nghiên cứu phương pháp, quy trình tổ chức xây dựng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ việt nam giai đoạn 2011-2020 - Pdf 13

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Đề tài nghiên cứu cấp Bộ năm 2008

NGHIÊN CỨU PHƯƠNG PHÁP, QUY TRÌNH TỔ CHỨC XÂY DỰNG
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KH&CN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2011-2020 ( Báo cáo tóm tắt )

Cơ quan chủ trì thực hiện:
VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Nhóm thực hiện:
NGUYỄN MẠNH QUÂN-CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
NGUYỄN VĂN THU
ĐẶNG NGỌC DINH
NGUYỄN SĨ LỘC
TRẦN CHÍ ĐỨC
TRẦN NGỌC CA


KH&CN………………………………………………………………………………… ………67
I. Cách tiếp cận tham dự và vai trò của trí tuệ đám đông…………………………………………67
II. Cách tiếp cận nhìn trước-“Foresight”……………………….…………………………………69
III. Cách tiếp cận chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu trong xây dựng chiến lược KH&CN 72
IV. Cách tiếp cận chiến lược theo các chùm đổi mới (Cluster)………………………………… 74
V. Phương pháp phân tích SWOT. ………………………………………………………………77
VI. Phương pháp xây dựng kịch bản….………………………………………………………… 78
VII. Phương pháp xây dựng lộ trình công nghệ………………….………… …… 89
VIII. Phương pháp điều tra Delphi……………………………………………………………….96
IX Phương pháp xác định công nghệ then chốt (key technology)……………………………… 99

Phần Bốn: KINH NGHIỆM SỬ DỤNG CÁC CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP XÂY
DỰNG CHIẾN LƯỢC KH&CN Ở MỘT SỐ NƯỚC……….….………………………………102

I. Định hướng chiến lược KH&CN ở một số nước thuộc tổ chức OECD………………….… 102
II. Kinh nghiệm vận dụng cách tiếp cận “nhìn trước-foresight” trong xây dựng chiến lược
KH&CN của UNIDO………………………………………………………………………… 106
III. Kinh nghiệm xây dựng kế hoạch trung và dài hạn phát triển KH&CN 2006-2020 của Trung
Quốc…………………………………………………………………………………………….107
IV. Xây dựng Lộ trình công nghệ quốc gia theo cách tiếp cận hệ thống đổi mới: Kinh nghiệm Hàn
Quốc…………………………………………………………………………………………… 110
V. Kinh nghiệm Úc trong mở rộng khái niệm ưu tiên KH&CN và điều phối các ưu tiên KH&CN
ở tầm quốc gia………………………… ………………………… ………………………… 110
VI. Kinh nghiệm New Zealand trong sử dụng cách tiếp cận “nhìn trước” làm công cụ xác định ưu
tiên, thu hẹp sự phân tán và dàn trải trong đầu tư cho
KH&CN……………………………………………… ………….…………………………… 111
VII. Kinh nghiệm Hungary trong xây dựng các kịch bản ở tầm vĩ mô……….…………………112
VIII- Kinh nghiệm của Cộng hoà Séc trong sử dụng forresight để xác định các hướng nghiên cứu
và các công nghệ ưu tiên ……………………………………….………………………………112
IX. Kinh nghiệm Nhật Bản …………………………………….………… … ….………… 115

III.Lựa chọn quy trình tổ chức xây dựng chiến lược … …….…………………….………….201

Kết luận và khuyến nghị……………………………………………………………………….212

Tài liệu Tham khảo ……….……………………………………………… 226

Phần Phụ Lục………… ……………………………………………………………………….231
4
Danh mục các từ viết tắt trong Báo cáo

1) Tiếng Việt:

CLPTKH&CN: Chiến lược phát triển KH&CN
CNH: Công nghiệp hóa
CNTT: Công nghệ thông tin
CNVL: Công nghệ vật liệu
CNSH: Công nghệ sinh học
CSKH&KT: Chính sách khoa học và kỹ thuật
HĐH: Hiện đại hóa
HĐBT: Hội đồng Bộ trưởng
HTĐM: Hệ thống đổi mới
HTĐMQG: Hệ thống đổi mới quốc gia
KH: Khoa học
KH-CN-ĐM: Khoa học – công nghệ - đổi mới
KH&CN: Khoa học và công nghệ

KH&KT: Khoa học và kỹ thuật

ổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp quốc
WTO: Tổ chức Thương mại Thế giới

5
Lời nói đầu

Lý do nghiên cứu

Tháng 1 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam độc lập tiến hành xây dựng Đề cương chiến lược phát triển kinh tế-
xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020 để trình Chính phủ. Hoạt động KH&CN được coi
vừa là nền tảng và động lực, vừa là khâu đột phá của quá trình CNH-HĐ
H đất nước, sẽ
phải là một trong những căn cứ, nội dung và giải pháp chủ yếu cho Chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội đất nước giai đoạn 2011-2020, thực hiện mục tiêu đưa nước ta về cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nghiên cứu này được tiến hành để
chuẩn bị cơ sở lý thuyết, cách tiếp cận, ph
ương pháp và quy trình tổ chức xây dựng Chiến
lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020.

Những vấn đề về lý luận và thực tiễn đặt ra cần nghiên cứu

Tổng kết những bài học chưa thành công trong lĩnh vực kế hoạch hoá, xây dựng và thực
thi chiến lược phát triển nói chung và chiến lược phát triển KH&CN nói riêng ở nước ta
trong thời gian qua có thể thấy trong số nhiều nguyên nhân, nguyên nhân cơ bản là do
không làm rõ nhữ
ng vấn đề cốt yếu sau:

Thứ nhất: Chiến lược là gì, nội hàm của khái niệm chiến lược bao gồm những nội dung
gi? và tầm quan trọng của nó ở chỗ nào?

cấp các giải pháp KH&CN, thể hiện sự
đồng thuận, tham gia và phối hợp của tất cả các
thành phần trong hệ thống đổi mới quốc gia? Và tại sao lại cần phải như vây?

Thứ năm: Việc xây dựng chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020
nếu theo cách tiếp cận hệ thống đổi mới quốc gia nêu trên thì cần, có thể và nên được tiến
hành bằng những phương pháp và theo một quy trình như thế nào? Tại sao lạ
i như vậy?
Và triển vọng của việc áp dụng những phương pháp và quy trình đó trong xây dựng Chiến
lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020 là ở chỗ nào?

Trên đây là 5 nhóm vấn đề, đồng thời cũng là 5 nhóm câu hỏi nghiên cứu về cả lý luận và
thực tiễn mà đề tài đặt ra với mong muốn làm rõ để có thể cung cấp những thông tin tham
khảo ban đầu cho các cơ quan quản lý chuẩn bị cho quá trình xây dựng Chi
ến lược phát
triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020.

Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu của Đề tài

Với mục đích chủ yếu là cung cấp tài liệu tham khảo cho các cơ quan hoạch định Chiến
lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020 và do hạn hẹp về thời gian và
kinh phí, Đề tài đã không được khuyến khích thử nghiệm cách tiếp cận, phương pháp và
quy trình tổ chức xây dựng chiến lượ
c mà Đề tài đề xuất cho một số tỉnh, thành phố theo
như mong muôn của nhóm nghiên cứu (Biên bản góp ý của Hội đồng xét duyệt Thuyết
minh Đề tài). Đề tài do vậy đã tập trung giới thiệu, phân tích, lựa chọn một số lý thuyết sử
dụng để tiếp cận chiến lược KH&CN trong đó chủ yếu là Lý thuyết phức tạp và hỗn độn,
Lý thuyết đổi mới, Cách tiếp c
ận tham dự, Cách tiếp cận “nhìn trước-foresight”, Cách tiếp
cận chùm đổi mới. Các lý thuyết và cách tiếp cận này là cơ sở để lựa chọn các phương

KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020, chúng tôi xin nhận những thiếu sót về phía
mình và nghiêm túc tiếp thu những ý kiến góp ý của các cơ quan, cá nhân có liên quan để
có thể kịp thời sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu trong thời gian sớm
nhất. Xin chân thành cám ơn .

Hà Nội , tháng 11 năm 2008,
Chủ nhiệm Đề tài
NGUYỄN MẠNH QUÂN. 8

Trong 5 nhóm câu hỏi nghiên cứu mà Đề tài đặt ra, cho đến nay, câu hỏi tưởng chừng đơn
giản, “Chiến lược” là gì vẫn chưa có được một quan niệm thống nhất. Việc làm rõ khái
niệm cơ bản này do vậy sẽ là xuất phát điểm, là tiền đề xác định nội dung, lựa chọn
phương pháp và quy trình tổ chức xây dựng chiến lược phát triển KH&CN. Phần Một của
Báo cáo nghiên cứu này được dành để
phân tích và lựa chọn một cách hiểu và xác định
nội hàm của khái niệm chiến lược sẽ được sử dụng trong đề tài.

I- NGUỒN GỐC KHÁI NIỆM “CHIẾN LƯỢC”

Như đã biết, thuật ngữ chiến lược có xuất xứ từ lĩnh vực quân sự. Trong tiếng Hy lạp gốc,
“strategos” có nghĩa là một vị tướng
1
. Mặc dù chiến tranh gắn với lịch sử phát triển loài
người từ xa xưa nhưng chiến lược quân sự như một bộ phận hợp thành của nghệ thuật chỉ


9
đều cùng có nhu cầu về lựa chọn mục tiêu và xác định cách thức phối hợp hành động để
đạt được mục tiêu, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế thế
giới với vô số mục tiêu, cách thức và con đường phát triển khác nhau để mỗi quóc gia,
mỗi tổ chức có thể xe xét, lựa chọn. Những lựa chọn chiến lược này thường quyết định
tương lai, tiền
đồ của cả một dân tộc và quốc gia như trong thực tế đã cho thấy.

Theo GS.Nguyễn Quang Thái: “Bất cứ làm việc lớn nhỏ gì, chúng ta đều cần có chiến
lược phát triển tương ứng, làm rõ mục tiêu, giải pháp và cơ chế điều hành thực hiện chiến
lược. Việc xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển đất nước là công việc hệ trọng, có
liên quan đến nhiều m
ặt của đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, ngoại giao, của
đất nước.”
2
.

Tuy nhiên thực tế cũng có quan điểm cho rằng chiến lược chỉ là cái “mốt” , viển vông, xa
xỉ và không nhất thiết phải dành quá nhiều công sức để xây dựng trong khi chỉ cần điều
chỉnh kịp thời các trục trặc tức thời của hệ thống là có thể đảm bảo cho hệ thống tự vận
hành theo xu thế vốn có của nó, nhất là khi hệ thống nói tới chỉ là m
ột hệ thống con trong
một hệ thống lớn hơn vốn đã và đang vận hành ổn định.

Theo chúng tôi, khi bàn vê quan điểm này cần xét đến nguyên nhân sâu xa hơn đó là khả
năng của chủ thể có thể tác động đến đâu, làm chủ đến đâu, phạm vi nào trong một đối
tượng quản lý nhất định. Nói rộng ra có nghĩa là khả năng làm chủ tự nhiên, làm chủ xã
hội, làm chủ
một đất nước, một địa phương, một vùng lãnh thổ, một tổ chức, một loại hoạt

t kỳ ở hoàn cảnh
nào, thời điểm nào cũng phải có chiến lược đúng để đạt cho được mục tiêu; việc xây dựng
chiến lược bao gồm cả bổ sung, điều chỉnh chiến lược, lúc nào cũng rất cần thiết, chứ
không phải chỉ do những điều kiện mới và yêu cầu mới của đất nước ta hiện nay mà phải
xây dựng chiến l
ược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020”.

Có thể mọi người đều đồng ý với định nghĩa nêu trên của nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn
Khánh, và không có ý kiến gì khác, nên trong quyển sách quan trọng tập hợp những ý kiến
của những chuyên gia lớn của nước ta “Bàn về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam trong thời kỳ mới” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư xuất bản tại Hà Nội , tháng 9-2007,
không có tác giả nào nêu ra một định nghĩa nào khác về chiến lược. Theo định nghĩa trên,
quá trình xây dựng văn bản chiến lược kinh tế - xã hội sẽ gồm các bước chính sau đây:
• Xác định một cách chính xác mục đích – mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 10
năm 2011-2020;
• Bố trí tổng thể các nguồn lực, các giải pháp để đạt được mục đích – mục tiêu tổng
quát đó;
• Tiến hành th
ường xuyên những bổ sung, điều chỉnh chiến lược trong quá trình thực
hiện chiến lược.
Một số tác giả khác lại cho rằng, nhiệm vụ của “Chiến lược” phải giải quyết cả ba vấn đề:

• Định rõ mục tiêu cần đạt tới.
• Chí rõ con đường cần đi, và
• Hướng phân bổ nguồn lực để đạt
được mục tiêu đã lựa chọn.

Điểm lại các tài liệu bàn về vấn đề này, tuy có nhiều cách diễn đạt khác nhau như: “chiến
lược là chương trình hành động ” , là “ Tổ hợp các mục tiêu dài hạn và con đường để đạt
tới các mục tiêu đặt ra”, v.v nhưng sự khác biệt chủ yếu thể hiện ở việc sắp xếp mối

n có phù hợp không. Và mỗi
khi các phương án cân đối nguồn lực không đáp ứng yêu cầu thì phải xem xét lại cả mục
tiêu và chiến lược.

Về tầm quan trọng của việc xác định “Mục tiêu” ngay cả các tác giả tách hai phần “Mục
tiêu” và “Chiến lược” thành hai phần riêng biệt, cũng cho rằng việc làm rõ mục tiêu cần
đạt có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nếu thiếu mục tiêu hành động chung cho cả hệ thống,
thì các phân hệ sẽ
chạy theo các mục tiêu cục bộ của mình, và thậm chí, nhiều khi còn
chống đối lẫn nhau, và không thể có được hành động thống nhất. Mục tiêu thống nhất
cũng sẽ quy định tiêu chuẩn đánh giá tính hợp lý của hướng hành động lựa chọn, và thước
đo hiệu quả đạt được, và định hướng chung cho toàn bộ hoạt động của cả hệ thống.

Nhiều tác gi
ả cho rằng: Nếu xác định mục tiêu không đúng, hoặc sai lạc có nghĩa là chúng
ta đã chạy theo giải quyết một vấn đề đặt ra không “trúng” ngay từ đầu và điều đó sẽ dẫn
tới sự phung phí nguồn lực. Điều này còn nguy hiểm hơn so với trường hợp giải quyết
không có hiệu quả một vấn đề được đặt ra đúng đắn. 4
Nguyễn Khánh (2007), Một số ý kiến về Đề cương chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2011-2020, in trong
sách “Bàn về chiến lược phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam trong thời kỳ mới”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội,
2007.tháng 9-2007; trang 4-10 12
Như vậy có thể nhận xét rằng, cho đến nay, một cách truyền thống, trong giới nghiên cứu
chiến lược ở nước ta, nội hàm khái niệm chiến lược chủ yếu mới chỉ được đưa vào và
nhấn mạnh 3 yếu tố chủ yếu: 1) Mục tiêu; 2) Giải pháp và 3) Nguồn lực thực hiện. Cần

ở quan hệ tuần tự trong chu trình quản lý trước tiên phải đưa ra dự báo, sau đó dựa trên
các dự báo để hoạch định chiến lược. Sau khi có chiến lược rồi mới cụ thể hoá chiến lược
thành quy hoạch, kế ho
ạch và các chương trình và dự án. Hầu như không có các liên hệ
ngược lại nghĩa là thông qua việc thực hiện các quy hoạch các chương trình và dự án để
điều chỉnh lại các mục tiêu chiến lược ban đầu.

Trong thực tế, việc xem xét, đánh giá, tổng kết việc thực hiện các chiến lược thường
không mấy khi được tiến hành, hoặc nếu có tiến hành thì cũng chỉ diễn ra vào cuối kỳ
chiến l
ược, thường là sau 10 năm và khá là hình thức. Thông thường chỉ có các kế hoạch 5

13
năm, kế hoạch hằng năm, các chương trình và dự án cụ thể là được đưa ra xem xét, đánh
giá và tổng kết. Mối quan hệ giữa dự báo, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình
và dự án thường “đứt đoạn”, không tường minh hoặc không xác lập được. Ngay cả khi các
kế hoạch 5 năm, kế hoạch hằng năm, các chương trình và dự án cụ thể được đưa ra xem
xét, đánh giá và t
ổng kết thì cũng không liên hệ với chiến lược để điều chỉnh chiến lược
đã xác định. Chính vì vậy, sự hiện diện của các chiến lược sau khi được phê duyệt hầu
như không được nhận biết và chiến lược một khi đã được phê duyệt là xong, “nằm im bất
động” và sẽ chỉ được nhắc đến trong tương lai 10, 15 năm năm sau khi bắt đầu xây dựng
m
ột chiến lược mới.

Hiện trạng nêu trên cho thấy một thực tế là chiến lược sau khi được xây dựng thường có
quá ít vai trò, tác dụng trong thực tiễn. Trong khi đó, các hoạt động tác nghiệp trong quản
lý thì nổi lên hàng ngày gắn với các hoạt động thường xuyên của các dự án, các chương
trình thì lại không thấy hoặc có liên quan rất ít đến chiến lược.


án có sự hiện diện của chiến lược và trong một chiến lược phải thấy được các quy hoạch,
các chương trình và dự án cụ thể để đạt tới các mục tiêu chiến lược dài hạn và thể hiện
được các phương tiện và nguồn lực được bố trí để thực thi chiến lược dài hạn. Theo quan
niệm này, nếu một chiến lược được đề xuất mà không hoặc chưa rõ sẽ
được thực hiện cụ
thể thông qua các quy hoạch và kế hoạch, các chương trình và dự án nào thì coi như chưa
có chiến lược.

Điều cần lưu ý ở đây là việc đưa các quy hoạch, kế hoạch, các chương trình và dự án cụ
thể vào trong nội hàm khái niệm chiến lược không có nghĩa là đồng nhất, hay đánh đồng
giữa chiến lược và các quy hoạch, kế hoạch, các chương trình và dự án cụ thể. Không th

không đồng ý với quan điểm cho rằng mỗi một trong các công cụ, chiến lược hay các quy
hoạch, kế hoạch, các chương trình và dự án cụ thể đều có những chức năng riêng của nó.
Chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm của tác giả Nguyễn Khánh rằng “nội dung của
chiến lược không được trùng với quy hoạch và kế hoạch”
5
. Chiến lược có sứ mạng riêng
của nó nhưng nó cũng không thể đứng riêng rẽ, độc lập và tách rơi với các quy hoạch, kế
hoạch, các chương trình và dự án cụ thể. Và khi nó độc lập với các hoạch, các chương
trình và dự án cụ thể thì nó sẽ không thể có tác dụng thực tiễn nào. Việc đưa các quy
hoạch, kế hoạch, các chương trình và dự án cụ thể vào trong nội hàm khái niệm chiến
lược là nhằ
m bảo đảm được tác động qua lại lần nhau giữa chiến lược và các các quy
hoạch, kế hoạch, các chương trình và dự án cụ thể được xử lý và thông qua đó làm sống
động thêm vai trò và ý nghĩa của chiến lược dài hạn trong các khoảng thời gian trung hạn,
ngắn hạn cũng như là các hoạt động thực thi các chương trình, dự án, các kế họach và quy
hoạch.

Thật ra, nếu xét một cách khách quan thì việc hình thành các khái niệm chiến lược, quy

tính bắt đầu từ Cương lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền (đường lối), chiến lược, chính
sách, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển 5 năm và hằng năm. Chiến lược
nên được hiểu là phạm trù tổng thể bao quát tòan bộ các ý đồ, toàn bộ các cục diện và các
diễn tiến củ
a các ý đồ đó trong các hoạt động thực tiễn.

Tại nhiều nước trong khối xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có Việt Nam, tồn tại gần
như một chuẩn mực nhận thức về “hệ thống các công cụ chính sách” bao gồm nhiều tầng
nấc trong đó “chiến lược” luôn được quan niệm là các mục tiêu và giải pháp dài hạn được
cụ thể hoá từ Cương lĩ
nh chính trị của Đảng cầm quyền và trên cơ sở đó (chiến lược)
người ta xác định đường lối, chính sách, kế hoạch phát triển 5 năm và hằng năm. Đặc
biệt, chiến lược được phân biệt với sách lược, theo nghĩa là đường lối cơ bản, lâu dài và
tương đối ổn định. Trong khi đó, sách lược là những giải pháp tình thế, trước mắt, có thể
linh hoạt thay đổi tuỳ theo nh
ững biến động của tình hình thực tế. Theo quan niệm này,
“chiến lược” phải ổn định, còn “sách lược” phải linh hoạt và không thể ngược lại. Một
quan niệm cứng nhắc và máy móc như vậy về chiến lược vô hình trung đã đặt vị trí và xác
định vai trò của chiến lược chỉ là một công cụ trung gian nằm giữa cương lĩnh và các hành
động thực tiễn chứ không phải là bản thân các hành động đang tiế
n hành trong thực tiễn. Chi
ến
L
ư
ợc
Quy hoạch, Kế hoạch
Chính Sách, Biện pháp

Qua phân tích các chiến lược đựơc coi là thành công trong thực tiễn ở nhiều lĩnh vực hoạt
động khác nhau, nhiều học giả đã chỉ ra một số yêu cầu quan trọng sau:

Thứ nhất: Mục tiêu của chiến lượ
c dù định tính hay định lượng thì cũng phải rõ ràng,
tường minh có thể
• Mục tiêu đề ra phải đơn giản, tương thích/phù hợp, và dài hạn
• Phải hiểu thấu đáo môi trường bên ngoài, đặc biệt là môi trường cạnh tranh.
• Phải đánh giá khách quan nguồn lực có được từ đó để tìm ra cách phát huy các thế
mạnh và khắc phục các mặt yếu.
• Phải có được cơ chế chỉ
đạo thực thi chiến lược thật sự có hiệu quả. Nếu không
quan tâm tới khâu chỉ đạo thực thi chiến lược, thì ngay cả một chiến lược được coi
là “hay” cũng ít có tác dụng trong thực tiễn. Hơn thế nữa, điều này cũng cần được
dự liệu ngay trong quá trình soạn thảo chiến lược, chứ không phải là công việc
“hậu chiến lược”.

Đây được xem vừa là
các yêu cầu, đòi hỏi cần đặt ra ngay trong quá trình phân tích, chọn
lựa chiến lược, vừa là các tiêu chí để đánh giá mức độ thành công của một chiến lược. 17
Với quan niệm và yêu cầu như trên về chiến lược, quá trình xây dựng chiến lược phải bao
gồm và bắt đầu bằng hoạt động dự báo, xác định tầm nhìn dài hạn và mục tiêu dài hạn,
đưa ra các giải pháp, chính sách thực thi bằng các nguồn lực được bố trí hợp lý theo các
quy hoạch, kế hoạch và thông qua lộ trình thực hiện với các chương trinh, dự án cụ thể.
Quá trình làm chiến lược theo quan niệm nêu trên không kết thúc sau khi Văn bả
n chiến
lược được phê duyệt mà vẫn phải tiếp tục được cụ thể hóa thành các quy hoạch, kế

ục tiêu dài hạn
đã đặt ra; (3) Cơ chế điều chỉnh các mục tiêu và giải pháp cho phù hợp với những biến
động của tình hình thực tiễn.
18 Việc lựa chọn các khái niệm về “Chiến lược”, “KH&CN”, “Chiến lược KH&CN”,
phương pháp và quy trình tổ chức xây dựng chiến lược phát triển KH&CN của một quốc
gia một mặt cần phải được luận cứ bằng những cơ sở lý thuyết nhất định đã được khái
quát. Mặt khác sự phát triển của khoa học và công nghệ trên thế giới cho đến nay cũng đã
cung cấ
p nhiều lý thuyết khác nhau có thể sử dụng để soi sáng và luận cứ cho các lựa chọn
khái niệm, phương pháp và quy trình tổ chức xây dựng chiến lược KH&CN. Trong phần
này, Đề tài sẽ trình bày một số lý thuyết có liên quan sử dụng để luận cứ cho các đề xuất
và khuyến nghị về khái niệm, phương pháp và quy trình tổ chức xây dựng Chiến lược
phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020.

I. LÝ THUYẾT PHỨC TẠP VÀ HỒ
N ĐỘN

Suy cho cùng, tất cả các chiến lược dù là chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, chiến lược

ngày càng nhỏ hơn cho tới khi những mảnh này vẫn còn có thể hiểu được. Sử dụng cách
tiếp cận này, chúng ta đã bỏ qua bức tranh toàn cảnh to lớn. Chúng ta có thể biết được mỗi
con kiến cá thể nhưng không biết về hoạt động của cả tổ kiến. Mổ xẻ một con chuột chẳng
cho ta biết
được gì về một con chuột sống. Đôi khi các tương tác của các bộ phận lại trở
thành mấu chốt để hiểu toàn bộ hệ thống. Đây chính là nội dung nghiên cứu của Lý thuyết
Phức tạp (LTPT). LTPT thích hợp cho nghiên cứu hàng loạt vấn đề, từ phân luồng giao
thông, mạng lưới hàng không, động đất tới các vấn đề kinh tế-xã hội như thị trường chứng
khoán, quy hoạch đô thị
, sự phát triển của các hệ sinh thái, v.v.đặc biệt là khi cần đưa ra
chiến lược để điều khiển các hệ thống mà về bản chất là phức tạp.

LTPT và Hỗn độn là những khoa học mới, chúng chỉ thực sự phát triển từ sau khi ra đời
những thế hệ máy tính có thể đảm nhiệm một khối lượng tính toán khổng lồ cần thiết để
khám phá những bí mậ
t của sự phức tạp. Giáo sư Stephen Hawking cũng như nhiều nhà
khoa học khác, đã khẳng định: “Thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của Lý thuyết Phức tạp”. Bên cạnh
đó, LTPT đã góp phần tạo nên một mô thức tư duy mới, tư duy hệ thống, bổ sung cho
những khiếm khuyết của mô thức tư duy cũ, tư duy cơ giới và tất định của các thế kỷ
trước.

LTPT hoặc nói cách khác, Khoa học hệ thống hiện đại, có thể sẽ không cho ta nhiều hiểu
biết dưới dạng các định lý được chứng minh chặt chẽ một cách duy lý, nhưng kết hợp các
nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn sẽ cung cấp cho con người một cách tiếp cận mới phù
hợp với cuộc sống hiện đại, đặc biệt trong việc tìm lời giải cho các bài toán bí ẩn về vũ

trụ, tự nhiên, sự sống, trí tuệ, về quan hệ giữa vật chất và tinh thần, và đặc biệt là trong
quản lý các hoạt động thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng sống của bản thân con người,
phát triển các công cụ quản lý kinh tế và xã hội năng động và sáng tạo phục vụ hạnh phúc
của con người. Đây là một lĩnh vực khoa học mới, như một số nhà khoa học

tính đều thất bại. Và nếu chúng ta đã không thể tính toán được chuyển động của 3 vật thể,
thì làm sao có thể dự báo được kết quả của các hệ thống mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày
với hàng triệu, hàng tỷ bộ phận tương tác với nhau, thí dụ hệ thống đổi mới của một vùng,
một quốc gia?
Trong những năm 1940, lĩnh vực Điều khiể
n học (Cybernetics) đã phát triển, Louis
Kauffmann, chủ tịch Hiệp hội Hoa Kỳ về Điều khiển học (American Society for
Cybernetics) đã định nghĩa: “Điều khiển học là lĩnh vực nghiên cứu các hệ thống và các
quá trình tương tác với nhau và sản sinh ra nhau”. Điều khiển học đã liên kết nhiều lĩnh
vực nghiên cứu từ các hệ thống điều khiển tới lý thuyết mạng đi
ện, sinh học tiến hóa.
Norbert Wiener và W. Ross Ashby là những người tiên phong quan trọng trong lĩnh vực
Điều khiển học. John van Neumann cũng đã là người có nhiều ảnh hưởng trong những
nghiên cứu ban đầu về các hệ tự động (automata) tế bào. Điều khiển học đã phát triển và
tàn lụi dần trong nhiều năm. Từ khi nó liên kết được nhiều lĩnh vực kiến thức, nó đã trở
nên mạnh mẽ bở
i những lĩnh vực đang phát triển. LTPT là một trong những ngành khoa
học lấy cảm hứng từ đó, nhưng nó đã tiếp tục phát triển theo hướng riêng của mình.
Ludwig van Bertalanffy là một trong những người đầu tiên đã thúc đẩy Lý thuyết Hệ
thống tổng quát (General Systems Theory) đã phát triển cùng vào thời gian đó. Ông nhấn
mạnh rằng hệ thống đóng truyền thống không thể giải thích được các dạng hệ thống trong
thế giới của chúng ta. Tác phẩm của ông đã ảnh hưởng tới Điều khiển học và dẫn tới công
trình về các hệ thống tiêu tán (dissipative systems). Lý thuyết Hệ thống Tổng quát đã nhấn
mạnh tính toàn thể (holism) hơn là tính quy giản (reductionism) và tính tổ chức (organism)
hơn là tính cơ giới (mechanism). Van Bertalanffy đã xem công trình của mình đặc biệt
thích hợp đối với các hệ thống xã hội và đã được sử dụng trong các lĩ
nh vực nhân chủng
học, kinh tế học, khoa học chính trị và tâm lý học. Margaret Mead và Gregory Bateson đã
hỗ trợ phát triển Lý thuyết Hệ thống Tổng quát trong các khoa học xã hội.
Trong những năm 1960, nhà thiên văn học Ed Lorenz dùng máy tính để chạy một chương

Vào năm 1971, David Ruelle và Floris Takens đã phát hiện được những tập hút lạ (cũng
được coi là các tập hút hỗn độn- chaotic attractors). Họ đã chiếu chúng lên một không gian
pha với mỗi chiều ứng vớ
i một biến của hệ thống. Điều này cho phép ánh xạ một cách
chính xác một hệ thống và động học (dynamics) của nó.

Illya Prigogine đã nghiên cứu trong lĩnh vực các hệ thống tiêu tán (dissipative systems).
Ông đã nhận giải Nobel về lĩnh vực này. Một hệ thống tiêu tán là một hệ thống duy trì
hình dạng hiện hành hoặc đồng nhất vì có một dòng năng lượng chảy qua hệ thống. Cơ thể
chúng ta là một hệ
tiêu tán bởi vì nó được duy trì bởi một số dòng năng lượng, chẳng hạn
như thực phẩm, nước, không khí và cả những kích thích của môi trường và các quá trình
nhận thức. Những hệ thống tiêu tán hoạt động cách xa với trạng thái cân bằng và không tại
một điểm cân bằng như người ta vẫn nghĩ. Prigogine đã tìm thấy những hệ thống tiêu tán
hóa tính có ứng xử kỳ lạ chẳng hạn như thay
đổi hóa học màu sắc một cách nhịp nhàng.
Làm thế nào mà các phân tử trong hỗn hợp biết được khi nào thì cần thay đổi màu?
Mitchel Feigenbaum, vào cuối thập niên 1970, đã phát hiện sự gấp đôi chu kỳ (period

22
doubling). Theo Ông đây là cách thông thường để trật tự biến thành hỗn độn. Ông đã tìm
được những tỷ lệ tuần hoàn trong việc nhân đôi chu kỳ, ngày nay gọi là các số
Feigenbaum (Feigenbaum Numbers). Chẳng hạn, các số Feigenbaum cũng được tìm thấy
trong việc nhân đôi chu kỳ dẫn tới các cơn đau tim.

Rene Thom đã phát triển Lý thuyết Tai biến (Catastrophe Theory) dựa trên việc nghiên
cứu cách thức một hệ thống phức tạp chia đôi hoặc rẽ nhánh. H
ệ thống đó sẽ đạt tới điểm
tới hạn (critical point) qua việc gấp đôi chu kỳ và phải hoặc sụp đổ thành hỗn độn hoặc tự
tổ chức lại để đạt tới một mức độ phức tạp mới. R. Thom đã khảo sát sự nhảy vọt biến


Có thể thấy lĩnh vực khoa học này được xem xét trong những ngữ cảnh riêng biệt và hiện
nay chưa có sự đồng thuận về một định nghĩ
a tổng quát cho các hệ thống phức tạp. LTPT

7


23
vẫn đang tiếp tục phát triển, tuy chậm chạp nhưng chắc chắn đang hòa vào với dòng
nghiên cứu khoa học chính thống với nhiều lĩnh vực nghiên cứu mới đang mở ra.

Nghiên cứu các hệ thống phức tạp đang mang lại sức sống mới cho nhiều lĩnh vực khoa
học khi mà chiến lược giản quy, điển hình của cách tư duy khoa học cũ, ngày càng tỏ ra
khiế
m khuyết. Các hệ thống phức tạp, do đó, thường được dùng như một thuật ngữ rộng
bao quát một cách tiếp cận nghiên cứu những vấn đề trong nhiều bộ môn khoa học khác
nhau bao gồm các khoa học về thần kinh, các khoa học xã hội, thiên văn học, hóa học, vật
lý, khoa học tính toán, tâm lý học, cuộc sống nhân tạo (artificial life), tính toán quá trình
tiến hóa (evolutionary computation), kinh tế học, dự báo động đất, sinh học phân tử và
những nghiên cứ
u về bản chất của chính các tế bào sống. Xã hội loài người (và có thể cả
bộ não con người) là những hệ thống phức tạp trong đó cả các thành phần lẫn những ghép
nối chúng đều không đơn giản.

3. Lý thuyết phức tạp và tư duy hệ thống

LTPT cùng với những thành tựu khoa học mới, đăc biệt là những thành tựu sau đây, khám
phá ra tính giới hạn của nhận thứ
c con người

hợp với sự sống. Nếu biết rằng các bong bóng vũ trụ không thể liên lạc với nhau, sẽ
hiểu cái giới hạn về nguyên lý mà lý thuyết đa vũ trụ đặt ra đối với khả năng nhận
thức. Chúng ta chỉ là những sinh linh nhỏ bé trong một bong bóng đang cố tìm hiểu
luật chơi. Một cố gắng thật đáng ngưỡng m
ộ, nhưng cũng thật đáng thất vọng;

GS.TS Phan Đình Diệu đã công bố 2 bài viết lý giải tường tận và sâu sắc những đặc điểm
của tư duy hệ thống và nhu cầu bức thiết phải đổi mới tư duy trong khoa học cũng như
trong giải quyết những vấn đề của cuộc sống hiện đại; nhất là những vấn đề thuộ
c về
chính trị, kinh tế, xã hội.
9
,
10Chúng tôi xin nêu ra ở đây những đặc điểm của tư duy hệ thống do Giáo sư Phan Đình
Diệu tóm lược trong các bài viết trên.

(1) Ðặc điểm chủ yếu của tư duy hệ thống là ở cách nhìn toàn thể và do cách nhìn toàn thể
mà thấy được những thuộc tính hợp trội (emergence) của hệ thống. Các thuộc tính hợp trội
là của toàn thể mà từng thành phần không thể có… Hợp trội là s
ản phẩm của tương tác,
qua tương tác mà có cộng hưởng tạo nên những giá trị cao hơn tổng gộp (aggregation) đơn
giản các giá trị của các thành phần. Ðể tạo nên được những thuộc tính hợp trội có chất
lượng cao của hệ thống, thì phải can thiệp vào các quan hệ tương tác, chứ không phải vào
hành động của các thành phần. Ðồng thời cũng cần chú ý là trong tiến hoá, qua việc tham
gia tương tác các thành phần góp phần t
ạo nên những tính chất hợp trội của hệ thống,
nhưng mặt khác, chính những tính chất hợp trội đó của hệ thống cũng làm tăng thêm phẩm

một quần thể tế bào trở thành một thực thể thống nhất có khả năng tự sinh sản, hay 2) cơ

chế tiến hóa và đặc tính chọn lọc tự nhiên đã thay đổi như thế nào giữa mức độ tổ chức
của thực thể đơn lẻ và của một nhóm các thực thể thống nhất
11
.

Tài năng của người lãnh đạo hay quản lý là ở chỗ trên cơ sở những hiểu biết tích luỹ được
mà điều khiển tốt những gì điều khiển được, gây ảnh hưởng đến những gì mà mình không
điều khiển được, và cố cảm nhận những gì mà mình cũng không gây ảnh hưởng được.
Một bản chiến lược cũng vậy, nó cần thể hiện đượ
c rõ ràng phương hướng và cách thức nó
sẽ điều khiển và tác động tới những gì có thể điều khiển được thuộc đối tượng của chiến
lược và cố gắng, có biện pháp lường trước những diễn biến, những kết cục mà chiến lược
không thể tác động được, nằm ngoài khả năng điều khiển hoặc tác động của chiến lược.

(2) Tính có mục tiêu cũng là một đặc điểm rất quan trong của các hệ thống phức tạp. Có
mục tiêu, chứ không phải có mục tiêu biết trước, được xác định từ đầu. Có thể có một mục
tiêu, mà cũng có thể có nhiều mục tiêu đồng thời. Vì hệ là mở, hoạt động trong môi
trường, nên muốn đạt mục tiêu của mình cũng cần biết mục tiêu của người, của các đối
tác
. Biết để cố "gây ảnh hưởng đến những gì mà mình không điều khiển được". Mục tiêu
của đối tác, nói dễ hiểu, là cái mà đối tác thích. Mà cái thích của con người thì không phải
bao giờ cũng dễ hiểu. Có cái thích hợp lẽ, ta có thể hiểu bằng những suy luận duy lý. Có
những cái thích theo cảm hứng, lại có những cái thích theo thị hiếu phù hợp với một văn
hoá nào đó, ta không thể dùng lý lẽ lôgích mà hiểu đượ
c. Không thể áp đặt cái thích của
mình cho người, không thể suy bụng ta ra bụng người; mà phải bằng trực cảm tế nhị và
nghiên cứu công phu để hiểu được cái lẽ tại sao mà họ làm những việc họ làm, họ thích
những cái họ thích, từ đó cảm nhận được lý do mục tiêu của những đối tác trong môi


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status