đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ ở xã hương toàn, huyện hương trà, tỉnh thừa thiên huế - Pdf 13

Phần 1:
MỞ ĐẦU
1.1.Tính cấp thiết của đề tài:
Chăn nuôi lợn là một nghề truyền thống có từ lâu đời ở nước ta. Trong
thời gian qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành trồng trọt, đặc biệt
là sự tăng trưởng nhanh về sản xuất lương thực, nghề chăn nuôi lợn ở nước
ta đã phát triển khá tốt, số lượng tổng đàn và chất lượng đàn lợn đều tăng
khá.
Năm 2000 tổng đàn lợn của cả nước là 20,2 triệu con, đến 01/10/2001,
đạt 21,2 triệu con (tăng 5,94% so với năm 2000) và hiện nay đứng thứ 8 trên
thế giới về số lượng đầu lợn (sau Trung Quốc, Mỹ, Braxin, Cộng hòa Liên
bang Đức, Tây Ban Nha, Pháp và Ba Lan). Trong tổng đàn lợn thì đàn lợn
nái là 2,8 triệu con - chiếm 13,2%. Các tỉnh phía Bắc có 1,3 triệu con lợn nái
- chiếm 46,4% số lợn nái cả nước. Tuy nhiên số lượng lợn nái ngoại còn quá
ít, mới chiếm khoảng 1,3% tổng đàn lợn nái; còn lại chủ yếu là nái Móng
Cái, nái Lai năng suất thấp. Sản lượng thịt lợn hơi năm 2001 của cả nước đã
đạt 1,5 triệu tấn, tăng gần 0,5 triệu tấn so với năm 1995 và chiếm khoảng
76% tổng sản lượng thịt hơi các loại. Nếu như tốc độ tăng trưởng đàn lợn từ
năm 1995 đến năm 2001 bình quân là 5,0%/năm, thì tốc độ tăng trưởng thịt
lợn hơi là 8,2%/năm. Điều đó chứng tỏ chất lượng đàn lợn và trọng lượng
thịt hơi trên đầu lợn đã được quan tâm chú ý và tăng lên đáng kể.
Trong những năm gần đây, chăn nuôi lợn ở nước ta đã tăng trưởng khá
về tổng đàn, chất lượng đàn cũng như quy mô sản xuất, kim ngạch xuất
khẩu Tuy nhiên so với yêu cầu và khả năng thì kết quả này còn quá khiêm
tốn. Để nâng cao sức cạnh tranh, mở rộng thị trường cho sản phẩm thịt lợn
xuất khẩu theo các tác giả thì có rất nhiều vấn đề đang đặt ra đòi hỏi chúng
ta cần nhanh chóng giải quyết một cách triệt để như tăng cường sử dụng các
giống mới, kỹ thuật chăn nuôi tiên tiến, mở rộng quy mô sản xuất, xúc tiến
thị trường, phát triển công nghiệp chế biến, tạo thế chủ động về nguyên liệu
phục vụ chế biến thức ăn chăn nuôi
1

Hương Toàn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.

2
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận về hiệu quả kinh tế.
2.1.1. Khái niệm hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế xã hội phản ánh chất lượng
các hoạt động kinh tế, là thước đo trình độ quản lý, khai thác và sử dụng các
nguồn lực của các nhà quản lý. Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau
về hiệu quả kinh tế. Theo giáo sư Nguyễn Tiến Mạnh thì: “ Hiệu quả kinh tế
của một hiện tượng (hay quá trình) kinh tế là phạm trù kinh tế phản ánh trình
độ sử dụng các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) để đạt được mục tiêu
xác định [vân, 22].”
Hồ Vính Đào lại nói rằng: “ hiệu quả kinh tế còn gọi là hiệu ích kinh tế
là so sánh giữa chiếm dụng và tiêu hao trong hoạt động kinh tế (bao gồm lao
động vật hóa và lao động sống) với thành quả có ích đạt được” [hương, 30].
Còn theo Farsell (1957), Fchult (1964), Rizzo (1979) và Elli (1993) thì cho
rằng: Hiệu quả kinh tế được xác định bởi so sánh giữa kết quả đạt được với
chi phí bỏ ra (nhân lực, vật lực, tài lực…) [vân, 22].
Tóm lại, hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ tổ
chức, quản lý kinh tế. Chất lượng khai thác các nguồn lực trong quá trình tái
sản xuất để đạt được mục tiêu để ra ban đầu.
2.1.2. Bản chất của hiệu quả kinh tế.
Mặc dù các nhà kinh tế học đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về hiệu
quả kinh tế, song họ đều thống nhất về bản chất của hiệu quả kinh tế. Rằng
người sản xuất muốn có lợi nhuận thì phải bỏ ra những chi phí nhất định, đó
là: nhân lực, vật lực, tài lực và tiến hành so sánh kết quả đạt được sau quá
trình sản xuất kinh doanh với chi phí bỏ rra thì có được hiệu quả kinh tế. Sự
chênh lệch giữa chi phí bỏ ra và kết quả tu được càng cao thì hiệu quả kinh

Vì vậy, ta có thể hiểu rằng: “Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế
biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu phản ánh trình độ
khai thác các nguồn lực, chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất
nhằm thực hiện mục tiêu đề ra”.
4
Nền kinh tế mỗi quốc gia đều được phát triển theo hai chiều: Phát triển
kinh tế theo chiều rộng (huy động mọi nguồn lực vào sản xuất, tăng thêm
vốn, bổ sung lao động và kỹ thuật, mở mang thêm nhiều ngành nghề, xây
dựnh thêm nhiều xí nghiệp…); Phát triển kinh tế theo chiều sâu (đẩy mạnh
các cách mạng khoa học và công nghệ sản xuất, tiến nhanh lên hiện đại hoá,
tăng cường chuyên môn hoá, nâng cao cường độ sử dụng các nguồn lực, chú
trọng chất lượng và sản phẩm dịch vụ…). Phát triển kinh tế theo chiều sâu là
nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế một cách bên vững.
Hiệu quả kinh tế biểu hiện tính hữu hiệu về kinh tế của việc sử dụng
các loại vật tư, lao động, tiền vốn…trong sản xuất kinh doang, nó chỉ ra mối
quan hệ giữa các lợi ích kinh tế mang lại với chi phí bằng tiền trong mỗi kỳ
kinh doanh. Lợi ích kinh tế càng lớn thì hiệu quả kinh doanh càng cao.
Vì vậy, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp được đánh giá thông qua
một số chỉ tiêu hiệu quả nhất định. Những chỉ tiêu hiệu quả này phụ thuộc
chặt chẽ vào mục tiêu hoạt động của chủ thể hiệu quả. Vì vậy, khi phân tích
hiệu quả các phương án cần xác định rõ chiến lược phát triển cũng như mục
tiêu cảu chủ thể trong từng giai đoạn phát triển. Cho đến nay các tác giả đều
nhất trí dùng lợi nhuận làm tiêu chuẩn cơ bản để phân tích hiệu quả sản xuất
kinh doanh.
Theo quan điểm kinh tế học thì hiệu quả kinh tế chỉ đạt được khi:
- Mọi giai đoạn sản xuất ở trên đường giới hạncủa năng lực sản xuất là có
hiệu quả vì nó tận dụng được hết các nguồn lực.
- Số lượng hàng hoá đạt được trên đường giới hạn của năng lực sản xuất
càng lớn thì hoạt động sản xuất kinh doanh càng có hiệu quả.
- Sự thoả mãn tối đa về số lượng, chất lượng và chủng loại hàng hoá theo

và hiệu quả phân phối thì khi đó sản xuất mới đạt hiệu quả kinh tế. Do đó,
nâng cao hiệu quả kinh tế là mục tiêu quan trọng nhất của các đợn vị sản
xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Đối với phạm vi đề tài này chúng tôi chủ yếu tập trung vào đánh giá
hiệu quả kinh tế của hoạt động chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ.
2.1.1.4. Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế.
Trên cơ sở kết quả đạt được và chi phí bỏ ra ta cí thể xác đinh được
hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế có thể được tính toán, thể hiện qua nhiều
tiêu chí khác nhau, tùy thuộc vào mục tiêu phân tích và kết quả tính toán.
6
Chẳng hạn với mục tiêu là sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội
thì dùng chỉ tiêu giá trị sản xuất. Hay với doanh nghiệp, trang trại phải thuê
nhân công thì phải dùng chỉ tiêu lợi nhuận, còn đối với nông hộ thì dùng chỉ
tiêu giá trị gia tăng hay thu nhập hỗn hợp.
Tùy vào hoàn cảnh, mục tiêu mà hiệu quả kinh tế có thể được tính toán,
phân tích theo các phương pháp khác nhau, nhưng phải tuân theo các nguyên
tắc sau:
- Nguyên tắc về sự thống nhất giữa mục tiêu và chỉ tiêu hiệu quả. Theo
nguyên tắc này thì chỉ tiêu đánh giá hiệu quả phải thống nhất với mục tiêu,
chỉ tiêu được đưa ra dựa trên cơ sở mục tiêu đánh giá hiệu quả.
- Nguyên tắc về sự thống nhất giữa các lợi ích. Một phương án được
xem là có hiệu quả nhất khi nó kết hợp hài hòa giữa các lợi ích kinh tế, xã
hội và môi trường.
- Nguyên tắc về tính chính xác khoa học. Đây là nguyên tắc cơ bản,
then chốt trong phân tích hiệu quả kinh tế. Nguyên tắc này đòi hỏi những
căn cứ tính toán hiệu quả kinh tế phải được xác định một cách chính xác,
khoa học, tránh chủ quan, tùy tiện.
- Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế. Nguyên tắc này đòi hỏi
việc tính toán hiệu quả kinh tế phải dựa trên những số liệu thực tế, đơn giản,
dễ tính toán, dễ hiểu.

2.1.2. Nông hộ và hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi ở nông hộ
2.1.2.1. Khái niệm và đặc trưng của nông hộ.
Hộ hay còn gọi là hộ gia đình là khái niệm dùng để chỉ hình thức tồn tại
của một nhóm xã hội lấy gia đình làm nền tảng. Hộ gia đình trước hết là một
tổ chức kinh tế có tính chất hành chính và địa lý (Phạm Địa Loãn, 1996).
Trong nông thôn, gia đình và hộ gia đình có mối quan hệ hữu cơ với
nhau, nhưng chúng không phải là một. Hộ gia đình là một nhóm các cá
nhân, chủ yếu chung nhau về kinh tế, cung nhau lao động sản xuất,c ùng
sinh sống trong một mái nhà, họ có thể cùng hoặc không cùng huyết thống.
Có trường hợp là hộ nhưng chưa phải là gia đình (hộ độc thân), cũng có khi
là gia đình nhưng chưa phải là một hộ (chưa hoặc không tách hộ khẩu khỏi
gia đình lớn). Ngày nay, trong cơ chế thị trường, tùy vào hoạt động sản xuất
kinh doanh mà hộ gia đình ở nông thôn được phân loại thành hộ thuần nông,
hộ hỗn hợp (kết hợp nông nghiệp và phi nông nghiệp), hộ phi nông nghiệp.
Nông hộ là hộ gia đình sống ở nông thôn, sống dựa vào nông nghiệp, là
đơn vị kinh tế xã hội chủ yếu ở nông thôn nước ta hiện nay. Về cơ bản, nông
hộ cóc các đặc trưng sau:
8
Hộ là một đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ. Trong nền kinh tế thị trường
hiện nay, hộ có quyền tự quyết định tấtc cả các hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình, cũng như quyết đinh việc quản lý, khai thác sử dụng các
nguồn lực của hộ như: Lao động, đất đai, vốn, tài nguyên….
Quyền sử dụng đất là một đặc trưng nổi bật của nông hộ, là đặc điểm
cơ bản để phân biệt nông hộ với những người lao động không có đất, hay
với dân cư thành thị. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt của nông hộ, là
nguồn tài nguyên bảo đảm cho cuộc sống lâu dài của hộ và là một bộ phận
hình thành nên vị thế và ảnh hướng của hộ trong cộng đồng làng xã.
Lao động trong nông hộ chủ yếu là lao động thuộc sở hữu của hộ (lao
động gia đình). Đa phần người lao động trong nông hộ là lao động phổ
thông, chưa qua đào tạo nghề, và lao động mang tính chất mùa vụ. Tình

hoạt động chăn nuôi tạo ra được trong một thời kỳ nhất định (thường là 1
năm). Giá trị sản xuất lợn thịt trong một năm là toàn bộ sản phẩm từ chăn
nuôi lợn thịt tạo ra trong năm đó.
Giá trị gia tăng (VA): Là toàn bộ kết quả cuối cùng của hoạt động chăn
nuôi trong một thời kỳ (1 năm): VA = GO - IC.
Trong đó IC là chi phí trung gian, bao gồm:
Chi phí vật chất: Gồm chi phí nguyên vật liệu chính, công cụ rẻ tiền
hàng năm, sửa chữa tài sản cố định thường xuyên, thiệt hại tài sản lưu động,
và các chi phí vật chất khác
Chi phí dịch vụ, bao gồm: Dịch vụ thú y, tập huấn kỹ thuật, nghiên cứu,
thử nghiệm, áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới…và các chi phí dịch vụ khác.
Thu nhập hỗn hợp (MI): Là 1 bộ phận của giá trị gia tăng sau khi đã trừ đi
thuế nông nghiệp. Đây là thành phần thu nhập thuần túy bao gồm công lao
động của nông hộ. MI = VA - C1 – T. Trong đó VA - C1 là giá trị gia tăng,
C1 là chi phí khấu hao tài sản cố định. T là thuế nông nghiệp.
Trên cơ sở so sánh các yếu tố đầu vào với đầu ra, xem xét trên khía
cạnh hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn thịt ở nông hộ, chúng tôi áp dụng
các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt như sau:
Thu nhập hỗn hợp (MI) là toàn bộ thu nhập hỗn hợp từ chăn nuôi lợn thịt
trong năm. Nghiên cứu (2007).
Thu nhập trên nhân khẩu: là chỉ tiêu đánh giá xem mỗi nhân khẩu có
được bao nhiêu thu nhập từ chăn nuôi lợn thịt trong năm nghiên cứu.
Thu nhập/nhân khẩu = MI/Số nhân khẩu của hộ.
10
Thu nhập trên chi phí: Là chỉ tiêu đánh giá xem mỗi đồng chi phí đầu
tư cho chăn nuôi lợn thịt trong một năm mang lại bao nhiêu đồng thu nhập.
Thu nhập/chi phí = MI/TC. (TC là tổng chi phí, gồm chi phí trung gian,
chi phí khấu hao tài sản cố định và thuế nông nghiệp)
Thu nhập trên tháng nuôi: Là chỉ tiêu đánh giá xem trong một tháng,
mỗi con lợn cho thu nhập là bao nhiêu.

lớn ( 2,2 triệu tấn thịt). chăn nuôi cung cấp nguồn protein động vật, là nguồn
thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, cân đối các axit amin vô cùng quan
trọng trong khẩu phần ăn của con người. Protein thịt có đầy đủ các loại axit
amin không thể thay thế.
Bảng 1: Thành phần dinh dưỡng của thịt lợn
Loại gia
súc
% thịt xẻ Tỷ lệ % E
(kcal/kg)
Nước Lipid Protein Khoáng
Lợn 42,5 60,9 21.5 16.5 1.1 268
[nguồn: John wile & sins, 1997].
Thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển: Các sản phẩm chăn nuôi, phần
lớn đều là nguyên liệu của công nghiệp chế biến thực phẩm, công chế biến
thức ăn gia súc, cung cấp nguồn hang xuất khẩu. Ngoài nhiệm vụ cung cấp
nguyên liệu, ngành chăn nuôi còn tiêu thụ các phụ phế phẩm của ngành công
nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp chế biến thủy sản Do đó, nó góp
phẩn giảm giá thành sản phẩm và thúc đẩy công nghiệp phát triển, bảo vệ
môi trường.
2.3. Đặc điểm của ngành chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ.
2.3.1. Quy mô chăn nuôi nhỏ chủ yếu là chăn nuôi tận dụng.
Đây là đặc điểm nổi bật của ngành chăn nuôi lợn Việt Nam. Nhìn
chung quy mô chăn nuôi của hộ còn rất nhỏ, chủ yếu là chăn nuôi tận dụng.
chăn nuôi công nghiệp mặc dù đang có su thế phát triển mạnh nhưng còn
chiếm tỷ trọng thấp.
Hiện nay, trang trại chăn nuôi với quy mô tương đối lớn, từ 50-60 con
đang phát triển mạnh. Đây là nhữngtrang trại chăn nuôi theo hướng công
nghiệp, áp dụng giống mới (giống lai, giống ngoại), kỹ thuật tiên tiến. Sản
12
lượng thịt sản xuất tại các trại chăn nuôi chỉ chiếm 10 % sản lượng thịt toàn

13
Nhìn chung năng suất chăn nuôi của Việt Nam còn rất thấp so với các
nước trên thế giới. đây là mô hình chăn nuôi tận dụng, tỷ lệ áp dụng tiến bộ
kỹ thuật còn hạn chế.
Hiện nay, trọng lượng xuất chuồng trung bình của VIệt Nam chỉ đạt 70-
80 kg hơi (trong thời gian nuôi 8 tháng), nhưng cut thế giới đã lên đến 100-
120 kg (trong thời gian nuôi 6,5 tháng). Trong 10 năm qua snả lượng thịt
chăn nuôi ở Việt Nam tăng khá nhanh nhưng chủ yếu là do tăng quy mô đàn
chứ không phải do tăng năng suất.[7]
2.3.5. Giá thịt cao và không ổn định.
Giá thịt nước ta còn khá cao, không thể cạnh tranh với các thị trường
trên thế giới. Giá thịt nạc Việt Nam cao gấp 1,3=1,6 lần giá thị trường tại
Chicago. Tiềm năng xuất khẩu thịt của Việt Nam yếu kém cả về giá và chất
lượng.
Bên cạnh đó giá thịt VIệt nam biến động mạnh, điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến tình hình chung và thu nhập của người chăn nuôi. Nhiều thời
điểm giá thịt lợn xuống thấp hơn mức giá thành sản xuất, chi khoảng 600-
7000 đ/kg. Người chăn nuôi bị lỗ nặng.[7]
2.3.6. Giá thành chăn nuôi Việt Nam còn cao.
Thức ăn gia súc chiếm tỷ trọng cao nhất trong tất cả các loại chi phí
trong sản xuất chăn nuôi. Ở nước ta hiện nay, tỷ trọng này chiếm khởng 70-
77% tổng chi phí chăn nuôi, trong khi đó chi phí giống chiếm từ 18-25% và
chi phí lao động chỉ chiếm khoảng 2-5%. Chính vì thế việc thăng giảm giá
thức ăn ảnh hưởng lớn tời chi phí sản xuất chăn nuôi.[7]
Giá thức ăn gia súc ở Việt Nam là cao so giá cảu các loại tương ứng ở
các nước châu Á khác. Giá thức ăn cao một phần là do giá các loại nguyên
liệu thô cao. Nguyên nhân nữa làm cho giá thức ăn cao ở Việt Nam là di
thuế nhập khẩu áo dụng cho các nguyên liệu thô giàu dinh dưỡng phục vụ
cho chăn nuô cao. Thêm vào đó tổng sản lượng sản xuất trong nước của các
nguyên liệu này dường như không đáp ứng đủ nhu cầu của ngành công

Lợn là động vật phàm ăn, có khả năng chịu đựng kham khổ cao. Lợn có
bộ máy ti êu hoá tốt, có khả năng tiêu hóa thức ăn cao. Do đó lợn có thể sử
dụng nhiều loại thức ăn khác nhau như thức ăn tinh, thức ăn thô, rau các
loại Nguồn thức ăn của lợn rất đa dạng phong phú, có thể tận dụng các phụ
phế phẩm của ngành trồng trọt, ngành công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ
15
sản, lượng thực thực phẩm Khả năng tiêu hoá tốt nên tiêu tốn ít thức ăn cho
1kg tăng trọng. Do vậy, lợn rất phù hợp trong chăn nuôi ở nông hộ.
Lợn cái có khả năng sinh sản cao, tại tạo sản xuất đàn nhanh nên lợn
hơn hẳn các loại gia súc khác về khả năng tái sản xuất. Lợn là loài động vật
đa thai, bình quân lợn đẻ mỗi năm 1,6-2 lứa, mỗi lứa 8-12 con.
Lợn dễ bị bệnh, độ rủi ro cao do khí hậu thời tiết thất thường, thiên tai,
bão lũ, hạn hán ảnh hưởng đến khả năng sản xuất của lợn. Mặc khác, giá cả
đầu vào, đầu ra luôn biến đổi mạnh do cạnh tranh thị trường và cung cầu thị
trường.
Sản xuất hàng hoá lượng thức ăn công nghiệp cao đòi hỏi nguồn vốn
lớn. đặc biệt là vốn cố dịnh để xây dựng chuồng trại. Vốn ở đầu mỗi chu kỳ
sản xuất là rất cần thiết. khi sản xuất thâm canh chu kỳ sản xuất ngắn nên
thu hồi vốn nhan, hiệu quả vốn cao hơn so với các loại gia súc khác.
Nhiều loại giống ngoại nhập gia thành cao, thiếu chủ động trong việc
áp dụng.
Nhìn chung vơi lợn thịt, chuồng trại cần thoáng mát có mật độ thích
hợp, lợn phải được tiêm phòng đầy đủn trước khi đưa vào nuôi thịt, nếu
không phải tiêm bổ sung để bảo vệ đàn an toàn khỏ dịch bệnh. Lợn thịt có sự
thay đổi khá nhanh về trọng lượng do đó nhu cầu dinh dưỡng thức ăn cần
thay đổi cân đối cho phù hợp với từng giai đoạn. Cũng như các sản phẩm
nông nghiệp khác, lợn thịt còn khó khăn về vấn đề đầu ra. Muốn phát triển
chăn nuôi lợn cần phát triển đồng bộ hệ thống thu mua, bảo quản, và chế
biến sản phẩm xuất khẩu
2.5. Các vấn đề cần chú ý và tình hình nghiên cứu nâng cao hiệu quả

học để có những kết luận khoa học mói, đón trước những yêu cầu sản xuất,
mặt khác triển khai những kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất, nhằm tăng khối
lợng và chất lượng sản phẩm chăn nuôi, đáp ứng nhu cầu thịt trứng, sữa
ngày một tăng của đời sống xã hội.
Từ những kết quả nghiên cứu và triển khai ký thuật tiến bộ vào sản
xuất, ta đã tổng kết 10 năm (1981) công nhận giống lợn trắng DBI ở miền
Bắc (1981), giống lợn trắng Phú Khánh ở duyên hải miền trung (1988),
giống Thuộc Nhiêu ở miền Nam (1990), công nhận lợn Yocsia Việt nam
(1990) cùn với giải pháp dùng lợn cái Móng Cái làm nài nền trong Lai kinh
tế lợn, thay thế lợn cỏ từ Nghệ An đến Quảng Nam-Đà Nẵng đã hình thành
hệ thống lợn phù hợp với điều kiện sinhthái sản xuất của mỗi vùng từ đồng
17
bằng sông hồng, dọc tuyến quốc lộ một, đến đồng bằng Sông Cửu Long.
Lợn lai kinh tế được nuôi rộng rãi trong cả nước. Tỷ lệ lợn lai trong từ 20%
năm 1981 lên 40% năm 1985 rồi 54,1% năm 1990 và 78,5% năm 1998, đưa
khối lượng lợn hơi xuât chuồng từ 47 kg lên 62 kg, rồi 67 kg và 70 kg; công
nhận một oạt vắc xin đưa vào phòng chống dịch tả ở lợn [14]
Những năm đầu thậpniên 1990, điểm nổi bật của khoa học công nghệ là
công nhận một số giống lợn ngoại nhập đã thích nghi: Lợn Yocsia, lợn
Landrat, đặc biệt là xác định mọtt số công thức lai kinh tế lợn nội với lợn
ngoại có ba giống tham gia phù hợp vói miền Bắc, miền Trung và lai kinh tế
có 3-4 máu thích hợp cho các tỉnh miền Nam, đưa tỷ lệ thịt nạc, thịt thân xẻ
đạt tương ứng là 47-49% và 56-58%, đáp ứng nhu cầu tiệu thụ thịt nạc và
xuất khẩu.
Từ những nghiên cứu trên, ta thấy rằng để chăn nuôi lợn phát triển, có
hiệu quả cao điều nhất thiết cẩn phải có đó là con giống tốt cho năng suất
chất lượng cao, thứ hai là phải có nguồn thức ăn đảm bảo dinh dưỡng và
đúng khẩu phần, người chăn nuôi phải có kỹ thuật chăn nuôi phù hợp. Tuy
nhiên vơi những nghiên cứu này ta cũng thấy nhà nước thiếu hẳn một phần
rất đáng quan tâm và không thể thiếu nếu muốn chăn nuôi có hiệu qủa đó là

vực này sản xuất giảm mạnh do lợi nhuận của thương lái (chi phí thu gom,
vận chuyển, kiểm dịch và chất lượng). Thị trương tiêu thụ sản phẩm từ hộ
chăn nuôi nhỏ chủ yếu là tại chỗ. Mỗi khi kinh tế hộ chưa phát triển thì chăn
nhuôi nhỏ vẫn là nguồn cung cấp thực phẩm chính cho người dân. Gia nhập
WTO sẽ tạo cơ hội lớn về việc làm, thu hút một lượng lớn lao động lớn khỏi
khu vực nông thôn sẽ làm giảm đáng kể nhu cầu thực phẩm tiêu thụ tại chỗ,
đồng thời cũng làm giảm số hộ chăn nuôi theo phương thức tận dụng do
giảm cơ học về mặt dân số.
Chăn nuôi công nghiệp bằng các giống cao sản là nguồn cung cấp thực
phẩm quan trọng cho các thành phố lớn hiện nay và người tiêu dùng cả nước
trong tương lai. Khả năng phát triển và chuyển dịch lợn theo hướng chăn
nuôi công nghiệp ở nước ta trước mắt phụ thuộc rất lớn và thị trường các
thành phố lớn và có thể đây là thị trường cạnh tranh khốc liệt sau gia nhập
WTO. Trong đó chúng ta đang gặ phải hai vấn đề bất lợi chính là giá cả và
vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là dịch lở mồm long móng và hoocmon
kích thích sinh trưởng trong chăn nuôi. Để vững thị trường, tạo đà cho qua
19
trình chuyển sang chăn nuôi công nghiệp bền vững cần phải có nỗ lực mạnh
mẽ của cả người chăn nuôi và các nhà quản lý nhà nước.
Những năm gần đây, ngành chăn nuôi nước ta có tốc độ tăng trưởng
tương đối cao, bình quân đạt 7-8% mỗi năm. Bện cạnh phương thức chăn
nuôi truyển thống thì chăn nuôi trang trại đã hình thành và có xu hướng ngày
càng phát triển. Tuy nhiên, ở lĩnh vực này đặt nhiều vân đề cần có những
giải pháp đồng bộ để phát triển bền vững. Có thể khẳng định việc phát triển
chăn nuôi trạng trại tập trung là xu thế tất yếu của ngành chăn nuôi lợn Việt
Nam khi gia nhập WTO, cũng là đòi hỏi cấp bách khi diễn biến dịch lở mồm
long móng đang diễn biến phức tạp. Việc tổ chức chăn nuôi trang trại với
quy mô lớn, tập trung sẽ tạo điều kiện tăng năng suất, cải tiến chất lượng,
đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, giảm giá thành sản xuất, nâng cao khả
năng phong chống dịch bệnh, đảm bảo vệ sinh môi trường. Vì thế hơn luc

tăng
(%)
Sản lượng
thịt hơi
(tấn)
Mức độ
biến động
(tấn)
Tốc độ
tăng
(%)
2000 203.237 - 0.00 14.477 - 0.00
2001 244.408 41.171 20.26 18.808 4.331 22.92
2002 245.121 713 2.92 19.058 250 1.33
2003 252.292 7.171 2.86 19.377 219 1.67
2004 259.570 7.278 2.88 20.229 852 4.40
2005 264.787 5.217 2.01 20.976 738 3.65
[Nguồn:10]
Theo bảng thống kê 2 ta thấy số lượng đàn lợn trong tỉnh qua các năm có
tăng song chậm. Giai đoạn năm 2000-2001 tốc độ tăng trưởng đàn lợn rất
nhanh vào năm này được các chính sách hỗ trợ xoá đói giảm nghèo của tỉnh
cũng như của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ chú trọng hơn vào
công tác phát triển chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi gia súc nhỏ. Tuy nhiên,
hệ thống thú y và quan trọng là thù y địa phương chưa phát triển vào giai
đoạn 2001-2002 tốc độ tăng trưởng đàn lợn chậm lại thậm chí giảm xuống,
nguyên nhân là do ảnh hưởng của dịch lở mồm long móng. đợt dịch này đã
ảnh hưỏng nghiêm trọng đến ngành chăn nuôi nước ta nói chung và ngành
chăn nuôi lợn Thừa Thiên Huế nói riêng. Những năm gần đây, công tác
phòng chống dịch và kiểm dịch được tăng cường nên chăn nuôi lợn của tỉnh
phát triển khá ổn định (tốc độ tăng trưởng bình quân 2,01-2.92%).

tiêu tốn để tăng trọng 1kg là 2,78kg. lãi bình quân mỗi con là 228.000đ, hộ
lãi cao nhất: 300.000đ, hộ lãi thấp nhất: 174.000đ. [11]
22
Phần 3
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Nội dung nghiên cứu:
1) Thực trạng chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ của xã Hương Toàn, huyện
Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế (cơ cấu đàn, quy mô, phương thức nuôi,
nguồn thức ăn, thú y…).
2) Hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ điều tra chia theo
nhóm hộ và theo phương thức nuôi (chi phí sản xuất, hiệu quả chăn nuôi…)
3) Đánh giá mối quan hệ sản lượng chăn nuôi với các yếu tố đầu vào
cho chăn nuôi (giống, thức ăn, thú y…)
4) Đề xuất những giải pháp phù hợp để phát triển chăn nuôi lợn thịt tại
nông hộ.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Đối tượng và địa điểm nghiên cứu
1) Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là các hộ chăn nuôi lợn thịt tại xã
Hương Toàn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2) Địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ 2/1/2008 đến 5/5/2008
- Không gian nghiên cứu: Địa điểm nghiên cứu được thực hiên tại xã
Hương Toàn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.2.2. Thu thập số liệu thứ cấp
- Báo cáo về tình hình phát triển chăn nuôi hằng năm của cả nước, tỉnh thừa
thiên huế, xã Hương Toàn, huyện Hương Trà.
- Các tài liệu thống kê, niêm giám thống kê từ các cơ quan lien quan
- Các báo cáo khoa học
3.2.3. Thu thập số liệu sơ cấp.

phẳng, đều được cấu tạo trầm tích trẻ gồm chủ yếu là phù sa được bồi đắp,
thành phần cơ giới thịt trung bình, tầng đất canh tác thương dày trên 10cm,
rất thuận lợi cho lúa và rau màu phát triển.
4.1.1.3 .Khí hậu
Khí hậu thời tiết của xã cũng mang tính chất chung thời tiết của huyện
Hương Trà, bên cạnh đó cũng mang những đặc điểm riêng của khí hậu vùng
đồng bằng.
Chế độ thuỷ nhiệt: nhiệt độ trung bình hằng năm là 25,0 độ C, nhiệt độ
cao nhất là 40 độ C, thấp nhất là 10,5 độ C. Tổng tích nhiệt hằng năm là
9150 độ C, số giờ nắng trung bình hằng năm là 2952 giờ.
Chế độ mưa: lượng mưa phân bố không đuề trong nă,tập trung mưa bắt
đầu từ tháng 8 và kết thúc vào cuối tháng 12 hàng năm. Lượng mưa tập
trung cao nhất từ tháng 9 đến tháng 11 hàng năm, vào những tháng này
thường xảy ra lũ lụt và lượng mưa giai đoạn này chiếm 70-75% lượng mưa
25

Trích đoạn Tình hình kinh tế xã hội Hiệu quả chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ điều tra
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status