Nghiên cứu ảnh hưởng lượng đạm bón ở thời kỳ trước trỗ 10 ngày đến sinh trưởng và năng suất của một số giống ngô lai trong điều kiện vụ đông năm 2011 tại trường đại học nông lâm thái nguyên - Pdf 13

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASI : Anthesis Silking Interval (khoảng cách tung phấn - phun râu)
CIMMYT : Trung tâm cải tạo Ngô và Lúa mỳ Quốc Tế
CS : Cộng sự
CT : Công thức
CV% : Sai số đồng ruộng
BNNPTNT : Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn
Đ/C : Đối chứng
FAO : Food and Agriculture Organization of the United Nations
LAI : Chỉ số diện tích lá
LSD
0.05
: Sự sai khác ý nghĩa nhỏ nhất ở mức 0.05
M
1000
: Khối lượng 1000 hạt
N : Đạm
P : Lân
K : Kaliclorua
NSLT : Năng suất lý thuyết
NSTT : Năng suất thực thu
TCN : Tiêu chuẩn ngành
TGST : Thời gian sinh trưởng
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu thị phần giống ngô lai ở Việt Nam
Biểu đồ 4.1. Ảnh hưởng của lượng đạm bón trước trỗ 10 ngày đến tốc độ
tăng trưởng chiều cao cây của một số giống ngô lai, vụ Đông
năm 2011
4
Phần 1

15 triệu tấn và sẽ phải nhập khoảng 50% nguyên liệu để sản xuất (Bộ Nông
nghiệp, 2010) [2].
4
4
5
Trong những năm gần đây, Việt Nam cũng đã lai tạo và chọn được
nhiều giống ngô đáp ứng về năng suất, chất lượng được thế giới cũng như
trong nước chấp nhận. Nếu đánh giá khách quan thì giống ngô của Việt Nam
so với các giống ngô của các nước trên thế giới không có sự chênh lệch lớn về
năng suất. Vì vậy, việc chọn các biện pháp kỹ thuật canh tác nhằm tăng năng
suất ngô phù hợp với điều kiện của Việt Nam; từ đó xây dựng quy trình kỹ
thuật tiên tiến nhằm tăng năng suất và hiệu quả sản xuất ngô, góp phần tăng
thu nhập cho người nông dân là nhiệm vụ chính của các nhà khoa học,
khuyến nông.
Ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc, ngô là cây lương thực chính chỉ
đứng sau cây lúa. Năm 2009, diện tích lúa là 669,9 nghìn ha, diện tích ngô là
443,4 nghìn ha (Tổng cục Thống kê, 2011)[20]. Mặc dù diện tích trồng ngô
lai của vùng đạt từ 80 - 90% nhưng năng suất ngô rất thấp, chỉ đạt 34,5 tạ/ha
(bằng 84,6% so với trung bình cả nước). Sở dĩ năng suất ngô ở vùng này thấp
là vì ngô chủ yếu được trồng trên đất dốc, không chủ động nước, điều kiện
khí hậu khắc nghiệt cùng với tập quán canh tác lạc hậu nên ngô không phát
huy được tiềm năng của giống. Như vậy, giải pháp nâng cao năng suất và hiệu
quả sản xuất ngô ở khu vực Trung du và miền núi phía Bắc là tập trung vào
nâng cao các biện pháp kỹ thuật canh tác, trong đó có kỹ thuật bón phân cho
ngô, đặc biệt là phân đạm.
Xuất phát từ cơ sở khoa học và nhu cầu thực tế, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng lượng đạm bón ở thời kỳ trước
trỗ 10 ngày đến sinh trưởng và năng suất của một số giống ngô lai trong
điều kiện vụ Đông năm 2011 tại trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên”.
1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài

Ngô là cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Mặc dù
đứng thứ ba về diện tích (sau lúa nước và lúa mỳ), ngô đã có năng suất và sản
lượng cao nhất trong các cây cốc (Ngô Hữu Tình, 2009) [19]. Còn ở Việt Nam
ngô chỉ chiếm hơn 8% diện tích cây lương thực, nhưng có ý nghĩa thứ 2 sau
lúa nước (Phan Xuân Hào, 2002) [6].
Theo Trần Trung Kiên, 2009 [10] thì một số giống ngô lai đạt năng suất
5 - 7 tấn/ha là không khó khăn nếu áp dụng đúng quy trình kỹ thuật
Cải tạo giống đi đôi với chế độ dinh dưỡng hợp lý sẽ làm tăng năng
suất ngô vì đạm là một trong những nguyên tố dinh dưỡng ảnh hưởng có tính
chất quyết định đến năng suất ngô. Ngô cần đạm trong suốt thời kì sinh
trưởng đặc biệt vào các thời kỳ 3 - 5 lá, 7 - 9 lá và trước trỗ 10 ngày. Đạm là
thành phần cơ bản của protein, ADN, diệp lục… Vì vậy thiếu N chồi lá mầm
không phát triển đầy đủ, sự phân chia tế bào ở đỉnh sinh trưởng bị kìm hãm,
giảm diện tích lá, tăng khả năng quang hợp của cây. Bón N đầy đủ làm tăng
diện tích và tuổi thọ của lá, tăng khả năng quang hợp, đây là cơ sở của việc
nâng cao khả năng tích lũy chất khô và năng suất ngô.
Ngô là cây trồng quang hợp theo chu trình C
4
, có tiềm năng năng suất
cao mà không có một cây cốc nào có thể sánh kịp. Để nâng cao hiệu quả trong
sản xuất nông nghiệp nói chung và khai thác triệt để vị trí, vai trò của cây ngô
nói riêng thì việc xác định được một chế độ dinh dưỡng thích hợp cho từng
thời kỳ của mỗi giống ngô ở các điều kiện sinh thái nhất định là một yêu cầu
cấp thiết.
Xuất phát từ thực tế trên và để đưa ra lượng phân bón hợp lý góp phần
làm tăng năng suất và sản lượng ngô của tỉnh Thái Nguyên chúng tôi tiến
hành làm đề tài này.
2.2. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và ở Việt Nam
2.2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới
Ngô là cây ngũ cốc có vị trí quan trọng đứng thứ ba sau lúa mỳ và lúa

2009 158,84 51,60 819,70
2010 161,82 52,17 844,35
(Nguồn: Số liệu thống kê của FAO, năm 2011) [31]
Số liệu bảng 2.1 cho thấy sản xuất ngô trên thế giới tăng nhanh cả về
diện tích, năng suất và sản lượng. Năm 2004 diện tích trồng ngô là 147,47
triệu ha đến năm 2010 là 161,82 triệu ha, tăng 14,35 triệu ha so với năm 2004.
Năng suất ngô của thế giới có xu hướng tăng nhưng không thực sự ổn
định. Năm 2004 năng suất ngô đạt 49,41 tạ/ha. Năm 2006 chỉ còn 47,62 tạ/ha
giảm 1,79 tạ/ha.
Tình hình sản xuất ngô của một số nước trên thế giới được trình bày ở
bảng 2.2
8
8
9
Bảng 2.2. Tình hình sản xuất ngô của một số nước trên thế giới năm 2010
Nước
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
Mỹ 32,96 95,92 316,16
Trung Quốc 32,51 54,59 177,54
Brazil 12,81 43,74 56,06
Mexico 7,14 32,59 23,3
Ấn Độ 7,18 19,58 14,06
Italia 0,92 95,33 8,82
Đức 0,46 87,85 4,07
Hy Lạp 0,18 117,26 2,19

Theo dự báo của Viện nghiên cứu chương trình Lương thực thế giới
(IPRI, 2003)[32], vào năm 2020 tổng nhu cầu ngô thế giới là 852 triệu tấn,
trong đó 15% dùng làm lương thực, 69% dùng làm thức ăn chăn nuôi, 16%
dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp. Ở các nước phát triển chỉ dùng 5%
ngô làm lương thực nhưng ở các nước đang phát triển tỷ lệ này là 22%, dự
báo nhu cầu ngô trên thế giới năm 2020 được trình bày ở bảng 2.3.
Bảng 2.3. Dự báo nhu cầu ngô thế giới đến năm 2020
Vùng
Năm 1997
(triệu tấn)
Năm 2020
(triệu tấn)
% thay đổi
Thế giới 568 852 45
Các nước đang phát triển 295 508 72
Đông Á 136 252 85
Nam Á 14 19 36
Cận Sahara-Châu Phi 29 52 79
Mỹ Latinh 75 118 57
Tây và Bắc Phi 18 28 56
(Nguồn: Số liệu thống kê của IPRI, năm 2003) [32]
Dự báo đến năm 2020, nhu cầu ngô thế giới tăng 45% so với nhu cầu
năm 1997, chủ yếu tăng cao ở các nước đang phát triển (72%), trong đó các
nước khu vực Đông Á được dự báo có nhu cầu tăng mạnh nhất vào năm 2020
(85%). Sở dĩ nhu cầu ngô tăng mạnh ở các nước này là do dân số tăng, thu
nhập bình quân đầu người tăng, dẫn đến nhu cầu về lương thực, thực phẩm
tăng mạnh, từ đó đòi hỏi khối lượng ngô rất lớn để phát triển chăn nuôi.
Như vậy trong những năm qua và thời kì sắp tới, diện tích và thị trường
ngô trên thế giới sẽ biến động không lớn, chỉ có năng suất ngô là tăng đáng
kể. Đó cũng là giải pháp tốt nhất cho các nước, đặc biệt là các nước đang phát

Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
1961 229,2 11,4 260,1
1980 389,6 11,0 428,8
1990 432,0 15,5 671,0
2000 730,2 25,1 2005,9
2005 1052,6 36,0 3787,1
2007 1072,8 39,6 4250,9
2009 1086,8 40,3 4381,8
2010 1126,9 40,9 4606,8
(Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ NN&PTNT 2011) [20]
11
11
12
Số liệu bảng 2.4 cho thấy, sản xuất ngô ở nước ta phát triển mạnh cả về
diện tích, năng suất và sản lượng. Năm 1990 cả nước trồng được 389,6 nghìn
ha, tăng 202,8 nghìn ha so với năm 1961, và 42,4 nghìn ha so với năm 1980.
Mười năm sau diện tích trồng ngô đạt 432,0 nghìn ha, tăng 42,4 nghìn ha so
với năm 1990. Năm 2010 diện tích trồng ngô của nước ta là 1126,9 nghìn ha,
tăng 396,7 nghìn ha so với năm 2000. Trung bình 1 năm tăng 39,67 nghìn ha.
Năng suất ngô cũng tăng nhanh liên tục với tốc độ cao hơn trung bình
thế giới trong suốt 20 năm qua. Năm 1980, năng suất ngô nước ta chỉ bằng
34% so với trung bình thế giới, năm 2000 bằng 59,8%, năm 2005 bằng 74,4%
và năm 2010 đạt 78,39%. Năm 1990, sản lượng ngô vượt ngưỡng 1 triệu tấn,
năm 2000 vượt ngưỡng 2 triệu tấn, và đến năm 2010 Việt Nam đạt năng suất,
diện tích, sản lượng ngô cao nhất từ trước cho tới nay (diện tích đạt 1126,9

nhiều nơi đang gây nên tình trạng xói mòn, rửa trôi đất.
- Các giống ngô thực sự chịu hạn và các điều kiện bất thuận khác như
đất xấu, chua phèn, kháng sâu bệnh, có thời gian sinh trưởng ngắn đồng thời
cho năng suất cao và ổn định… nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả canh tác
cho người sản xuất vẫn chưa nhiều.
- Các biện pháp kỹ thuật canh tác mặc dù đã được cải thiện nhiều song
vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của giống mới. Trong đó một số vấn đề đáng
chú ý như khoảng cách, mật độ, phân bón, thời vụ, phòng trừ sâu bệnh và cỏ
dại, bảo quản sau thu hoạch chưa được quan tâm đúng mức như với công tác
chọn tạo giống.
* Định hướng phát triển ngô ở Việt Nam
- Nhanh chóng tạo ra được những giống ngô lai có năng suất cao, chất
lượng tốt và quan trọng là phù hợp với điều kiện sinh thái. Đây là vấn đề khó
đòi hỏi đầu tư nhiều công sức, tiền của, thời gian và muốn thành công phải có
được những yếu tố công nghệ cao, hệ thống sản xuất hạt giống chất lượng tốt
như làm khô, chế biến, đóng gói công nghiệp để đảm bảo chất lượng ngang
tầm hạt giống của các công ty nước ngoài. Ngoài ra phải có chiến lược để
giành lại thị trường dựa vào tiêu chí chất lượng cao, giá thành hạ.
- Định hướng tăng diện tích: Tăng diện tích vụ Xuân trên đất bỏ hóa ở
các tỉnh miền núi phía Bắc. Tăng diện tích vụ 2 (Thu - Đông) ở các tỉnh Tây
Bắc, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Tăng diện tích vụ Đông ở các tỉnh Đồng
Bằng Sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Chuyển một số diện tích cây trồng khác
kém hiệu quả sang trồng ngô (lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, cà phê ở Tây Nguyên).
- Định hướng tăng năng suất: Mở rộng diện tích trồng ngô lai, tăng tỷ
lệ giống ngô lai trong sản xuất lên 85 - 90%. Tạo ra những giống lai mới ưu
13
13
14
việt hơn (ngắn ngày, có khả năng chống chịu tốt, năng suất cao, chất lượng
tốt). Đầu tư cho một số khâu trong biện pháp kỹ thuật trồng trọt như phân

ngô lai ngày càng tăng thay thế dần các giống ngô địa phương. Đến nay, diện
tích trồng ngô lai tăng mạnh, chiếm trên 90% diện tích mang lại năng suất,
sản lượng vượt trội trong sản xuất.
14
14
15
Bảng 2.5. Diện tích, năng suất và sản lượng ngô của tỉnh Thái Nguyên
giai đoạn 2001 - 2010
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
2001 9,7 30,6 29,7
2002 11,6 32,8 38
2003 13,4 32,6 43,7
2004 15,9 34,3 54,6
2005 15,9 34,7 55,1
2006 15,3 35,2 53,9
2007 17,8 42,0 74,8
2008 20,6 41,1 84,6
2009 17,4 38,6 67,2
2010 17,9 42,1 75,4
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2011) [20]
Qua bảng 2.5 cho thấy diện tích, năng suất, sản lượng ngô đều tăng
đáng kể. Từ năm 2001 - 2008 diện tích trồng ngô tăng liên tục từ 9,7 nghìn ha
lên 20,6 nghìn ha (tăng trung bình 1,55 nghìn ha/năm). Tuy nhiên năm 2009
diện tích lại giảm xuống chỉ còn 17,4 nghìn ha, năm 2010 là 17,9 nghìn ha.

Giống lai đơn đầu tiên được đưa vào sản xuất năm 1956 là SK-4, và sau đó
một số lượng lớn giống lai giữa các dòng thuần được tạo ra và đưa thử
nghiệm. Việc nghiên cứu tạo giống ngô lai ở một số nước đang phát triển bắt
đầu từ những năm đầu thập kỷ 60 như Achentina, Braxin, Colombia, Chile,
Mehico, Ấn Độ, Pakistan, Hylap, Zimbabwe, Kenya, Tanzania và một vài
nước ở Trung Mỹ. Trong thời kỳ 1966 - 1990 có xấp xỉ 852 giống ngô được
tạo ra, trong đó 59% là giống thụ phấn tự do, 27% là giống lai quy ước, 10%
là giống ngô lai không quy ước và 4% là các giống khác.
Trung Quốc là một cường quốc ngô lai Châu Á, với diện tích 25 triệu
ha, năng suất 4,9 tấn/ha, sản lượng ngô hàng năm trên 120 triệu tấn, đứng
thứ hai trên thế giới sau Mỹ. Giống ngô lai được đưa vào Trung Quốc từ
những năm 60, giống lai đơn đưa vào từ những năm cuối của thập kỷ này
(S.K. Vasala, Me leans,… 1999) [44]. Năm 1992, có 27 giống ngô lai được
gieo trồng trên diện tích 100.000 ha (CIMMYT, 1992) [26].
2.3.1.2. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô trên thế giới
Cây ngô là một cây ngũ cốc quang hợp theo chu trình C
4
, là cây ưa
nhiệt, có hệ thống rễ chùm phát triển (FAO, 1995) [29]. Cây ngô là cây có
tiềm năng năng suất lớn. Theo De. Geus, (1973) [27], năng suất trung bình
của các giống ngô lai là 6,838 kg/ha cần bón: 95N - 67P
2
O
5
- 20K
2
O kg/ha.
16
16
17

phân chia tế bào ở đỉnh sinh trưởng bị kìm hãm và kết quả là giảm diện tích
lá, kích thước của cây và năng suất giảm. Phân đạm có thể tạo ra sự tăng diện
tích lá hiệu quả ngay từ đầu và duy trì lá xanh vào cuối vụ để quá trình đồng
hóa quang hợp đạt cực đại (Patrick, 2001) [36]; Mức đạm thấp làm giảm số
hạt và năng suất hạt (Barbieri và CS, 2000) [25].
Năng suất ngô cao chỉ có thể đạt được khi thời gian diện tích lá xanh
kéo dài và tỷ lệ đồng hóa đạm cao sau thời kỳ ra hoa (Mitsuru, 1995)[35].
Khả năng hấp thu đạm tùy thuộc vào giai đoạn sinh trưởng phát triển. Một số
báo cáo về khả năng hút N chỉ ra rằng, tốc độ đồng hóa cực đại xảy ra gần
giai đoạn phun râu và kết thúc vào cuối giai đoạn tung phấn, thiếu đạm làm
chậm sinh trưởng của hai giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng
sinh thực, giảm tốc độ ra lá, hạn chế mạnh đến sự phát triển diện tích lá.
Thiếu đạm hạn chế đến hiệu quả sử dụng bức xạ, nhất là thời kỳ ra hoa, ảnh
hưởng đến năng suất bắp tổng số. Cũng theo hai tác giả trên việc cung cấp và
tích lũy đạm ở thời kỳ ra hoa có tính quyết định số lượng hạt ngô, thiếu N
trong thời kỳ này làm giảm khả năng đồng hóa C của cây, nhất là giai đoạn ra
hoa sẽ giảm năng suất hạt. Dự trữ đạm ở cây ngô có ảnh hưởng rất lớn đối với
17
17
18
sự sinh trưởng và phát triển lá, sự tích lũy khối và sự tăng trưởng của hạt, ảnh
hưởng của N là quan trọng khi đánh giá phản ứng của cây trồng đối với phân
N. Rhoads (1984) làm thí nghiệm tưới nước theo rãnh cho thấy: Năng suất
ngô 1.200 kg/ha khi không bón đạm và khi bón 224 kg/ha N trên đất chưa bao
giờ trồng ngô đạt 6.300 kg/ha và năm trước đó không bón đạm.
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng vai trò của đạm và S đến sự sinh
trưởng, năng suất và chất lượng của giống ngô lai (Cargill 707), tác giả Hussain
và CS, 1999) [33], cho rằng sự cung cấp phân bón ở các mức 150N + 30S và
150N + 20S (kg/ha). Theo De. Geus, (1973) [27], khi bón cho ngô với liều
lượng: 40kg N/ha năng suất thu được 12,11 tạ/ha; 80kg tạ/ha; 160 kg N/ha

ba T7 triển vọng cho sản xuất tại các tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ, trong đó
giống T9 đã được Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là
giống khu vực hóa tại Miền Trung tháng 9 - 2002. Năm 2000, Viện nghiên
cứu Ngô tiếp tục đưa ra thử nghiệm giống ngô lai HQ2000 Có chất lượng cao,
hàm lượng Protein cao hơn hẳn ngô thông thường, đặc biệt là hai loại axit
amin thường thiếu ở ngô là Lyzin và Triptophan, nhờ vậy mà nâng cao được
giá trị dinh dưỡng của ngô.
Thông qua dự án “Phát triển giống ngô chịu hạn nhằm cải thiện thu
nhập cho nông dân vùng Đông Nam Á”(AMNET), đã thu thập được một số
nguồn nguyên liệu mới từ CIMMYT và các nước trong khu vực, bước đầu tạo
ra một số tổ hợp lai có triển vọng. Nhờ nguồn nguyên liệu tạo dòng khá
phong phú và được thử nghiệm trong điều kiện sinh thái và mùa vụ nên các
giống ngô lai mới tạo ra đã tỏ ra có nhiều ưu thế như: Chịu hạn, chống đổ, ít
sâu bệnh, chất lượng và màu dạng hạt tốt hơn. Điển hình là các giống dài
ngày, tỷ lệ 2 bắp/cây cao như: LVN98, LVN145; một số giống ngô chịu hạn
tốt, thích nghi với nhiều vùng sinh thái khác nhau như: VN8960, LCH9,
LVN61, LVN14. Những giống lai này có tiềm năng năng suất từ 5 - 12 tấn/ha,
không thua kém các giống ngô lai của các công ty nước ngoài. Đặc biệt, giống
lai LVN10 đã được trồng hàng trăm nghìn hecta mỗi năm trên khắp cả nước.
Như vậy chương trình tạo giống ngô lai của Việt Nam đã từng bước từ giống
lai không quy ước đến lai kép, lai ba, lai đơn cải tiến và lai đơn. Những thành
tích đó đã đưa chương trình ngô lai của Việt Nam đứng trong hàng ngũ các
nước tiên tiến ở Châu Á.
Nhờ những nỗ lực không ngừng trong việc nghiên cứu và ứng dụng
ngô lai trong sản xuất, đến năm 2007 giống ngô lai chọn tạo của Việt Nam
chiếm 32,5% diện tích, giống nước ngoài chiếm 52,3%. Số giống ngô có mặt
trong sản xuất là 114 giống trong đó 10 giống được ưa chuộng nhất là LVN10,
19
19
20

2
O 40,0 42,7 28,7
20
20
21
(Nguồn: Tạ Văn Sơn, 1995)[15]
Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của nước ngoài và thể hiện rõ
là hút kali được hoàn thành sớm trước phun râu, còn các chất dinh dưỡng
khác như đạm và lân còn tiếp tục đến lúc ngô chín.
Để ngô năng suất trung bình 60 tạ/ha ngô hạt, cây ngô lấy từ đất 155 kg
N, 60 kg P
2
O
5,
115 kg K
2
O (tương đương 337 kg ure, 360 kg supe lân, 192 kg
clorua kali) (Đường Hồng Dật, 2003) [5].
Tuy nhiên lượng phân bón cho ngô phụ thuộc vào điều kiện đất đai.
Ngô Hữu Tình (1995) [17], trên đất phù sa sông Hồng tỷ lệ nhu cầu dinh
dưỡng của N, P, K cho cây ngô đạt năng suất cao là 1 : 0,35 : 0,45 và liều
lượng bón phân cho năng suất cao là: 180N - 60P
2
O
5
- 120K
2
O; ở Duyên Hải
Miền Trung: 120N - 90P
2

- 60K
2
O cho năng suất 40 - 50 tạ/ha; 150 - 90P
2
O
5
- 100K
2
O cho năng suất 50
- 55 tạ/ha; 180N - 90P
2
O
5
- 100K
2
O cho năng suất 65 - 75 tạ/ha. (Trần Hữu
Miện, 1987) [11].
Trên đất bạc màu vùng Đông Anh - Hà Nội, giống ngô LVN10 có phản
ứng rất rõ với phân bón ở công thức bón 120N - 120P
2
O
5
- 120K
2
O/ha và cho
năng suất hạt gấp 2 lần so với công thức đối chứng không bón phân. Cũng theo
tác giả thì trên đất bạc màu, hiệu suất của 1 kg NPK là 8,7 kg; 1 kg N là 11,3 kg;
1 kg P
2
O

+ Đối với giống chín sớm:
- Trên đất phù sa: 8 - 10 tấn phân chuồng; 120 - 150 kg N; 70 - 90 kg
P
2
O
5
; 60 - 90 kgK
2
O /ha.
- Trên đất bạc màu: 8 - 10 tấn phân chuồng; 120 - 150 kg N; 70 - 90
kg P
2
O
5
; 100 - 120 kg K
2
O /ha.
+ Đối với giống chín trung bình và chín muộn:
- Trên đất phù sa: 8 - 10 tấn phân chuồng; 150 - 180 kg N; 70 - 90 kg
P
2
O
5
; 80 - 100 kg K
2
O /ha.
- Trên đất bạc màu: 8 - 10 tấn phân chuồng; 150 - 180 kg N; 70 - 90
kg P
2
O

O lên 90 kg (dẫn theo Ngô Hữu Tình,
2003) [18]. Trên đất xám của vùng Đông Nam bộ, theo kết quả nghiên cứu
của Trần Thị Dạ Thảo và Nguyễn Thị Sâm (2002), liều lượng phân bón cho
ngô có hiệu quả kinh tế cao nhất là 180 kg N - 80 kg P
2
O
5
- 100 kg K
2
O /ha
(giống LVN99) (dẫn theo Ngô Hữu Tình, 2003) [18].
Theo Lê Quý Tường và Trần Văn Minh, lượng phân bón thích hợp cho
ngô lai trên đất phù sa cổ ở duyên hải Trung bộ trong vụ Đông Xuân là 10 tấn
phân chuồng + 150-180 kg N + 90 kg P
2
O
5
+ 60 kg K
2
O /ha (tỷ lệ NPK là
1,7:1:0,7 hoặc 2:1:0,7), tiêu tốn lượng đạm từ 22,6 - 28,8 kgN/1 tấn ngô hạt;
22
22
23
vụ Hè Thu bón 10 tấn phân chuồng + 150 kg N + 90 kg P
2
O
5
+ 60 kg K
2

2
O
5
: K
2
O trong 10 năm qua đã
cân đối hơn với tỷ lệ tương ứng qua các năm 1990, 1995 và 2000 là 1: 0,12:
0,05; 1: 0,46: 0,12 và 1: 0,44: 0,37. Lượng phân bón/ha cũng đã tăng lên qua
các năm 1990, 1995, 2000 với tổng lượng N: P
2
O
5
: K
2
O tương ứng là 58,7;
117,7 và 170,8 kg/ha, tỷ lệ này còn thấp so với các nước phát triển như Mỹ,
Hàn Quốc, Pháp, Nhật với tổng lượng N: P
2
O
5
: K
2
O khoảng 240 - 400 kg/ha.
Theo Vũ Hữu Yêm (1995) [24], ảnh hưởng của bón đạm như sau: Không bón
23
23
24
năng suất đạt 40 tạ/ha; bón 40 kg N năng suất đạt 56,5 tạ/ha; bón 80 kg N
năng suất đạt 70,8 tạ/ha; bón 120 kg N năng suất đạt 76,2 tạ/ha; bón 160 kg N
năng suất đạt 79,9 tạ/ha.

Đông 2011.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
3.4.1.1 Công thức thí nghiệm
Bảng 3.1. Các công thức và thời kỳ bón đạm
(ĐVT: kgN/ha)
Công thức
Lượng đạm bón ở các thời kỳ (kgN/ha)
3 - 5 lá 7 - 9 lá
Trước trỗ 10
ngày
1(đ/c) 50 50 0
2 50 50 25
3 50 50 50
4 50 50 75
(Các công thức đều được trồng 2 giống LVN99 và LVN14, nền 3 tấn phân vi sinh +
90 P
2
O
5 +
90 K
2
O
5
)
25
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status