 m, như ở các tỉnh Pleiku và
Kontum. Trung tâm thực nghiệm Ea Kmat được chọn là vườn gổ tháp đại trà,
cung cấp cho đầy đủ gổ tháp tinh dòng cao năng và đặc biệt còn trồng thử
nghiệm một số tinh dòng mới của Trung Tâm khảo cửu Mã Lai RRIM, mua
lén được Kuala Lumpur đem về Ea Kmat thử nghiệm thêm. (Mua lén vì
RRIM không chịu giải tỏa các tinh dòng mới tuyển ra ngọai quốc, cũng như
các đồn điền Pháp không chịu cung cấp các tinh dòng cao su cao năng cho
các tiểu điền cao su Việt Nam cạnh tranh quyền dộc tôn của đồn điền Pháp).
18
Trong hơn 5 năm, từ 1958 đến 1963, diện tích cao su dinh điền đã lên đến
30.000 ha.
Năm 1962, chương trình cao su được mở rộng tài trợ và giúp đỡ kỹ
thuật thêm cho các tư nhân Viêt Nam và ngay cả cho các đồn điền nào muốn
mở rộng thêm tích khai thác hay trồng lại nhiều vườn cao su đã già cỗi, khai
thác đã trên 30-40 năm rồi. Chưong trình cao su Viêt Nam dự trù diện tích

Nam, tộc dân Hmong (Mường) quận Menlung, thượng lưu sông Mê Kông,
Trung Quốc (nay đã trồng trên 10.000 ha) hay ở các vùng xa xích đạo Bắc
nước Lào Nam Tha, OudomXay, từ các năm 1994-1995 (do Thái Lan hay
Trung Quốc tài trợ, nay đã bắt đầu cạo mủ) thường chỉ khai thác được 7
tháng một năm, thay vì 10 tháng một năm ở đảo Hải Nam-Trung Quốc, và 11
tháng mỗi năm ở các tỉnh Tây Nguyên hay miền Đông Nam Bộ Việt Nam.
Cây cao su cũng chậm lớn hơn ở cao độ hay ỏ vĩ tuyến xa xích đạo, vì nhiệt
độ thấp : phải 8- 10 năm, vỏ mới cạo mủ được. Nhưng cây thấp, đường kính
thân nhỏ thi trồng các hàng cây cao su với tỉ trọng cao hơn 400-500 cây/ha
thay vì 350 cây/ha, bù chì lại năng suất. Để dân chúng dễ hưởng ứng hơn
trồng cao su, ở những vùng mới tái tạo rừng phải theo chế độ khai thác tiểu
điền, nhân công gia đình, đã thành công trồng 600 000 ha cà phê vối ở Việt
Nam và tiểu điền cũng thành công ở Mã Lai trước thập niên 1980,hay từ lâu
ở Thái Lan, Inđônexia và Ấn Độ. Trồng theo thế nông lâm, xen kẽ với cây ăn
trái cải thiện (chuối, mảng cầu - na tây nhãn vải, đao lông, mận, mơ, cây hạch
quả, mít, đu đủ….) và nếu cần cả rau hoa nữa, thích nghi cho mỗi địa
phương, bổ sung bằng những hoa màu hàng niên như khoai lang, khoai mỡ
20
( khoai tía ) khoai mì (sắn), bắp giống mới lai hay không lai. Giúp dân thu lợi
tức mỗi năm trong khi chờ vỏ cây đủ lớn, đủ dày để có thể cạo mủ.
Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm
2009, tổng diện tích cây cao su đạt 674.200 ha, tăng 42.700 ha (13,5%) so với
năm 2008. Trong đó, diện tích cho khai thác là 421.600 ha (chiếm 62,5%
tổng diện tích), với sản lượng đạt 723.700 tấn, tăng 9,7 % so năm 2008. Diện
tích trồng cao su tập trung chủ yếu ở Đông Nam bộ (64%), kế đến là Tây
Nguyên (24,5%) và duyên hải miền Trung (10 %). Diện tích cây cao su ở
vùng Tây Bắc mới đạt khoảng 10.200 ha (chiếm 1,5%). Trước nhu cầu cao su
thiên nhiên của thế giới ngày càng gia tăng, cũng như lợi ích nhiều mặt của
cao su, về hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường, Việt Nam đã ban hành nhiều
chính sách đồng bộ nhằm thúc đẩy hơn nữa phát triển cây cao su. Cao su là

trở thành nông sản xuất khẩu thứ 2 sau gạo và đứng thứ 4 trên thế giới.
Tính đến hết năm 2010, cao su Việt Nam đã xuất khẩu sang hơn 80 quốc gia
và vùng lãnh thổ.
Trong 3 tháng đầu năm 2011, xuất khẩu cao su đạt khoảng 179 nghìn tấn, trị
giá ước đạt 798 triệu USD, tăng 48% về lượng và tăng 50% về giá trị so với
cùng kỳ năm 2010.

Bảng 2.1: Tình hình sản xuất cao su ở Việt nam 2006 – 2010
Năm Diện tích (ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(tấn)
2006 528.000 1,05 553.500
22
2007 562.500 1,07 600.000
2008 631.500 1,03 653.501,1
2009 674.200 1,07 723.700
2010 715.000 1,08 770.000
Nguồn: Tổng hợp của Hiệp hội cao su Việt Nam
Đông Nam Bộ là vùng có điều kiện sinh thái thích hợp nhất ở Việt
Nam để phát triển cây cao su. Tại đây, vườn cao su kinh doanh được phát
triển sớm nhất từ năm 1906 và trở thành vùng cao su truyền thống. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, tác hại của gió lốc trở nên đang kể, làm ảnh
hưởng giảm sản lượng và thanh lý sớm trên vài nghìn hecta cao su. Năm
2007 diện tích cao su ở Đông Nam Bộ là 379.000 ha chiếm 67,4% so với
diện tích cao su cả nước. Năm 2008 diện tích cao su của vùng tăng lên là
408.330 ha nhưng so với cơ cấu cao su của cả nước lại giảm chiếm 64,7%
diện tích cao su cả nước. Đến năm 2009 diện tích cau su của vùng đạt
431.488 ha chiếm 64% diện tích cao su cả nước, và năm 2010 đạt 437.400 ha

ở vùng kín gió, những giống cao su ít đổ gãy được trồng đúng vụ, và chăm
sóc tốt có thể đạt năng suất khá cao. Trong những năm 2007 đến 2010 diện
tích cao su của vùng tăng liên tục qua các năm. Năm 2007 diện tích cao su là
56.540 ha chiếm 10% diện tích cao su của cả nước, đến năm 2010 diện tích
cao su tăng lên là 72.357 ha chiếm 10,1 % diện tích cao su của cả nước.
Vùng Tây Bắc là vùng mới phát triển cây cao su từ năm 2006. Vùng
này có yếu tố môi trường hạn chế đến sinh trưởng và sản lượng cây cao su
như nhiệt độ thấp, đất đồi dốc, ít nắng, nhiều ngày có sương mù (40 – 60
ngày/năm). Đặc biệt nhiệt độ thấp có thể xuống dưới 3
o
C làm cây cao su có
thể chết ngọn hoặc chết cả cây. Thời gian kiến thiết cơ bản của cây cao su Ở
Tây Bắc có thể đến 7 – 8 năm, chậm hơn vùng Đông nam bộ và Tây Nguyên
1 -2 năm. Tuy nhiên, thực hiện theo chủ trương chính sách của nhà nước thúc
đẩy phát triển triển cây cao su ở vùng này trong nhưng năm qua diện tích cáo
su của vùng liên tục tăng. Năm 2007 diện tích cao su của vùng là 3.960 ha
24
chiếm 0,7% diện tích cao su cả nước, nhưng đến năm 2010 diện tích cao su
của vùng đạt 15.000 ha chiếm 2,1 % diện tích cao su cả nước.
Bảng 2.2: Diện tích và cơ cấu diện tích cao su các vùng từ năm 2007 –
2010
Vùng trồng
2007 2008 2009 2010
DT (ha)
CC
(%)
DT (ha)
CC
(%)
DT (ha)


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status