đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ ở xã quảng lợi, huyện quảng điền, tỉnh thừa thiên huế - Pdf 13

Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xa xưa trồng lúa và nuôi lợn đã được nông dân coi như một nghề gắn bó với
nhau như hình với bóng. Con lợn ngày nay không chỉ cung cấp 70 - 80% [13] sản lượng
thịt nói chung cho hơn 80 triệu dân trong nước mà còn tham gia xuất khẩu mỗi năm hàng
ngàn tấn. Con lợn còn cung cấp một lượng phân chuồng đáng kể cho cây trồng nhất là
lúa. Phân lợn còn làm thức ăn cho cá. Nhiều người giàu lên nhờ nuôi lợn.
Những năm gần đây đàn lợn ở nước ta ngày một phát triển, cả về số lượng và chất
lượng nhờ áp dụng các tiến bộ kỹ thuật ở trong nước cũng như trên thế giới, năng suất
nuôi lợn năm sau cao hơn năm trước. Khối lượng lợn xuất chuồng bình quân đạt
50,9kg/con năm 1981 tăng lên 70kg/con năm 1993. Đàn lợn cả nước cũng tăng rất nhanh:
từ 10 triệu con năm 1980 đã vượt lên 22 triệu con năm 2000. Sản lượng thịt cũng tăng từ
287 ngàn tấn (1980) lên 1,42 triệu tấn năm 2000. [13]
Xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế, là một vùng rất có tiềm năng
cho phát triển chăn nuôi đặc biệt là chăn nuôi trâu, bò, lợn và gia cầm. Tuy nhiên chăn
nuôi trâu, bò rất khó có thể nhân rộng trong nông hộ nhất là hộ nghèo vì vốn đầu tư ban
đầu cho chăn nuôi là rất lớn đồng thời khả năng quay vòng vốn lại khá lâu (thời gian nuôi
một con bê đến khi bán được phải từ 2 năm trở lên). Còn đối với gia cầm tuy đầu tư vốn
ít và tận dụng được diện tích vườn nhà nhưng lợi nhuận lại thấp đặc biệt với dịch cúm gia
cầm đang lan tràn hiện nay dẫn đến rủi ro rất lớn cho người chăn nuôi. Vì vậy, lợn vẫn là
vật nuôi có tiềm năng phát triển nhất ở xã.
Trong những năm gần đây, để đáp ứng và góp phần tích cực đưa chăn nuôi trở
thành ngành sản xuất hàng hóa, trong đó chăn nuôi lợn giữ vai trò chủ đạo có nhiều hộ
trong xã đã phát triển chăn nuôi lợn thịt theo hướng đầu tư cao và bước đầu đã có kết quả
khả quan. Tuy nhiên, xã Quảng Lợi lại là một xã có nền chăn nuôi nhỏ lẻ, chăn nuôi theo
quy mô trang trại, gia trại chưa phát triển mặc dù trong thời gian gần đây xã đã có nhiều
chính sách phát triển. Nhưng chăn nuôi lợn có thực sự mang lại hiệu quả và mang lại hiệu
quả như thế nào cho hộ chăn nuôi thì xã chưa hề có một báo cáo cụ thể nào về vấn đề
này. Vì vậy để có một cái nhìn cụ thể và chính xác hơn về hiệu quả kinh tế của các hộ
1

phí bỏ ra thì càng có lợi.
Đối với các phương án hành động khác nhau hiệu quả chính là chỉ tiêu để phân
tích, đánh giá, lựa chọn chúng.
Hiệu quả được biểu hiện theo nhiều góc độ khác nhau vì vậy hình thành nhiều
khái niệm khác nhau: Hiệu quả tổng hợp, hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi
trường, hiệu quả tuyệt đối, hiệu quả tương đối…
2.1.2. Hiệu quả kinh tế
Sản xuất là một hoạt động có mục đích của con người, tác động lên các đối tượng
lao động thông qua công cụ lao động nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu của
mình và cho xã hội. Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì các nhà
sản xuất, doanh nghiệp, người tiêu dùng và toàn xã hội có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với
nhau. Cho nên kết quả kinh tế là một vấn đề không những được bản thân nhà sản xuất,
doanh nghiệp quan tâm mà còn là vấn đề của toàn xã hội. Hiệu quả kinh tế là một phạm
trù kinh tế phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế, là thước đo trình độ quản lý và trình độ
tổ chức của các doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển, yêu cầu bắt buộc của các nhà sản
xuất và doanh nghiệp là phải kinh doanh có hiệu quả, có như vậy các nhà sản xuất, doanh
nghiệp mới có điều kiện tái sản xuất mở rộng, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ mới vào sản xuất. GSTS Ngô Đình Giao cho rằng: “Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn
cao nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của nhà nước”.[4] TS Nguyễn Tiến Mạnh lại cho rằng: “Hiệu quả kinh tế là
3
phạm trù khách quan phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã
xác định”.
Vì vậy ta có thể hiểu rằng: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập
trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực
và trình độ, chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu
đề ra.
Nền kinh tế của mỗi quốc gia đều được phát triển theo hai chiều: Phát triển kinh tế
theo chiều rộng (huy động mọi nguồn lực vào sản xuất, tăng thêm vốn, bổ sung lao động
và kỹ thuật, mở mang thêm nhiều ngành nghề, xây dựng thêm nhiều xí nghiệp…), phát

gặp nhiều khó khăn do những tư liệu sản xuất tham gia vào nhiều quá trình sản xuất hoặc
những yếu tố phi vật chất: Công nghệ, chính sách, môi trường mà trong khi yêu cầu đánh
giá hoạt động kinh tế đòi hỏi phải toàn diện. Bản chất của hiệu quả kinh tế là mối tương
quan so sánh tương đối và tuyệt đối giữa lượng kết quả thu được và lượng chi phí bỏ ra.
Ở đây ta cần xác định rõ 2 khái niệm: Hiệu quả và kết quả.
Hiệu quả là đại lượng vật chất được tạo ra có mục đích của con người. Có rất
nhiều các chỉ tiêu, các nội dung để đánh giá kết quả. Điều quan trọng là khi đánh giá kết
quả của một hoạt động sản xuất, kinh doanh ta cần xem xét kết quả đó được tạo ra như
thế nào và mất chi phí bao nhiêu. Việc đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc đánh giá kết quả đạt được mà còn đánh giá chất
lượng của hoạt động đó. Đánh giá chất lượng đạt được của hoạt động sản xuất kinh
doanh chính là đánh giá hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh đó.
Trên bình diện toàn xã hội, các chi phí bỏ ra để đạt một kết quả nào đó chính là
hao phí lao động xã hội. Cho nên thước đo của hoạt động là mức độ tối đa hóa trên đơn vị
hao phí lao động xã hội tối thiểu. Nói cách khác, hiệu quả là sự tiết kiệm tối đa các nguồn
lực đạt được cả chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế và hiệu quả phân phối thì khi đó sản xuất mới
đạt hiệu quả kinh tế. Do đó, nâng cao hiệu quả kinh tế là mục tiêu quan trọng nhất của
các đơn vị sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Đối với phạm vi đề tài này chúng tôi chủ yếu tập trung vào đánh giá hiệu quả kinh
tế của hoạt động chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ.
5
2.1.3. Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế được đo lường bằng sự so sánh giữa kết quả sản xuất kinh doanh
với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Vì vậy để xác định hiệu quả kinh tế ta cần chú ý
đến các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả: Theo nguyên tắc
này tiêu chuẩn hiệu quả được định ra trên cơ sở mục tiêu.
Phân tích hiệu quả của một phương án luôn dựa trên phân tích mục tiêu. Phương
án có hiệu quả cao nhất khi nó đóng góp nhiều nhất cho việc thực hiện các mục tiêu đặt
ra với chi phí thấp nhất.

b
: Hiệu quả cận biên
ΔQ: Lượng kết quả tăng thêm
ΔC: Chi phí hoặc các yếu tố đầu vào tăng thêm
- Dạng nghịch: Để tăng thêm một đơn vị kết quả thì cần tăng thêm bao nhiêu đơn
vị chi phí.
H = C/Q ; h
b
= ΔC/ ΔQ
Trong đó:
H: Hiệu quả
Q: Lượng kết quả đạt được
C: Chi phí hoặc các yếu tố đầu vào
ΔQ: Lượng kết quả tăng thêm
ΔC: Chi phí hoặc các yếu tố đầu vào tăng thêm
- Hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa phần trăm tăng lên của kết quả thu
được và phần trăm tăng lên của chi phí bỏ ra. Nghĩa là nếu tăng thêm 1% chi phí sẽ tăng
thêm bao nhiêu phần trăm kết quả đầu ra.
H = % ΔC/ %ΔQ
Như vậy các chỉ tiêu hiệu quả được tính toán trên cơ sở xác định được các yếu tố
đầu vào và các yếu tố đầu ra.
7
Tuy nhiên mỗi cách tính, mỗi quan điểm đều có những hạn chế nhất định, chưa
phản ánh hết các khía cạnh của hiệu quả kinh tế.
Nếu hiệu quả kinh tế gắn liền với lợi nhuận thuần túy thí hiệu quả kinh tế chưa
phản ánh được năng suất lao động xã hội, chưa thấy được sự khác nhau về quy mô đầu
tư, cũng như quy mô kết quả thu được trong các đơn vị sản xuất có kết quả và chi phí như
nhau.
Nếu hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả và chi phí sản xuất thì
cũng chưa hoàn toàn đầy đủ vì kết quả là sự tác động của nhiều yếu tố: Tự nhiên, kinh tế,

dù đang có xu thế phát triển mạnh nhưng còn chiếm tỷ trọng rất thấp.
Hiện nay, trang trại chăn nuôi với quy mô tương đối lớn, từ 50 - 60 con đang phát
triển mạnh. Đây là những trạng trại chăn nuôi theo kiểu công nghiệp, áp dụng giống tiên
tiến (giống lai, giống ngoại). Sản lượng thịt sản xuất tại các trang trại chăn nuôi chỉ chiếm
10% sản lượng thịt toàn quốc, chủ yếu vẫn là các hộ chăn nuôi nhỏ.
Do chăn nuôi nhỏ, các hộ gia đình chủ yếu tận dụng thức ăn thừa, thức ăn xanh và
thức ăn thô là chủ yếu. Tỷ lệ các hộ sử dụng thức ăn công nghiệp chất lượng cao cho
chăn nuôi còn thấp và chủ yếu là cho giống lai/ngoại. Do quy mô sản xuất chưa lớn, chăn
nuôi công nghiệp còn phát triển ở mức độ thấp nên hầu hết các hộ gia đình và trang trại
chăn nuôi sử dụng lao động gia đình là chủ yếu. Theo điều tra của IFPRI- Bộ No &
PTNT có tới trên 92% hộ chỉ sử dụng lao động gia đình cho hoạt động chăn nuôi. Các hộ
chăn nuôi có quy mô lớn thì tỷ lệ này thấp hơn khoảng 66%.[8]
2.3.2. Mức độ phổ biến giống ngoại còn thấp
Theo điều tra của IFPRI và Bộ No & PTNT năm 1999, khoảng 75% số hộ sản xuất
lợn có nuôi lai hoặc lợn ngoại. Tỷ lệ này dao động từ 69% ở các hộ sản xuất quy mô nhỏ
đến 90% các hộ quy mô lớn. Việc nuôi lợn ngoại phụ thuộc vào quy mô sản xuất và vùng
lãnh thổ. Chỉ có khoảng 10% số hộ nuôi quy mô nhỏ có lợn ngoại, trong khi đó hơn 55%
số hộ quy mô lớn có nuôi lợn ngoại.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức độ phổ biến của các giống vật nuôi nhập
nội không phù hợp với điều kiện chăn nuôi ở các hộ chăn nuôi sản xuất nhỏ. Các hộ sản
xuất quy mô nhỏ thường sử dụng các loại thức ăn thô (55,5%), xanh (42%), có bổ sung
thêm thức ăn tinh trong khẩu phần (2,4%).[8]
9
2.3.3. Hộ chăn nuôi còn thiếu thông tin
Do sản xuất chăn nuôi còn manh mún, phân tán. Chưa có thị trường buôn bán thực
thụ và thị trường đấu giá cho sản phẩm chăn nuôi nên hộ gia đình chủ yếu phải bán các
sản phẩm cho thương lái và các chủ thu gom trung gian, dễ bị ép giá. Bên cạnh đó thông
tin đại chúng chưa cung cấp tốt các thông tin về thị trường cho người sản xuất, trên 80%
nguồn thông tin chủ yếu của người chăn nuôi về giá cả, thị trường do các thương lái cung
cấp và liên lạc cá nhân, không tránh khỏi thông tin bị bóp méo.

Nước ta có một mạng lưới thú y từ trung ương đến địa phương. Mặc dù mạng lưới
thú y được quan tâm phát triển nhưng số lượng nhân viên thú y vẫn còn rất thiếu, đặc biệt
ở các cấp huyện và xã. Tại các xã cũng có các nhân viên thú y, tuy nhiên trình độ còn rất
hạn chế chưa đáp ứng đủ nhu cầu kiểm tra, chữa bệnh, thời gian qua dịch bệnh lan rộng
ảnh hưởng mạnh tới hiệu quả chăn nuôi. Hơn thế nữa loại hình chăn nuôi quy mô nhỏ
vẫn tồn tại ở Việt Nam, hiện chiếm đến 90% số gia súc, gia cầm trên cả nước, tính
chuyên môn hóa chưa cao hầu hết các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ nên việc phòng dịch sẽ
rất khó khăn. Hiện nay, trên thị trường thuốc thú y rất đa dạng, được cung cấp bởi nhiều
nhà sản xuất khác nhau. Việc quản lí và kiểm soát thuốc thú y hiện nay rất khó. Chính vì
vậy trên thị trường hiện nay vẫn xuất hiện nhiều loại thuốc giả, thuốc kém chất lượng,
thuốc nhập lậu.[19]
2.4. Đặc tính kinh tế kỹ thuật của chăn nuôi lợn thịt
Thịt lợn là sản phẩm chính của chăn nuôi lợn, vì vậy chăn nuôi lợn thịt cũng là
phần quan trọng nhất của ngành chăn nuôi lợn. Nhu cầu về lợn thịt nạc ngày càng tăng và
chênh lệch giữa giá thịt nạc và thịt mỡ đang lớn dần.Trình độ khoa học kỹ thuật cũng như
khả năng đầu tư vào ngành chăn nuôi lợn ngày càng tăng cao. Vì vậy, để chăn nuôi lợn
thịt đạt hiệu quả kinh tế cao, cần phải chọn giống lợn để nuôi thịt: Giống ngoại thuần,
ngoại lai, lai kinh tế có tỷ lệ máu ngoại cao (F2), lợn lai F1. Tuy nhiên chọn lợn nào để
nuôi phụ thuộc vào điều kiện chăn nuôi của hộ gia đình hay cơ sở chăn nuôi, phụ thuộc
vào thị trường. Để phục vụ xuất khẩu phải nuôi lợn ngoại thuần, lợn ngoại lai và lợn có tỷ
lệ máu ngoại cao, thị trường nội địa có thể nuôi lợn lai kinh tế.
11
Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của chăn nuôi lợn
- Lợn là động vật phàm ăn, có khả năng chịu đựng kham khổ cao. Lợn có bộ máy
tiêu hóa tốt, có khả năng tiêu hóa thức ăn cao, do đó lợn có thể sử dụng nhiều loại thức ăn
khác nhau (tinh bột, thô, xanh, rau bèo, củ quả…). Nguồn thức ăn chăn nuôi lợn rất
phong phú, có thể tận dụng các phụ phế phẩm của ngành trồng trọt, của công nghiệp chế
biến thực phẩm. Khả năng tiêu hóa thức ăn của lợn cao nên tiêu tốn ít thức ăn cho 1kg
tăng trọng. Do vậy, lợn rất phù hợp cho chăn nuôi trong các hộ gia đình.
- Lợn cái khả năng sinh sản cao, tái sản xuất đàn nhanh nên lợn hơn hẳn các gia

Nam ngày 5/4/1988 thúc đẩy chế độ “khoán” kết hợp với chính sách khuyến khích nông
dân làm giàu chính đáng bằng phát triển kinh tế gia đình để thúc đẩy chăn nuôi phát triển.
Do đó, đàn lợn thịt tăng không đáng kể trong thời kì 1976 - 1980 do những khó khăn về
cơ chế hành chính bao cấp, chuyển sang cơ chế kinh tế nhiều thành phần đã tăng với tốc
độ cao trong kế hoạch 1981 - 1985. Đàn lợn tăng 2,5% vào cuối những năm 80, có năm
xuất khẩu khoảng 8.000 - 10.000 tấn thịt lợn thành phẩm. Trong thời kì này, một số giống
ngoại vẫn tiếp tục được nhập như Đại Bạch Liên Xô, Yocsia Cuba, Yocsia Bỉ, Yocsia
Nhật…[14]
Cùng với sự chăn nuôi, công tác khoa học – công nghệ chăn nuôi cũng được đổi
mới. Bắt đầu từ năm 1981, công tác này được triển khai theo chương trình khoa học và
công nghệ có mục tiêu cấp Nhà nước: Chương trình 02.03 về phát triển chăn nuôi lợn,
chương trình 02.09 về phát triển nguồn và chất lượng thức ăn chăn nuôi giai đoạn 1981 -
1985; chương trình 02B về nghiên cứu ứng dụng và biện pháp tổng hợp phát triển và
nâng cao năng suất chăn nuôi giai đoạn 1986 - 1990; chương trình KN-02 về phát triển
chăn nuôi giai đoạn 1991 - 1995; chương trình KHCN 08.06 về nghiên cứu phát triển
chăn nuôi lợn có tỷ lệ nạc trên 52%.[14]
Hoạt động khoa học công nghệ theo chương trình đã huy động và tập hợp được
đông đảo cán bộ khoa học và kỹ thuật ở các cơ quan nghiên cứu khoa học để có những
kết luận khoa học mới, đón trước những yêu cầu của sản xuất, mặt khác triển khai những
13
kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất, nhằm tăng khối lượng và chất lượng sản phẩm chăn nuôi
đáp ứng nhu cầu thịt, trứng, sữa ngày một tăng của đời sống xã hội.
Từ những kết quả nghiên cứu và triển khai kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất, ta đã
tổng kết 10 năm (1981) công nhận giống lợn trắng DBI ở miền Bắc (1981), giống lợn
trắng Phú Khánh ở Duyên Hải Miền Trung (1988), giống lợn trắng Thuộc Nhiêu miền
Nam (1990), công nhận lợn Yocsia Việt Nam (1990) cùng với giải pháp dùng lợn Móng
Cái thay lợn cỏ từ Nghệ An đến Quảng Nam – Đà Nẵng đã hình thành hệ thống lợn phù
hợp với điều kiện sinh thái sản xuất của mỗi vùng từ đồng bằng Sông Hồng, dọc tuyến
quốc lộ 1 đến đồng bằng sông Cửu Long. Lợn lai kinh tế được nuôi rộng rãi trong cả
nước. Tỷ lệ lợn lai trong tổng đàn lợn từ 20% năm 1981 lên 40% năm 1985, rồi 54,1%

chăn nuôi quy mô trung bình. Dưới tác động của giá cả, dịch bệnh sức ép người tiêu dùng
đòi hỏi loại hình này cần phải thay đổi quy mô, tăng đầu tư khoa học kỹ thuật để có thể
tồn tại. Hoặc có thể thay đổi phương thức sản xuất bằng cách chuyển từ chăn nuôi lợn thịt
tự túc con giống sang chăn nuôi lợn thịt không tự túc con giống quy mô lớn dưới hình
thức gia công trong một chuỗi sản xuất. Hoặc chuyển hướng sang sử dụng nguồn giống
lợn địa phương để sản xuất các sản phẩm thịt chất lượng cao bằng phương pháp thâm
canh có kiểm soát chặt chẽ. Do vậy đòi hỏi mạnh mẽ từ phía người chăn nuôi ở đây là
xác định tính đặc thù về mặt chất lượng thịt của các giống heo địa phương.
Chăn nuôi quy mô hộ gia đình vẫn còn tồn tại và ít chịu tác động rủi ro của đầu
vào, nhưng khả năng tham gia thị trường của sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực này sẽ
giảm mạnh do lợi nhuận của thương lái (chi phí thu gom, vận chuyển, kiểm dịch và chất
lượng). Thị trường tiêu thụ sản phẩm từ hộ chăn nuôi nhỏ chủ yếu là tại chỗ. Mỗi khi
kinh tế nông hộ chưa phát triển, thì chăn nuôi nhỏ vẫn là nguồn cung cấp thực phẩm
chính cho người dân. Gia nhập WTO sẽ tạo cơ hội lớn về việc làm, thu hút một lượng lao
động lớn khỏi khu vực nông thôn sẽ làm giảm đáng kể lượng thực phẩm tiêu thụ tại các
chợ nông thôn, đồng thời cũng giảm số hộ chăn nuôi theo phương thức tận dụng do giảm
cơ học về dân số.
Chăn nuôi công nghiệp bằng các giống cao sản nhập ngoại là nguồn cung cấp thực
phẩm quan trọng cho các thành phố lớn hiện nay và người tiêu dùng cả nước cũng như
xuất khẩu trong tương lai. Khả năng phát triển và chuyển dịch lợn theo hướng chăn nuôi
lợn công nghiệp ở nước ta trước mắt phụ thuộc rất lớn vào thị trường của các thành phố
lớn và có thể đây là thị trường cạnh tranh khốc liệt sau khi gia nhập WTO. Trong đó
15
chúng ta đang gặp phải hai yếu tố bất lợi chính là giá cả và vệ sinh an toàn thực phẩm,
đặc biệt là dịch lở mồm long móng và hoóc môn kích thích sinh trưởng trong chăn nuôi.
Để giữ vững thị trường, tạo đà cho quá trình chuyển dịch sang nền chăn nuôi công nghiệp
bền vững cần phải có nỗ lực mạnh mẽ của tất cả các nhà chăn nuôi lợn và cơ quan quản
lý nhà nước.
Những năm gần đây, ngành chăn nuôi nước ta có tốc độ tăng trưởng tương đối
cao, bình quân đạt 7 - 8% mỗi năm. Bên cạnh phương thức chăn nuôi truyền thống, thì

(con)
Mức độ
biến động
(Con)
Tốc độ
tăng
(%)
Sản lượng
thịt lợn hơi
(tấn)
Mức độ
biến động
(tấn)
Tốc độ tăng
(%)
2000 203.237 - 0,00 14.477 - 0,00
2001 244.408 41.171 20,26 18.808 4.331 22,92
2002 245.121 713 2,92 19.058 250 1,33
2003 252.292 7.171 2,86 19.377 219 1,67
2004 259.570 7.278 2,88 20.229 852 4,40
2005 264.787 5.217 2,01 20.967 738 3,65
[Nguồn: 10]
Theo bảng thống kê 1 ta thấy số lượng đàn lợn trong tỉnh qua các năm có tăng
song tăng không mạnh. Giai đoạn năm 2000 - 2001 tốc độc tăng trưởng đàn lợn rất
nhanh, vào năm này được các chính sách hỗ trợ xóa đói giảm nghèo của tỉnh cũng như
của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ chú trọng hơn vào công tác phát triển chăn
nuôi, đặc biệt là chăn nuôi gia súc nhỏ. Tuy nhiên, hệ thống thú y và quan trọng là thú y
địa phương chưa phát triển nên vào giai đoạn năm 2001 - 2002 tốc độ tăng đàn chậm
thậm chí có huyện còn giảm xuống, nguyên nhân do ảnh hưởng của sự bùng phát dịch
bệnh chăn nuôi nói chung đặc biệt là dịch long móng lở mồm ở gia súc. Đợt dịch này đã

nuôi bình quân 24,61kg/con. Trọng lượng xuất chuồng bình quân 85,97kg/con. Tăng
trọng bình quân 18,63kg/con/tháng. Mức thức ăn tiêu tốn để tăng trọng 1kg là 2,87kg.
Lãi bình quân mỗi con là 228.000đ, hộ lãi cao nhất: 300.000đ/con, lãi thấp nhất:
174.000đ/con.[11]
2) Mô hình nuôi lợn thịt F1
Mô hình này do hội nông dân thực hiện. Với quy mô ban đầu 28 con. Được triển
khai trọng điểm ở Phú Dương (5 con), Thủy An (10 con), Quảng Vinh (10 con), Thủy
18
Châu (3 con). Thời gian thực hiện từ tháng 6 – 10/20006, với 6 hộ tham gia. Tổng kinh
phí: 10.000.000đ. Trong đó hỗ trợ giống 10.000.000đ.[11]
Kết quả đạt được từ mô hình: Trong thời gian nuôi bình quân 119 ngày, trọng
lượng đưa vào nuôi bình quân 14,89kg/con. Trọng lượng xuất chuồng bình quân
70,36kg/con. Tăng trọng bình quân 13,96kg/con/tháng. Mức tiêu tốn thức ăn để tăng
trọng 1kg trọng lượng là 3,15kg. Lãi bình quân mỗi con là 73.000đ.[11]
Qua 2 mô hình chăn nuôi lợn thịt được triển khai trong năm 2006 ta thấy công tác
giống là công tác được chú trọng nhiều nhất. Thực tế cho thấy muốn phát triển chăn nuôi
lợn thịt đạt hiệu quả thì phải bắt đầu từ cải tạo giống. Các giống lợn địa phương thường
tầm vóc rất nhỏ, khả năng tăng trọng thấp nếu sử dụng các giống này sẽ không mang lại
hiệu quả cho người chăn nuôi. Với các mô hình đang thực hiện mức lãi xuất thu được
bình quân từ 73.000 – 200.000đ/con quả là mức lãi xuất khá lý tưởng đối với nông hộ
chăn nuôi. Mức lãi xuất này sẽ góp phần không nhỏ vào việc khích lệ nông hộ mạnh dạn
mở rộng đầu tư chăn nuôi cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
2.6.2. Tình hình phát triển chăn nuôi lợn thịt của huyện Quảng Điền
2.6.2.1. Diễn biến phát triển chăn nuôi lợn thịt của huyện trong những năm gần đây
Bảng 2: Tình hình phát triển chăn nuôi của huyện Quảng Điền
Năm
Đàn lợn Đàn bò
Số lượng
con
Mức độ

cũng tăng lên đáng kể. Điều này thể hiện huyện cũng đã biết rõ tầm quan trọng của chăn
nuôi lợn đồng thời cũng đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong công tác phòng và chữa
bệnh qua các đợt dịch, huyện cũng đã chú trọng hơn trong việc bồi dưỡng nâng cao tay
nghề của đội ngũ cán bộ làm công tác thú y. Hơn thế ngay chính nông hộ chăn nuôi cũng
đã nhận thức được muốn chăn nuôi hiệu quả cần có chuồng trại kiên cố, tiêm phòng, thú
y đầy đủ và kịp thời. Chính vì vậy đã hạn chế rất nhiều sự ảnh hưởng của thời tiết cũng
như của dịch bệnh góp phần nâng cao hiệu quả chăn nuôi.
Nhìn chung, chăn nuôi lợn là một ngành có tiềm năng phát triển ở huyện. Chính vì
vậy công tác lai tạo nhằm nâng cao chất lượng đàn lợn đang được chú trọng phát triển.
Hầu như tất cả nông hộ chăn nuôi đều nuôi lợn thịt giống lai cho năng suất thịt cao hơn
nhiều so với lợn địa phương. Chính sách phát triển trang trại, gia trại chăn nuôi đang có
chiều hướng phát triển tốt trong nông hộ chăn nuôi. Quy mô chăn nuôi lớn ngày càng
xuất hiện nhiều ở địa phương.
So với chăn nuôi lợn, chăn nuôi bò có chiều hướng phát triển ổn định ở địa
phương trong những năm qua. Tuy nhiên chăn nuôi bò đòi hỏi phải có diện tích bãi chăn
thả tự nhiên lớn. Hơn thế nữa nguồn vốn đầu tư ban đầu lại khá cao và thường là vượt
khả năng của các hộ khó khăn. Chính vì vậy chăn nuôi bò khó có khả năng phát triển trên
diện rộng và đặc biệt khó trở thành phương kế xóa đói giảm nghèo ở địa phương. Chăn
nuôi lợn thịt vẫn được coi là xu thế phát triển phù hợp nhất cho địa phương.
20
2.6.2.2. Các chủ trương chính sách của huyện trong phát triển chăn nuôi lợn thịt
- Chương trình khí sinh học Bioga: Tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung và huyện
Quảng Điền nói riêng là một trong 12 tỉnh thành được thực hiện dự án khí sinh học do
chính phủ Hà Lan tài trợ, trong năm 2006 đã xây dựng được 31 công trình. Nâng tổng số
công trình xây dựng trên địa bàn toàn huyện lên đến 230 công trình. Chương trình này
được người dân đồng tình hưởng ứng và được đánh giá là có hiệu quả thiết thực.[12]
Việc xây dựng công trình đã góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường do phân gia
súc gây ra, mỗi tháng tiết kiệm được 150.000 - 200.000đ/hộ tiền mua chất đốt. Nhiều hộ
còn đưa khí sinh học vào để thắp sáng. Ngoài ra khi xây dựng khí sinh học, các hộ chăn
nuôi đã có thêm một nhà vệ sinh tự hoại mà từ lâu họ không thực hiện được do khó khăn

chăn nuôi (giống, thức ăn, thú y…).
4) Đề xuất những giải pháp phù hợp để phát triển chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu
- Tại xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế đây là một xã có
ngành chăn nuôi khá phát triển, có tỷ lệ hộ tham gia chăn nuôi lợn là khá lớn, đồng thời
có nhiều hộ đã đầu tư chăn nuôi lợn thịt với quy mô tương đối.
3.2.2. Thu thập số liệu thứ cấp
- Báo cáo về tình hình phát triển chăn nuôi hàng năm của cả nước, tỉnh Thừa
Thiên Huế, huyện Quảng Điền, xã Quảng Lợi.
- Các tài liệu thống kê, niên giám thống kê từ các cơ quan liên quan.
- Các báo cáo khoa học.
3.2.3. Số liệu sơ cấp
Phương pháp PRA (Participatory Rural Appraisal) là một quá trình học hỏi lẫn
nhau một cách linh hoạt giữa người dân địa phương và những người từ nơi khác đến (cán
bộ khuyến nông, người làm công tác phát triển, người nghiên cứu…). Đây là phương
pháp tạo điều kiện cho người dân có điều kiện trao đổi, phân tích các hiểu biết về cuộc
sống và điều kiện của họ để lập kế hoạch hành động.[1]
22
Các công cụ của PRA được sử dụng trong quá trình nghiên cứu:
- Quan sát cá thể và tổng thể: Nhằm giúp thu thập số liệu một cách chính xác hơn
trong nghiên cứu định lượng nhất là đối với nghiên cứu điều tra về hiệu quả kinh tế của
chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ. Đồng thời giúp người nghiên cứu có cái nhìn tổng quát về
tình hình chăn nuôi lợn thịt hiện nay cũng như những ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế,
xã hội, chính sách khác…
- Phỏng vấn sâu: Cán bộ khuyến nông, thú y xã về tình hình phát triển cũng như
các rủi ro mà hộ chăn nuôi gặp phải trong quá trình chăn nuôi.
- Phỏng vấn cấu trúc bằng bảng hỏi: Chúng tôi đã tiến hành chọn 40 hộ điều tra
bằng bảng câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn cho mục đích nghiên cứu
+ Chọn mẫu: Chọn ngẫu nhiên có định hướng

GO (2006) = GO
1
+ GO
2

- Chi phí sản xuất trung gian (IC)/hộ/năm hay /con: Là toàn bộ chi phí vật chất và
dịch vụ thường xuyên được sử dụng trong quá trình sản xuất ra sản phẩm. Gồm có:
+ Chi phí vật chất: Là chi phí do hộ gia đình bỏ ra trong các hoạt động dịch vụ:
Nhiên liệu, công cụ lao động, vật rẻ tiền mau hỏng được phân bổ trong năm…
+ Chi phí dịch vụ: Là chi phí cần qua các hoạt động dịch vụ: Chi phí thú y, chi phí
dịch vụ trả ngân hàng, tín dụng…
- Giá trị gia tăng (VA): Là phần chênh lệch giữa GO và IC, là phần giá trị tăng
thêm hay phần còn lại của giá trị sản xuất sau khi trừ đi chi phí trung gian:
VA = GO – IC
- Hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư (HQĐT):
Được tính bằng tỷ số giữa giá trị gia tăng VA và chi phí trung gian IC
HQĐT = VA/IC
- Hiệu quả sử dụng lao động: Là chỉ tiêu dùng để phản ánh hiệu quả của việc sử
dụng lao động trong gia đình. Chỉ tiêu này được tính bằng tỷ số giữa hiệu quả chăn nuôi
của hộ và số lao động tham gia chăn nuôi lợn của hộ.
- GO/IC: Một đồng chi phí trung gian tạo ra bao nhiêu đồng giá trị sản xuất
24
Với mỗi chỉ tiêu này chúng tôi tính riêng cho từng nhóm hộ và từng quy mô nông
hộ để dễ dàng so sánh.
2) Phương pháp sử lý số liệu
Sử lý số liệu bằng phần mềm Excel
Phương pháp tính toán thống kê
Hàm sản xuất Cobb – Douglas sử dụng trong đề tài có dạng sau:
Y = A . Xi
αi


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status