nghiên cứu cơ sở khoa học để phát triển sản xuất một số loại hoa chất lượng cao quy mô công nghiệp phục vụ nội tiêu và xuất khẩu vùng đà lạt tỉnh lâm đồng - Pdf 13



BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐỀ TÀI
“Nghiên cứu cơ sở khoa học để phát triển sản xuất
một số loại hoa chất lượng cao, quy mô công nghiệp
phục vụ nội tiêu và xuất khẩu vùng Đà Lạt,
tỉnh Lâm Đồng”

Cơ quan chủ trì: VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Chủ nhiệm đề tài: GS.TSKH.Trần Duy Quý 8014 Hà Nội, 2009
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆN KHOA HỌC NN VIỆT NAM ĐỀ TÀI CẤP NHÀ NƯỚC THUỘC NHIỆM VỤ KHCN
TRỌNG ĐIỂM TRIỂN KHAI TẠI ĐỊA PHƯƠNG BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐỀ TÀI

Nghiên cứu cơ sở khoa học để phát triển sản xuất một
số loại hoa chất lượng cao, quy mô công nghiệp phục
vụ nội tiêu và xuất khẩu vùng Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng Chủ nhiệm đề tài Cơ quan chủ trì Đề tài


M
ục lục
2

Mở đầu
6
I TỔNG QUAN TÀI LIỆU
7
1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
7
2. Tình hình nghiên cứu trong nước

17
II MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
19
1. Mục tiêu
19
2. Nội dung
20
3. Phương pháp

20
III KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
21
Nội dung
1
Phân tích đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội,
môi trường có liên quan đến phát triển sản xuất hoa vùng


74

Nội dung
4
Nhu cầu tiêu dùng, tiêu chuẩn các công ty, cơ sở kinh
doanh, xuất nhập khẩu hoa ở thị trường hoa trong nước
và trên thế giới
77
4.1 Nghiên cứu nhu cầu tiêu dùng hoa của Đà Lạt tại một số thị
trường chính TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Lạt
77
4.2 Nghiên cứu các tiêu chuẩn và tiềm năng thị trường hoa của 78
thế giới và khu vực
Nội dung
5
Xác định một số chủng loại hoa có tiềm năng, phù hợp
cho sản xuất quy mô công nghiệp hiệu quả cao, hợp với
thị hiếu người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu
98
5.1 Xác định một số chủng loại hoa có tiềm năng, phù hợp cho
sản xuất quy mô công nghiệp hiệu quả cao, hợp với thị hiếu
người tiêu dùng trong nước
98
5.2 Xác định một số chủng loại hoa có tiềm năng, phù hợp cho
sản xuất quy mô công nghiệp hiệu quả cao phục vụ xuất
khẩu

98
Nội dung

7.2 Quy mô và phương thức sản xuất hoa 132
7.3 Thị trường tiêu thụ chính của hoa Đà Lạt 134
7.4 Một số điểm yếu trong sản xuất hoa ở Đà Lạt hiện nay

135
Nội dung
8
Xây dựng đề án phát triển sản xuất hoa chất lượng cao,
quy mô công nghiệp phục vụ nội tiêu và xuất khẩu tại
vùng Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng

137
IV KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
138
1 Kết luận 138
2 Kiến nghị

140
V TÀI LIỆU THAM KHẢO
142
Lời cảm ơn
147

PHẦN PHỤ LỤC

Stt Nội dung
Trang

Bảng 19 Hoạt động sản xuất kiểu các hộ nông dân tại Đà Lạt 112
Bảng 20 Hoạt động của chủ buôn khi tham gia các kênh hàng 115
Bảng 21 Đặc điểm hoạt động của các công ty sản xuất kinh doanh hoa 118
Bảng 22 Doanh thu của các công ty 119
Bảng 23 Cách đánh giá chất lượng sản phẩm 119
Bảng 24 Cách đánh giá chất lượng sản phẩm 120
Bảng 25 Sự phân bổ chi phí, phân chia lợi nhuận 121
Bảng 26 Hiệu quả sản xuất hoa cúc 121
Bảng 27 So sánh chi phí sản xuất 122
Bảng 28 Những khó khăn trong hoạt động của các tác nhân 122
Bảng 29 Chiến lược hoạt động của các tác nhân ngành hàng 124
Bảng 30 Khả năng tham gia của người nghèo vào các kênh hàng 126
Bảng 31 Chủng loại hoa xuất khẩu chủ yếu trong tháng 2/2007 135
Bảng 32 Thị trường xuất khẩu hoa trong tháng 2/2007 135
Bảng 33 Những đơn vị xuất khẩu hoa trong tháng 2/2007 136
Biểu đồ 1 Diễn biến diện tích sản lượng hoa của tỉnh Lâm Đồng 101
Biểu đồ 2 Cơ cấu thị trường tiêu thụ hoa của tỉnh Lâm Đồng 106
Biểu đồ 3 Diễn biến về giá trị XK và giá trị SX hoa của Lâm Đồng 106
Biểu đồ 4 Sự thay đổi về diện tích SX hoa của hộ nông dân Đà Lạt 108
Biểu đồ 5 Sơ đồ ngành hoa của tỉnh Lâm Đồng 109
MỞ ĐẦU
Đà lạt đã nổi tiếng từ xưa, không chỉ là nơi du lịch nên thơ, với những đồi thông,
thác nước, những triền cỏ rộng mênh mông mà còn là vùng khí hậu độc đáo có tiềm năng
gieo trồng một số cây đặc sản của nước ta, đặc biệt là rau, hoa cây cảnh cao cấp có giá trị
kinh tế cao. Vì thế, ngành trồng hoa Đà Lạt – Lâm Đồng đã hình thành và phát triển từ
những n
ăm 40 của Thế kỷ trước. Các vùng trồng hoa như Thái Phiên, Hà Đông, Đa
Thiện, Vạn Thành, Xuân Thọ, Nguyên Tử Lực, An Sơn… gồm các giống hoa truyền
thống như Hồng, Cúc, Cẩm chướng, Lay ơn, Phong lan, Địa lan và gần đây là Lily, Cát
tường hay Hồng môn, Salem…. Nếu như trước những năm 1975 chỉ có vài chục ha trồng

mớ
i.

Do đó, để góp phẩn phát triển hoa Đà Lạt theo hướng đột phá mới – hướng công
nghệ cao ở quy mô công nghiệp nhằm phát huy tối đa điều kiện tự nhiên cũng như tiềm
năng con người Đà Lạt chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu cơ sở khoa
học để phát triển sản xuất một số loại hoa chất lượng cao, quy mô công nghiệp, phục vụ
n
ội tiêu và xuất khẩu vùng Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng”.

Mục tiêu của đề tài này là xác định được luận cứ khoa học để đề xuất đề án, phát
triển hoa Đà Lạt theo hướng công nghệ cao ở quy mô công nghiệp. Trên cơ sở nghiên cứu
có kế thừa các kết quả của một số đề tài nghiên cứu khoa học trong nhiều lĩnh vực từ điều
tra cơ bản, nghiên cứu về đất đai, về chọn tạo giống, kỹ
thuật canh tác của nhiều ngành,
chúng tôi tập trung vào nội dung nghiên cứu như: phân tích đánh giá điều kiện từ nhiên,
kinh tế xã hội và môi trường có liên quan đến sản xuất hoa vùng Đà Lạt, phân tích đánh
giá thực trạng ngành sản xuất hoa tại Đà Lạt, từ tập quán và trình độ khoa học kỹ thuật sản
xuất của các công ty, doanh nghiệp, đến tình hình tiêu thụ hoa cũng như thu nhập của
người trồng hoa tại Đ
à Lạt. Qua đó rút ra được những cơ sở khoa học để giúp cho việc
xây dựng đề án phát triển hoa ở Đà Lạt - Lâm Đồng theo hướng công nghiệp. Song song
với việc phân tích đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, thực trạng ngành sản xuất
hoa Đà Lạt chúng tôi còn tiến hành các nội dung nghiên cứu như: Đánh giá tình hình
nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất hoa vùng Đà Lạt, nhu c
ầu tiêu
dùng, tiêu chuẩn của các công ty, các hộ kinh doanh, xuất nhập khẩu hoa ở thị trường
trong nước và thế giới.
Việc sản xuất nông lâm nghiệp nói chung, rau và hoa, đặc biệt là hoa của Lâm
Đồng nói riêng là do yếu tố khí hậu chi phối và có tính quyết định. Chính vì thế việc

ại cây dùng bộ lá để trang trí và hoa trồng làm thảm.
Theo số liệu thống kê của WTO lượng hoa xuất khẩu hàng năm trên thế giới, hoa cắt
thường chiếm 46,8%, hoa chậu và hoa trồng thảm chiếm 41,7%, loại cây dùng lá để trang
trí chiếm 8,01% và các loại hoa khác chiếm 3.5%. Theo ITC (Trung tâm thương mại hoa
quốc tế) lượng hoa tiêu thụ trên thế giới là 100 tỷ USD vào năm 1991, đến năm 2000 đã
vượt lên 200 tỷ USD. Hiện nay thị trường tiêu thụ lớn nhất trên thế giới là Châu Âu, Mỹ
và Nhật Bản và dự đoán ở thế kỷ 21 lượng tiêu thụ hoa trên thế giới sẽ tăng với tốc độ hơn
10% mỗi năm, với tỷ lệ hoa cắt chiếm hơn 60%, hoa chậu, hoa trồ
ng thảm chiếm hơn
30% và các loại hoa cây cảnh khác chiếm 10%. Đánh giá về thị trường các chuyên gia
cũng cho rằng thị trường hoa cắt ở Mỹ và châu Âu sẽ được nhập khẩu bởi các nhà cung
cấp Mỹ La Tinh, Đông Châu Phi và Nam Châu Phi. Còn thị trường Đông Nam Á những
nhà cung cấp chính sẽ là Maylaixia, Thái Lan và Việt Nam. Về hoa chậu hoa thảm thị
trường Châu Mỹ sẽ do bang Florida, California của Mỹ và Costarica cung cấp. Thị trường
Châu Âu do Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và m
ột số nước Đông Âu cung cấp. Còn thị
trường ở Đông Nam Á những nhà cung cấp là Malaixia, Srilanka, Philippin, Ấn Độ,
Trung Quốc và Đài Loan.
Hiện nay các nước tiên tiến đã đầu tư trang thiết bị cho ngành sản xuất hoa của
mình đầy đủ các phương tiện hoạt động, ứng dụng nhanh các thành tựu về di truyền và
công nghệ sinh học hiện đại, các tiến bộ khoa học kỹ thuật để chọ
n tạo và sản xuất các
giống hoa có chất lượng cao, đẹp, giá thành hạ đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của
thị trường thế giới như Hà Lan, Israel, Colombia… là những nước đứng đầu trên thế giới
về công nghệ sản xuất hoa tiên tiến, sản phẩm làm ra đã đạt đến mức hoàn thiện. Trong
các nước châu Á phải kể đến Thái Lan là nước đang phát triển có điều kiện tự nhiên, kinh
tế
, xã hội tương tự như Việt Nam, mấy năm gần đây thị trường hoa của Thái Lan rất phát
triển, đặc biệt là hoa Lan đã trở thành một ngành xuất khẩu quan trọng, giá trị xuất khẩu
hàng năm đạt 800 triệu USD/năm (theo thống kê của FAO 2008) đạt được những thành

triệu USD, Pháp 451 triệu USD và Hà Lan 397 triệu USD. Ở Châu Á Nhật là nước nhập
khẩu hoa lớn nhất, năm 2002, thị phần hoa nhập khẩu chỉ chiếm 10,6% thị trường hoa
Nhật Bản. Nhưng năm 2003, thị phần này đã tăng lên đến 11,4% và nă
m 2004 chiếm
12,9%. Nhìn trung, hàng năm nhu cầu nhập khẩu hoa của Nhật Bản đạt khoảng 453 triệu
USD, ước kim ngạch nhập khẩu hoa của Nhật Bản đạt khoảng 500 triệu USD trong năm
2005. Hiện Hà Lan là nước cung cấp các loại hoa Hồng, hoa Loa kèn, Freesia và các loại
hạt và củ hoa Tulíp (trước đây Nhật Bản nhập nhiều hoa Tulíp tươi. Nhưng nay chuyển
sang nhập củ và hạt hoa Tulíp về trồng do thời tiết Nhật Bả
n hiện tương đối thuận lợi);
Đài Loan là các loại hoa Cúc và Trung Quốc cung cấp các loại cành, lá để phục vụ cho
việc trang trí và bó hoa cho thị trường Nhật Bản. Sản phẩm hoa tươi Việt Nam xuất sang
Nhật Bản chủ yếu là hoa Phong lan và các loại cành ghép. Trong đó, mỗi năm bình quân
kim ngạch đạt khoảng 6,2 triệu USD (chiếm 1,4% thị phần hoa nhập khẩu của Nhật Bản).
Riêng năm 2005, kim ngạch xuất khẩu hoa của Vi
ệt Nam sang Nhật Bản ước đạt 6,5 triệu
USD. Dự báo, các năm tiếp theo kim ngạch có thể đạt trên 8 triệu USD. Do điều kiện
thiên nhiên ưu đãi, Nhật Bản có thể tự trồng hầu hết các loại hoa. Tuy nhiên, do nhu cầu
về hoa khá phong phú và chi phí nhân công tại Nhật Bản khá đắt, không thể cạnh tranh
với các nước khác.
• Thị trường hoa ngày càng cạnh tranh quyết liệt và đòi hỏi hoa sản xuất ra phải
đẹ
p, phù hợp với với thị hiếu tiêu dùng. Sản phẩm hoa của các nước trồng hoa trên thế
giới rất phong phú và đa dạng, đã đáp ứng được nhu cầu của thị trường hoa luôn luôn biến
động và thay đổi. Đặc biệt ở Nhật, gần đây tập quán tặng hoa và chi tiêu mua hoa của
người dân Nhật Bản đang tăng mạnh trong các dịp lễ. Thói quen tặng hoa đang trở thành
nếp sống vă
n hóa của người Nhật Bản. Nhu cầu mua hoa của các gia đình, đặc biệt là thú
chơi hoa hàng ngày và làm quà tặng tăng cao vào các dịp lễ như ngày giỗ Tổ (tháng 3),
ngày của Mẹ (tháng 5), Noel và năm mới. Điểm đáng chú ý là, tại Nhật Bản mặt hàng hoa

bán giống hoa.
* Các biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất, sơ chế, bảo quản một số loại
hoa cũng phát triển một cách tương đối nhiều và ở mỗi nước, mỗi nơi đều có những hình
thức đầu tư riêng biệt mang tính đặc thù, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
của từng n
ước.
*Vấn đề nâng cao chất lượng nông sản, trong đó có hoa và cây cảnh, thông qua
thúc đẩy hệ thống chính sách về vệ sinh an toàn thực phẩm là một vấn đề lớn, có liên quan
chặt chẽ tới mức sống dân cư và sự phát triển của nông nghiệp ven đô ở hầu hết các nước
trên thế giới. Quá trình Hội nhập WTO, đặt ra vấn đề tiêu chuẩn hóa chất lượng ở cấp
quốc tế thông qua các Hi
ệp định SPS và các hệ thống chứng nhận Quốc tế như
EUROPGAP để xuất khẩu sang Châu Âu Các nước như Pháp, Bồ Đào Nha phát triển
các thể chế quản lý chất lượng các sản phẩm đặc sản như Tên gọi xuất xứ, Chỉ dẫn địa lý
nhằm nâng cao chất lượng nông sản. Như vậy, vệ sinh an toàn thực phẩm là một yếu tố
cấu thành, không thể tách rời củ
a chất lượng nông sản. Chính sách vệ sinh an toàn thực
phẩm liên quan đến thể chế chính sách quản lý chất lượng nông sản và hoa cây cảnh.
* Hệ thống quản lí chất lượng của Pháp và Châu Âu, có ba mức độ quản lí chất
lượng:
- Quản lý chất lượng vệ sinh thực phẩm: có mục tiêu kiểm định chất lượng và an
toàn với thực phẩm nhằm đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng. Hệ thống này phải
có trách nhi
ệm phân tích các nguy cơ rủi ro về vệ sinh thực phẩm để từ đó có thể
lựa chọn các chính sách của nhà nước phù hợp. Các cơ quan Nhà nước có trách
nhiệm soạn thảo các qui định, nguyên tắc dự phòng để giảm thiểu rủi ro. Để triển
khai cần có trao đổi thông tin rộng rãi và kiểm soát chặt chẽ trên cơ sở lựa chọn
các phương pháp kĩ thuật để áp dụng các qui định.
- Quản lí ch
ất lượng dựa trên dấu hiệu các đặc tính đặc trưng: có bốn hệ thống nhỏ

khâu nhập giống, sản xuất giống và trồng hoa thương phẩm theo đúng các quy trình
VietGap, AsianGap hay Europgap.
1.2. Công tác chọn tạo giống hoa chủ lực ở trên thế giới
Thương mại hoa cắt cành trên thế giới liên tục tăng trong những năm qua, năm
2005 đạt 40 tỷ USD, năm 2008 đạt xấp xỉ 55 tỉ USD. Các chủng loại hoa chủ lực trên thế
giới vẫn luôn là các loại hoa cắt cành truyền thống: Cúc, Hồng, Cẩm ch
ướng, Đồng tiền,
Lay ơn và gần đây bổ sung thêm Lyly, hoa Lan… Sản xuất, tiêu dùng hoa cắt cành mang
nặng tính thời trang và vì thế nhu cầu về giống hoa mới luôn là vấn đề nóng bỏng của thị
trường. Vì vây, chọn tạo giống hoa là lĩnh vực khoa học công nghệ được nhiều nước quan
tâm, đặc biệt là các nước tiên tiến như Hà Lan, Anh, Nhật Bản, Mỹ, Isaren, Úc,
Colombia… Chỉ riêng ở Hà Lan đã có vài chục doanh nghiệp hoạt động m
ạnh mẽ trong
lĩnh vực chọn tạo giống và cung cấp hoa cắt cành. Hàng năm, các doanh nghiệp này cho
ra đời nhiều giống hoa cắt cành mới lạ, đáp ứng nhu cầu thị hiếu thị trường thế giới đem
lại những lợi nhuận khổng lồ cho ngành sản xuất kinh doanh hoa của nước mình và bản
thân doanh nghiệp đó. Ví dụ như như hai Công ty hoa Cúc, Cẩm chướng: Royalvanzaten,
Công ty hoa Hồng môn và cây giống Chiataisead… Công ty hoa Lily và hoa Hồ
ng
Oliyrozen… là những công ty hàng đầu về nghiên cứu và sản xuất hoa , các giống hoa
không chỉ của Hà Lan mà còn của cả thế giới… Ngày nay, hoa cắt cành truyền thống là
những loại cây trồng có tính đa dạng di truyền phong phú bậc nhất với hàng nghìn mẫu
giống kinh doanh mỗi loài.
Dưới đây chúng tôi có thể làm rõ một số hướng nghiên cứu chọn tạo các giống
hoa cắt cành chủ lực hiện nay.

a. Chọn tạo giống hoa Hồng (
Rosa L.)
Hoa Hồng đã được trồng ở Trung Quốc, Tây Á và Bắc Phi từ 5 ngàn năm trước
[Gudinserge 2000]. Sau đó hoa Hồng đã được di thực đi khắp nơi trên thế giới. Hoa hồng

[Hubharal et al, 1992]…
Các nghiên cứu về bộ phụ hoa Hồng đã được nhiều tác giả nghiên cứu trên cơ sở
sử dụng các phương pháp RAPD, AFLP, giải mã gen…. như Weising et al n
ăm 2005,
Toeses et al 1993; Zhang và Cs năm 2001. Esselink et al năm 2003. Các nghiên cứu trên
đồng tập trung vào đánh giá đa dạng di truyền của các chi, loài, , các giống trong sản
xuất để tìm ra khoảng cách di truyền cũng như quan hệ họ hàng giữa chúng làm cơ sở cho
công tác lai tạo giống mới cũng như sử dụng các kỹ thuật cao hơn là chuyển gen với
những tính trạng mong muốn vào cây hoa Hồng.
Theo báo cáo hàng năm của tạp chí Oliy Rozen của Hà Lan thì số lượng các giống
hoa Hồ
ng tạo ra trên thế giới hàng năm là hơn 100 giống. Trong đó riêng Hà Lan có tới
hơn 45% tổng số giống được tạo ra, còn lại tập trung ở một số nước như Mỹ, Pháp, Nhật,
Trung Quốc, Úc, Colombia, Ấn Độ
Thành tựu nổi bật nhất trong những năm gần đây là các nhà khoa học của Úc và
Nhật Bản của 2 Công ty Florigeue (Úc) và Suitory (Nhật Bản) đã tạo ra được giống hoa
Hồng độc
đáo không có trong tự nhiên: là hoa có mầu xanh da trời hay xanh ngọc nhờ kỹ
thuật chuyển gen (2007). Trung tâm nghiên cứu chuyền gen của Úc đã công bố tách được
1.200 gen. Tuy nhiên, đến nay phương pháp tạo giống hoa Hồng có hiệu quả nhất vẫn là
lai hữu tính giữa các thứ trong loài thuộc các chi khác nhau, sau đó nhờ kỹ thuật cứu phôi
để tạo được con lai, sau đó tiếp tục chọn lọc và nhân lên rồi ghép mắt để tạo nên những
giống hoa Hồng mớ
i đáp ứng được yêu cầu người tiêu dùng. [Aldulber, 2001; Bugaenko,
1989; Staikov và cs, 1980; Smulders, 2006 ].
b. Chọn tạo giống hoa Cúc:
Hoa Cúc (Chrysanthemum moriolium Ramat.) là một trong bốn loài hoa cắt cành
được sản xuất, tiêu dùng nhiều nhất từ Trung Quốc và Nhật Bản và với tư cách là một loại
cây hoa cảnh, Cúc được trồng từ cách đây trên 3.000 ngàn năm (Zhenhua và Shouhe,
1995). Chi Chrysanthemum gồm một số loài nhị bội (2n=2x=18), tứ bội (2n=4x=36) và

incurved, pompon, single & semi-double, anemone, spoon, quill, spider, brush&thistle,
unclassified] và 4 loại theo ki
ể dáng chùm hoa [single, exhibit-spray tapper, spray wide]
(National Chrysanthemum Society, Inc., USA, 2001). Kích thước bông hoa có thể rất lớn
(22 - 25 cm) hoặc rất nhỏ (1-1,4 cm) phụ thuộc vào mục tiêu tạo giống để đáp ứng thị hiếu
tiêu dùng của từng thị trường. Eiyo et al. (2003) và Chen&Li (1997) đã có nhiều thành
công trong việc tạo giống cúc có bông rất nhỏ, một xu hướng tiêu dùng tại Nhật Bản và
Trung Quốc. Mầu sắc của hoa Cúc do một số sắc tố phối hợp cấu thành, trong đó
anthocyanin và carotenoids là các thành phần chính (Nubuo, 2000); màu vàng của cánh
hoa có thể đậm hoặc nhạt phụ thuộc hàm lượng carotenoid; mầu hồng hoặc đỏ thẫm phụ
thuộc hàm lượng anthocyanin; trong khi màu đồng hoặc đỏ phụ thuộc hỗn hợp
anthocianin và carotenoids, hàm lượng carotenoids cao hơn anthocyanin sẽ cho màu đồng,
nếu ngược lại, cánh hoa có màu đỏ. Flavonoids có thể có ảnh hưởng đến các sắc thái khác
của cánh hoa (Nubuo, 2000).
Chọn tạo giống cúc chống chịu sâu bệnh là vấn đề quan tr
ọng được hầu hết các cơ
sở nghiên cứu quan tâm. Takasi (1981) ứng dụng thành công phương pháp lây nhiễm
nhân tạo để chọn lọc khả năng kháng bệnh rỉ sắt trắng (P. horiana Hennings). Takatsu et
al. (2004) áp dụng thành công phương pháp lây nhiễm nhân tạo và chọn lọc invitro đói
với bệnh này. Trong khi hầu hết các chương tình tạo giống sử dụng khả năng kháng sâu
bệnh từ các nguồn vật liệu hoang dại, Shinoyama et al (2002) đã thành công trong việc
chuyển gen kháng lepidoptera từ Bacillus thurigensis vào giống Shu-on-chikara tạo ra khả
năng kháng khá tốt đối với một số loại sâu ăn lá và hoa. Joung et al. (2003) cũng ứng
dụng công nghệ chuyển gen trong tạo giống cúc không phân cành.
c. Chọn tạo giống Lay ơn:
Hoa Lay ơn thương mại (Gladiolus communis L.) là loại hoa cắt cành trồng phổ
biến trên thế giới nhờ vẻ đẹp quyến rũ và tính đa dạng phong phú về mầu sắc, kiểu dáng
bông hoa. Trên 260 loài thuộc chi Gladiolus phân bố rộng rãi trong vùng cận Sahara và
Nam Phi là nguồn gen phong phú tạo nên các giống lay-ơn hiện đại (Ferriera et la., 1990;
Cantor et al., 1998; Littlejohn&de Walt, 1992; Tombolato et al., 2002; Remotti & Loffler,

tuy nhiên, dòng bố mẹ như vậy di truyền cho con cái không có sự phân ly về mầu sắc
hoặc không có khác biệt, hoạc khác biệt rất ít về mầu sắc với bố mẹ.
Ngoài mầu sắc, kiểu dáng bông hoa, kích th
ước cành hoa, bông hoa, số bông
hoa/cành, và sự nở hoa đồng loạt/cành (Cantor et al., 1998; Joung et al., 2003), độ bền của
bông và cành hoa cũng là các đặc điểm quan trọng đối với các nhà tạo giống hoa Lay ơn.
Theo hệ thống phân loại của thế giới, các giống hoa Lay ơn có thể chia làm 45 loại từ
trắng nhạt đến đỏ thẫm, nâu thẫm, vàng thẫm, xanh thẫm,… Tuy nhiên, đó cũng chỉ là
tương đối do mầu sắc cánh hoa biến đổ
i rất phong phú và liên tục, phụ thuộc vào sự pha
trộn của các sắc tố như nói ở phần trên. Cũng theo hệ thống này, các giống cũng có thể
phân chia thành 5 loại theo kích thước cành hoa: mini, nhỏ, trung bình, lớn và khổng lồ
căn cứ vào kích thước cành hoa.
d. Chọn taọ giống hoa Đồng tiền: Hoa Đồng tiền (Gerbera Jamesonnii bolus ex Hooker
f.) là một trong năm loài hoa cắt cành được sử dụng nhiều nhất trên thế giới (đứng thứ
năm sau hoa Hồng, Cúc, Cẩm chướng và Tulip). Tại California, lượng hoa Đồng tiền tiêu
thụ hàng năm chỉ đứng sau hoa Hồng (Deng&Harbaugh, 2007). Chi Gerbera có trên 30
loài, phân bố rộng từ Nam Mỹ, Nam Phi, Madagascar và vùng nhiệt đới châu Á. Hoa
Đồng tiền được ưa chuộng nhờ sự đa dạng, phong phú về kiểu dáng, mầu sắc và vẻ đẹp
thuần khiết, trong trắng truyền thống và đôi khi là cảm giác hân hoan, vui vẻ của nó. Hiện
nay, có hàng nghìn giống Đồng tiền cắt cành và vườn cảnh được trồng và thương mại phổ
biến trên thế giới.
Chọn tạo gi
ống hoa Đồng tiền cắt cành ngày nay vẫn dựa chủ yếu vào phương
pháp lai hữu tính và tập trung chủ yếu vào các mục tiêu: kiểu dáng, mầu sắc hoa, độ cứng
và độ bền cành hoa, năng suất hoa và khả năng kháng của một số sâu bệnh chính như thối
gốc (do Phytophtora, Pythium), sương mai, nhện đỏ và virus héo đốm cà chua (tomato
spotted wilt virus - TSWV)… Cánh hoa cứng, chậm héo gục là mục tiêu chọn giống hàng
đầu của hầu hết các chương trình t
ạo giống (Jong, 1986). Việc chọn các dòng bố mẹ có

Ứng dụng phương pháp sinh học phân tử, Korbin (2006) đã chuyển gen Nucleocapsid của
TSWV, làm vật liệu cho chương trình tạo giống tại Viện Nghiên cứu cây ăn quả và Nghề
vườn Ba Lan.
Hoa Đồng tiền được phân loại theo mầu sắc thành 8 nhóm cơ bản: vàng đậm
(gold), cam vàng (yellow), hồng đào (peach), đỏ, trắng – kem, hồng thắm (pink - rasp) và
hồng sáng. Trong mỗ
i nhóm, hoa có thể đậm nhạt hoặc pha trộn sặc sỡ trong phạm vi
nhóm tông màu. Kiểu dáng có thể là cánh đơn, trung gian hoặc cánh kép với vòng tâm
đen, nâu, vàng hoặc xanh. Kiểu đặc biệt là kiểu cánh chân nhện (cánh mảnh, có dạng tua).
Các chương trình tạo giống thường định hướng hình thức theo nhu cầu thị hiếu của thị
trường mục tiêu, nhưng đều nhắm tới việc tạo ra các kiểu dáng, hình thức mới lạ.
e. Chọn tạo giống Cẩm chướng: Cẩm chướng (Dianthus caryophyllus L.) là một trong
năm loài hoa cắt cành được sản xuất kinh doanh nhiều nhất trên thế giới. Theo Wikipedia,
hoa Cẩm chướng đã được trồng và sử dụng từ 2000 năm nay. Hoa Cẩm chướng được ưa
chuộng rộng rãi nhờ vẻ đẹp thanh lịch, dịu dàng cùng với tính đa dạng, phong phú về kiểu
dáng, màu sắc của nó. Cẩm chướng thườ
ng tượng trưng cho tình yêu và thiện cảm. Chi
Dianthus có trên 300 loài, phân bố chủ yếu trong vùng Điạ Trung hải, Cận đông, nhưng
chỉ có D.carryophyllus và D.Barbatus có ý nghĩa là hoa thương mại. Tuy vậy, nhiều loài
hoang dại được sử dụng làm vật liệu lai tạo trong các chương trình tạo giống (Nimura et
al., 2006; Guobao et al., 1995).
Hầu hết các chương trình tạo giống Cẩm chướng ngày nay đặt mục tiêu là chọn tạo
các giống mới lạ về kiểu dáng, mầ
u sắc, đáp ứng thị hiếu tiêu dùng có tính thời trang của
thế giới. Tại Đại học Arkansas (Mỹ) các nhà nghiên cứu đã chọn tạo được giống Cẩm
chướng xanh Moondust (2007). Tương tự, bằng phương pháp chuyển gen các nhà khoa
học Nhật Bản cũng đã tạo được giống Cẩm chướng mầu xanh (blue) (Yoshikazu, 1999).
Các giống mới lạ này được bước đầu đưa vào sản xuất kinh doanh.
Khả n
ăng kháng các sâu bệnh hại chủ yếu như thối rễ và gốc do Fusarium spp.,

hiện phục vụ mục đích cá nhân và mục đích phi thương mại; 2) Các hành vi được thực
hiện nhằm mục đích thí nghiệm; 3) Các hành vi được thực hiện nhằm mục đích lai tạo các
giống cây khác. (Điều 15, chương V).
Để bảo đảm quyền lợi của tác giả giống cây trồng, những người sử dụng giống
mớ
i được bảo hộ thường phải nộp một khoản lệ phí quyền tác giả cho Nhà tạo giống, các
khoản lệ phí bảo hộ giống này có thể từ vài % đến 30% giá trị thương mại sử dụng giống
và tuỳ từng loại giống cây trồng.
Như vậy để tiếp tục phát triển sản xuất hoa cắt cành tại Đà Lạt, Lâm Đồng cũng
như trong cả nước và xuất khẩu hoa trong bối cảnh hội nhập WTO và tham gia Công ước
Quốc tế về Bảo hộ gi
ống cây trồng mới, Việt Nam cần phải đóng lệ phí quyền tác giả cho
các giống hoa cắt cành nhập nội (cũng như nhiều loại cây trồng khác). Với các giống mới
được chọn tạo và đưa vào sử dụng khoản lệ phí này sẽ rất lớn và sẽ có tác động gia tăng
chi phí sản xuất hoa, giảm các lợi ích về kinh tế, trong khi đa số người sản xuất hoa ở
nước ta là các nông h
ộ nhỏ, thiếu vốn đầu tư.

2.Tình hình nghiên cứu trong nước
2.1 Sản xuất và tiêu thụ hoa trong nước
Theo thống kê của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn diện tích trồng hoa
cây cảnh cả nước hiện nay khoảng 15.000 ha, tập trung chủ yếu ở Lâm Đồng, thành phố
Hồ Chí Minh, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Nam Định, Bến Tre, Đồng Tháp ,Vĩnh
Long.
Riêng diện tích cây hoa của Đà Lạt và các huyện hiện nay khoảng hơn 3115 ha,
t
ập trung tại các vùng chuyên canh hoa của Đà Lạt, Đức Trọng và một diện tích nhỏ ở Lạc
Dương, Di Linh, Bảo Lộc. Những giống hoa được trồng với diện tích lớn, sản lượng cao
là Địa lan (Cymbidium), Phong lan (Oncidium, Phalaenopsis), hoa Cúc (Chrysanthenum),
hoa hồng (Rosa Sp), hoa Lily (Lilium longiflorum), Đồng tiền (Gerbera), Lay ơn

Bảo hộ giống cây trồng mới của UPOV, đặc biệt là khi tiếp cận thị trường xuất khẩu.
Hiện nay, ngoài Đà Lạt Hasfarm (đơn vị sản xuất và cung cấp hoa lớn nhất nước),
đang có thêm nhiều doanh nghiệp đầu tư lớn cho việc trồng và sản xuất hoa ph
ục vụ thị
trường trong nước và tiến tới xuất khẩu. Một xu hướng khác là các công ty nước ngoài
đến đầu tư sản xuất hoa tại Việt Nam. Công ty Ateko (100% vốn Hàn Quốc) đầu tư các
khu nhà kính trồng hoa Xương rồng(XR) ở 31 Quang Trung (Đà Lạt). Việc kinh doanh
hoa Xương rồng có rất nhiều triển vọng bởi nhu cầu về sản phẩm này không ngừng gia
tăng với thị trượng rộng lớn
ở châu Âu, châu Á và cả châu Mỹ nữa, đặc biệt là các nước
Mỹ, Pháp, Braxin, Mehico, Trung Quốc, Singapore, Nhật Bản Hàn quốc đầu tư sản xuất
hoa Xương rồng tại Đà Lạt là vì điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng ở đây khá lý tưởng, đồng
thời giá nhân công tương đối rẻ nên tạo sức cạnh tranh với chính XR của công ty mẹ ở
Hàn Quốc. Do đó, thời gian tới, Công ty sẽ tăng cườ
ng sản xuất XR tại Đà Lạt và một số
vùng khác như Đức Trọng, Đơn Dương… nhằm thay thế XR Hàn Quốc bằng XR Việt
Nam để xuất đi nước ngoài.
Ngay trong nước “hoa” Xương rồng cũng rất được ưa chuộng. Từ giữa năm 1998
đến nay Ateko đã sản xuất gần chục ngàn đơn vị (cành) XR và sản phẩm làm ra đến đâu
được tiêu thụ hết đến đ
ó thông qua các đại lý tại Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ,
Bến Tre…
Các nghiên cứu về thị trường hoa ở Việt Nam và các tiềm năng trên thị trường
Quốc tế của Việt Nam hầu như chưa có. Các ngành hàng chủ yếu tự phát chứ chưa có
những nghiên cứu để nhằm phát triển các ngành hàng chất lượng cao. Các nghiên cứu và
tác động vào tổ chức ngành hàng dựa trên cơ sở nắm bắt nhu cầu củ
a người tiêu dùng
trong thời gian gần đây đã được Trung tâm nghiên cứu và Phát triển Hệ thống nông
nghiêp - Viện Cây Lương thực cây thực phẩm tiến hành đối với các nông sản như lúa
Tám xoan Hải Hậu, vải thiều Thanh Hà, chuối Ngự Đại Hoàng, hồng không hạt Bắc Kạn,

vào sản xuất. Tuy nhiên, do hạn chế về kinh phí nghiên cứu công tác này còn được tiến
hành ở quy mô nhỏ. Để có bộ giống hoa cắt cành đẹp, độc đáo của Việt Nam nói trung và
Đà Lạt nói riêng , giảm nhẹ chi phí đóng góp quyền tác giả, cần đầu tư kinh phí tiếp tục
đẩy mạnh công tác chọn tạo giống cho các viện nghiên cứu về hoa cây cảnh trong cả
nước.
Mặc dù công tác nghiên cứu về hoa cây cảnh c
ủa nước ta mới bắt đầu gần 20 năm
nhưng cũng đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ :
 Đã tuyển Chọn thành công các giống hoa phục vụ sản xuất như: giống hoa Hồng
VR2, VR4, VR6; giống hoa Cúc CN - 98, CN01, CN02, CN43, CN44, CN 05.1,
CN 05.3 ; giống hoa Cẩm chướng Niva và Super Green; giống hoa Lan HL3,
HT1, HT2, HT3; giống hoa Lay ơn DL1, DL3 và Đỏ đô tươi; giống hoa Lily
Sorbonne và Acapulco; giống hoa Đồng tiền Piton và Sanata , G04.5, G04.7…
 Đã b
ước đầu thành công trong việc tạo ra những giống hoa mang bản quyền Việt
Nam nhờ phương pháp lai tạo giữa các giống nhập nội và các giống địa phương
như các giống Lay ơn ĐL1, ĐL2, Cá giống Đồng tiền ĐT1, ĐT4, ĐT6, các
giống cúc xử lí đột biến…các giống hoa mới này đang được tiếp tục chọn lọc để
đưa vào sản xuất trong thời gian tới.

Đã xây dựng được quy trình kỹ thuật trồng và chăm sóc cho một số chủng loại
hoa ngắn ngày như: hoa Cúc, hoa Đồng tiền, hoa Cẩm chướng;
 Bước đầu xây dựng được quy trình về chế độ chiếu sáng bổ sung cho hoa Cúc,
đảm bảo tiếp kiệm và hiệu quả;
 Nghiên cứu sản xuất thành công giá thể tổng hợp phục vụ trồng hoa Lan và các
loài hoa cảnh có giá trị kinh tế khác thay thế nguồn giá thể
dớn truyền thống hiện
nay;
 Tạo ra được một số sản phẩm áp dụng thử nghiệm trong việc bảo quản hoa sau
thu hoạch;

khẩu hoa ở thị trường hoa trong nước và trên thế giới;
2.5. Xác định một số chủng loại hoa có tiềm năng, phù hợp cho sản xuất quy mô công
nghiệp hiệu quả cao, hợp với thị hiếu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu;
2.6. Phân tích hiện trạng về
tổ chức ngành hàng phân phối hoa và các thể chế thị trường
đảm bảo;
2.7. Phân tích xu hướng phát triển sản xuất hoa tại vùng Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng;
2.8. Xây dựng đề án phát triển sản xuất hoa chất lượng cao, quy mô công nghiệp phục
vụ nội tiêu và xuất khẩu tại vùng Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

3. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
3.1 Cách tiếp cận:
Tiếp cận và phân tích theo vùng về các đi
ều kiện tự nhiên (khí hậu, thổ nhưỡng, địa
lý, thảm thực vật…) và các điều kiện kinh tế - xã hội của vùng làm cơ sở khoa học cho
việc quy hoạch vùng.
Tiếp cận trực tiếp người sản xuất hoa để phân tích hiện trạng sản xuất, xây dựng các
quy trình sản xuất trung phù hợp với các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế và trong nước.
Tiếp cận trực tiếp các Công ty s
ản xuất và kinh doanh hoa để trao đổi, thu thập ý
kiến để xây dựng chiến lược phát triển hoa phù hợp.
Tiếp cận chẩn đoán thị trường tiêu thụ hoa trong nước, nghiên cứu ngành hàng để
xác định các thể chế thương mại hóa hoa phù hợp.

3.2 Phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng:
Thu thập số liệu thống kê tại các cơ quan quản lý và chuyên môn trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng.
Sử d
ụng phương pháp “Đánh giá nhanh nông thôn (RRA)”, phương pháp “ Đánh giá
nhanh nông thôn có sự tham gia của cộng đồng (PRA)” và điều tra bằng phiếu để thu thập

1. 1. Điều kiện tự nhiên của tỉnh Lâm Đồng
(nguồn: www.lamdong.gov.vn/dieukientunhien) Vị trí địa lý
Lâm Đồng là tỉnh miền núi phía Nam Tây Nguyên, và là tỉnh duy nhất ở Tây
Nguyên không có đường biên giới quốc tế. Lâm Đồng có độ cao trung bình từ 800 -
1.000 m so với mặt nước biển với diện tích tự nhiên 9.772,19 km
2
; địa hình tương đối
phức tạp chủ yếu, là bình sơn nguyên, núi cao đồng thời cũng có những thung lũng
nhỏ bằng phẳng đã tạo nên những yếu tố tự nhiên khác nhau về khí hậu, thổ nhưỡng,
thực động vật và những cảnh quan kỳ thú cho Lâm Đồng.
- Phía đông giáp các tỉnh Khánh Hoà và Ninh Thuận
- Phía tây nam giáp tỉnh Đồng Nai
- Phía nam – đông nam gáp tỉnh Bình Thuận
- Phía bắc giáp tỉnh Đắc Lắc.
Lâm Đồng n
ằm trên 3 cao nguyên và là khu vực đầu nguồn của 7 hệ thống sông
lớn; nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam – là khu vực năng động, có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao và là thị trường có nhiều tiềm năng lớn. Toàn tỉnh có thể chia
thành 3 vùng với 5 thế mạnh: Phát triển cây công nghiệp dài ngày, lâm nghiệp, khoáng
sản, du lịch - dịch vụ và chăn nuôi gia súc.
Địa hình
Đặc điểm trung của Lâm Đồng là đị
a hình cao
nguyên tương đối phức tạp, chủ yếu là bình sơn nguyên,
núi cao đồng thời cũng có những thung lũng nhỏ bằng
phẳng đã tạo nên những yếu tố tự nhiên khác nhau về khí hậu, thổ nhưỡng, thực
động vật và những cảnh quan kỳ thú cho Lâm Đồng.

o
chiếm gần 50%. Chất
lượng đất đai của Lâm Đồng rất tốt, khá màu mỡ, toàn tỉnh có khoảng 255.400 ha đất
có khả năng sản xuất nông nghiệp, trong đó có 200.000 ha đất bazan tập trung ở cao
nguyên Bảo Lộc - Di Linh thích hợp cho việc trồng cây công nghiệp dài ngày có giá trị
kinh tế cao như Cà phê, Chè, Dâu tằm. Diện tích trồng Chè và Cà phê khoảng 145.000
ha, tập trung chủ yếu ở Bảo Lâm, Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà; diện tích trồng rau, hoa
khoảng 23.800 ha tậ
p trung tại Đà Lạt, Đơn Dương, Đức Trọng. Chè, cà phê, rau, hoa
ở Lâm Đồng đa dạng về chủng loại, có những loại giá trị phẩm cấp cao. Đất có khả
năng nông nghiệp còn lại tuy diện tích khá lớn nhưng nằm rải rác xa các khu dân cư,
khả năng khai thác thấp vì bị úng ngập hoặc bị khô hạn, tầng đất mỏng có đá lộ đầu
hoặc kết vón, độ màu mỡ th
ấp, hệ số sử dụng không cao Trong diện tích đất lâm
nghiệp, đất có rừng chiếm 60%, còn lại là đất trồng đồi trọc (khoảng 40%).
Đất và sử dụng đất trong sản xuất nông nghiệp:
a/ Phân loại và sử dụng đất đai:
Trước 1975, các nghiên cứu về đất đai tại Đà Lạt đã nhận xét thổ nhưỡng ở đây
không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, muốn canh tác có hiệu quả phải thực hiện
các biện pháp cải tạo đất.
Theo các nghiên cứu trước 1975, Đà Lạt có 4 nhóm đất chính:
• Loại đất podzolic vàng đỏ.
• Loại đất podzolic phức tạp trên phù sa cổ.
• Loại đất núi phức tạp, phần lớn là đất podzolic vàng đỏ.
• Loại đất latosol nâu đỏ trên đá huyền vũ.
Các nghiên cứu chuyên sâu phân loại đất đai Đà Lạt thành 3 nhóm:
• Nhóm podzolic vàng đỏ và tụ thổ :
Đất podzolic vàng đỏ phát sinh từ các loại đá hoa cương chứa nhiều Al, K, ít Fe,
Ca, Mg, Na nên kém phì nhiêu, độ chua cao (pH=4,8∹5,7)
Đất tụ thổ có ba loại: vàng, đỏ, nâu. Đây là loại đất có giá trị cao trong nông học

Nâu đỏ trên đaxit Thịt trung bình 70-100 Nâu đỏ, đỏ nâu
Nâu vàng trên đaxit Thịt trung bình 50-100 Nâu vàng
Đỏ vàng trên phiến
sa
Thịt trung bình, nhẹ 50-100 Đỏ vàng, vàng đỏ
Đỏ vàng trên phiến
sét
Thịt trung bình,
nặng
30-100 Vàng đỏ
Vàng đỏ trên granit Thịt trung bình, nhẹ >70 TB Vàng đỏ
Dốc tụ Thịt trung bình, nhẹ >100 Nặn
g
Xám nâu, nâu đen
Trên cơ sở các nghiên cứu vào năm 1987 về đặc điểm lý tính của đất đai tại Đà
Lạt cho thấy đất có khả năng canh tác nông nghiệp chiếm 10.998 ha. Trong đó đất đã
sử dụng là 3.767 ha (năm 1987), đất có khả năng phát triển nông nghiệp là 7.231 ha.
Đánh giá về mức độ thích nghi của cây trồng trên các loại đất phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp tại Đà Lạt:
Đất phù sa thuậ
n lợi cho sản xuất các loại rau cải, lúa, ngô.
Đất nâu đỏ thuận lợi cho cây công nghiệp (cà phê), cây ngắn ngày (khoai tây).
Đất nâu vàng thuận lợi cho sản xuất hoa cắt cành và dược liệu artichaud.
Đất đỏ vàng thuận lợi cho sản xuất hoa, artichaud, rau cải, chè, cây ăn quả.
Đất vàng đỏ thuận lợi cho cây rau, cây ăn quả và cây lương thực.
Năm 2000, thành phố Đà Lạt đã thực hiện phân tích 250 mẫu đất đại diện cho
các vùng sản xuất nông nghi
ệp của địa phương.
Kết quả phân tích cho thấy đất Đà Lạt có những đặc điểm sau:
Về độ pH: Đất Đà Lạt ở tầng đất mặt (0-30 cm) có pH=5.07 dến 6,10 thuộc loại

ỉ số phân tích tầng mặt là 0,40±0,67 %, tầng
trung là 0,22±0,07 %. Hàm lượng MgO trong đất Đà Lạt nằm trong khoảng trung bình
với chỉ số phân tích ở tầng mặt là 1,11±0,08%, tầng trung là 0,84±0,14%. Về hàm
lượng mangan (Mn): Giá trị trung bình về hàm lương Mn của đất Đà Lạt ở tầng mặt là
434±1479 ppm, ở tầng trung là 436±871 ppm, thuộc loại nghèo. Tuy nhiên có một số
nơi hàm lượng Mn rất lớn như
đất tầng mặt tại Tà Nung là 2990±4778 ppm, đất tầng
trung ở phường 12 là 1973±3224 ppm.
Các nguyên tố vi lượng khác như đồng (Cu), kẽm (Zn), molipden (Mo) nằm
trong dãy trung bình yếu so với một số loại đất khác.
Nhìn chung, đất Đà Lạt có độ mùn thấp, độ pH nằm ở mức trung bình thấp
(chua), các nguyên tố khoáng đa lượng, trung lượng và vi lượng đều ở mức thấp. Do
đó để tổ chức sản xuất rau hoa có hiệu qu
ả kinh tế thì phải sử dụng một lượng lớn
phân bón bổ sung, trong đó bổ sung các loại phân hữu cơ là một biện pháp cấp thiết
nhằm duy trì các tính chất cơ học và độ keo của đất.
Báo cáo dự thảo quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đai thành phố Đà Lạt năm
2002, theo bản đồ đất thành phố Đà Lạt tỉ lệ 1/25.000 được lập trên cơ sở kế thừa tài
liệu và bản đồ đấ
t đai tỷ lệ 1/100.000 của Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp và
có bổ sung, toàn thành phố Đà Lạt được xác định có 5 nhóm đất chính với 12 đơn vị
phân loại đất sau:
• Nhóm đất phù sa: Gồm có đất phù sa chua; đất phù sa gley (diện tích 423,64 ha)
• Nhóm đất gley: Gồm đất gley chua (diện tích 353,45 ha)
• Nhóm đất đỏ: Gồm đất đỏ chua tầng mặt nhiều mùn; đất đỏ chua giàu mùn; đất
đỏ chua nghèo bazơ (diện tích 1.358,75 ha).
• Nhóm đất xám: Gồm đất xám rất chua sỏi sạn; đất xám đỏ vàng; đất xám giàu
mùn tích nhôm; đất xám tầng mặt giàu mùn rất chua và đất xám (diện tích
35.213,08 ha).
• Nhóm đất đen: Gồm đất đen giàu mùn (diện tích 557,94 ha).

marguerite.
• Khu vực Xuân Thọ, Trại mát: Sản phẩm ưu thế là cà rốt, một ít các loại rau
cải khác
• Khu vực Xuân trường: Sản phẩm ưu thế là chè, cây ăn trái, hoa glayơn.
• Khu vực An Bình, Quảng Thừa: Sản phẩm ưu thế là rau cải, cây ăn trái.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status