Nghiên cứu khả năng thích ứng của một số giống lúa loài phụ japonica tại huyện mù cang chải tỉnh yên bái - Pdf 14

DANH MỤC CÁC BẢNG
M UỞĐẦ 1
1. Tính c p thi t c a t iấ ế ủ đề à 1
2. M c tiêu c a t iụ ủ đề à 3
3. Yêu c u c a t iầ ủ đề à 3
CH NG 1ƯƠ 4
T NG QUAN TÀI LI U NGHIÊN C UỔ Ệ Ứ 4
1.1. C s khoa h c c a vi c nghiên c uơ ở ọ ủ ệ ứ 4
1.2. Tình hình nghiên c u v s n xu t gi ng lúa trên th gi i v Vi t Namứ à ả ấ ố ế ớ à ệ
6
1.3. Tình hình s n xu t v nghiên c u lúa trong n cả ấ à ứ ở ướ 17
CH NG 2ƯƠ 32
N I DUNG VÀ PH NG PHÁP NGHIÊN C UỘ ƯƠ Ứ 32
2.1. i t ng, a i m nghiên c uĐố ượ đị đ ể ứ 32
2.2. N i dung v ph ng pháp nghiên c u ộ à ươ ứ 32
2.3. K thu t áp d ngỹ ậ ụ 34
2.4. Các ch tiêu v ph ng pháp theo dõiỉ à ươ 35
CH NG 3ƯƠ 41
K T QU VÀ TH O LU NẾ Ả Ả Ậ 41
3.1. c i m khí h u th i ti t v Xuân 2011 v v Xuân 2012Đặ đ ể ậ ờ ế ụ à ụ 41
3.2. K t qu thí nghi m v Xuân 2011 v v Xuân 2012ế ả ệ ụ à ụ 43
K T LU N VÀ NGHẾ Ậ ĐỀ Ị 64
1. K t lu nế ậ 64
TÀI LI U THAM KH OỆ Ả 66
A. T i li u ti ng Vi t à ệ ế ệ 66
B. T i li u ti ng Anh à ệ ế 67
i
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Huyện Mù Cang Chải là địa phương nằm trong 61 huyện nghèo của cả
nước, tổng diện tích tự nhiên là 119.908,75 ha, trong đó diện tích đồi núi ở độ

hại kéo dài đã làm thiệt hại kinh tế rất lớn đối với người dân đặc biệt ảnh
hưởng đến công tác tăng vụ, an ninh lương thực vùng cao.
Nhằm giải quyết vấn đề tăng vụ ở vùng cao từ năm 2002 đến nay Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Yên Bái đã phối hợp với Ủy ban nhân
dân huyện Mù Cang Chải tổ chức xây dựng mô hình tăng vụ bằng các giống
lúa, ngô ngắn ngày nhưng không thành công nguyên nhân do nền nhiệt độ
thấp và điều kiện thời tiết khắc nghiệt vụ Xuân nên các loại cây trồng sinh
trưởng kéo dài không đảm bảo cơ cấu 2 vụ/năm. Năm 2010 diện tích lúa
ruộng là 2.400 ha, trong đó: diện tích gieo cấy lúa đông xuân 700 ha, diện tích
lúa mùa ruộng 2.400 ha. Như vậy có thể đánh giá tiềm năng để mở ruộng diện
tích lúa ruộng trong vụ Xuân còn rất lớn cần được khai thác. Tuy nhiên so với
các huyện, thị, thành phố khác, huyện Mù Cang Chải thuộc vùng khí hậu á
nhiệt đới gió mùa, mang đặc điểm ôn đới, nhiệt độ bình quân 18,5
0
C do đó
việc tăng vụ bằng các giống ngô, đậu tương gặp rất nhiều khó khăn.
Xuất phát từ thực tế chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu
khả năng thích ứng của một số giống lúa loài phụ Japonica tại huyện Mù
Cang Chải - tỉnh Yên Bái " nhằm lựa chọn các giống lúa phù hợp với điều
kiên tự nhiên, bổ sung vào cơ cấu giống cây trồng trên đất ruộng một vụ, ổn
định sản xuất lúa bền vững 2 vụ/năm và đảm bảo an ninh lương thực vùng
cao.
2
2. Mục tiêu của đề tài
Đánh giá khả năng sinh trưởng phát triển các giống lúa loài phụ
Japonica nhằm xác định được các giống lúa có năng suất chất lượng khá, khả
năng chịu lạnh tốt, phù hợp với điều kiện sinh thái vùng cao huyện Mù Cang
Chải, bổ sung cơ cấu giống lúa cho địa phương.
3. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển, năng suất của giống lúa

và sử dụng loại giống có độ thuần cao, phẩm chất giống tốt thì có thể nâng
cao được năng suất lúa lên từ 15-20% trở lên .
Các giống lúa khác nhau có khả năng thích ứng với điều kiện sinh thái,
thổ nhưỡng ở mỗi vùng khác nhau. Để xác định được giống tốt cho một vùng
sản xuất nào đó cần phải tiến hành khảo nghiệm, gieo cấy thử nghiệm qua
4
một vài vụ sản xuất để đánh giá khả năng thích ứng của giống đó. Do đó việc
xác định tính thích nghi của giống nào đó trước khi đưa ra sản xuất trên diện
tích rộng phải tiến hành bố trí gieo trồng tại nhiều vùng có đặc điểm sinh thái
khác nhau nhằm đánh giá khả năng thích ứng, độ đồng đều, tính ổn định, khả
năng chống chịu sâu, bệnh, mức độ chịu đất chua mặn, khả năng cho năng
suất, hiệu quả kinh tế của giống đó so với các giống đang gieo trồng đại trà
hiện có tại một khu vực hoặc một địa phương nào đó.
Ở đề tài này với mục tiêu đánh giá khả năng thích ứng của một số
giống lúa có triển vọng thuộc loài phụ Japonica với mục đích chuyển dịch cơ
cấu cây trồng có giá trị, thay thế những cây trồng hiện có chưa đáp ứng được
nhu cầu thực tiễn, cải tiến để đưa giống lúa có năng suất khá, chất lượng tốt
vào sản xuất phù hợp với điều kiện của nông dân và vùng sinh thái.
Cần phải thí nghiệm các giống lúa triển vọng, tạo ra sản phẩm hàng hoá
có giá trị kinh tế cao đáp ứng nhu cầu thị trường, sử dụng hợp lý phân bón,
thuốc trừ sâu, giống mới có triển vọng song vẫn đảm bảo có năng suất khá, sử
dụng nước tưới và các biện pháp kỹ thuật không khác nhiều so với tập quán
canh tác của địa phương.
Đối với lúa trong sản xuất hiện nay khi đưa giống mới vào sản xuất
người ta thường quan tâm đến thị hiếu người tiêu dùng và việc tiêu thụ sản
phẩm đó ra sao.
Trong thực tế sản xuất thì mỗi giống lúa đều có ưu, nhược điểm song
sự chuyển dịch cơ cấu giống lúa như thế nào để giải quyết được nhu cầu cấp
bách của người dân nghèo mà vẫn có lợi về mặt tài chính, đem lại hiệu quả
kinh tế cao và phù hợp với đặc điểm của vùng sản xuất, của một không gian,

10 Pakistan 2.365.000 30,59 7.235.000
Thế giới 159.416.542 43,68 696.324.394
(Nguồn FAOSTAT, 2012)
Qua bảng 1.1 ta thấy, các quốc gia sản xuất nhiều lúa gạo nhất trên thế
giới chủ yếu tập trung ở châu Á. Nước có diện tích trồng lúa lớn nhất là Ấn
Độ (42.560.000 ha), tiếp đến là Trung Quốc (30.117.262 ha) và sau đó là các
nước Inđônêxia, Bangladesh, Thái Lan,… Như vậy, diện tích trồng lúa của 10
quốc gia đứng đầu chiếm 83,82 % tổng diện tích trồng lúa của cả thế giới. Vì
vậy đây được coi là trung tâm sản xuất lúa gạo để cung cấp cho nhu cầu lúa
gạo của thế giới.
- Về năng suất lúa: Trong 10 nước trồng lúa nhiều nhất trên thế giới thì
Trung Quốc là nước có năng suất lúa cao nhất, đạt 65,48 tạ/ha cao hơn năng
suất trung bình của thế giới là 21,8 tạ/ha, tiếp theo là Việt Nam (53,22 tạ/ha)
cao hơn năng suất trung bình của thế giới là 9,54 tạ/ha và các nước khác như
Inđônêxia (50,15 tạ/ha, cao hơn nang suất trung bình của thế giới là 6,47
tạ/ha). Các nước còn lại là Bangladesh (42,79 tạ/ha), Brazil (41,27 tạ/ha),
6
Myanma (41,24 tạ/ha), Philippin (36,22 tạ/ha), Ấn Độ (33,83 tạ/ha) Pakistan
(30,59 tạ/ha) và thấp nhất là Thái Lan (28,75 tạ/ha) thấp hơn năng suất trung
bình của thế giới từ 0,89 tạ/ha đến 14,93 tạ/ha.
- Về sản lượng lúa: Đứng đầu trong danh sách các nước sản xuất lúa
nhiều nhất là Trung Quốc với 197.212.010 tấn, tiếp theo là Ấn Độ (143.963.000
tấn), và các nước còn lại là Inđônêxia (66.469.400 tấn), Bangladesh
(50.061.200 tấn), Việt Nam (39.988.900 tấn),… Như vậy, sản lượng lúa của
10 quốc gia đứng đầu chiếm 85,7 % tổng sản lượng lúa gạo của cả thế giới.
Sản lượng lúa gạo trong một số năm trở lại đây có mức tăng trưởng
đáng kể nhờ việc mở rộng diện tích đất trồng lúa, cùng với việc đầu tư thâm
canh, sử dụng các giống lúa mới có tiềm năng năng suất cao, xây dựng đường
xá giao thông, hệ thống thuỷ lợi tưới tiêu, hoàn chỉnh các biện pháp kỹ thuật.
Hiện tại, nhu cầu lúa gạo về phẩm chất rất khác nhau tùy từng vùng và

Chúng được xác định bởi sự khác biệt về một vài đặc điểm theo những chỉ
tiêu quan trọng quy định chung cho phần lớn các nước châu Á và Châu Phi:
hình dáng, kích cỡ, hàm lượng Amylose, màu nội nhũ và mùi thơm
Ceng Y.W; Chen Y và Dai L.Y (1998) cho rằng lúa nếp hoặc lúa
Waxy, lúa thơm, lúa màu (lúa đỏ, lúa tím, lúa đen), lúa nương - japonica, lúa
dẻo (soft rice), lúa boutique, lúa nấu rượu, lúa vô cơ, lúa có phẩm chất dinh
dưỡng, đều thuộc lúa đặc sản và khái niệm về lúa đặc sản cổ truyền, lúa đặc
sản cải tiến là khái niệm để phân biệt lúa đặc sản bản địa và lúa đặc sản mới
chọn tạo.
8
1.2.2. Tình hình nghiên cứu lúa trên thế giới
Trên thế giới người ta quan tâm đến việc bảo tồn nguồn gen nói chung,
và nguồn gen cây lúa nói riêng. Ngay từ những năm 1924 Viện nghiên cứu cây
trồng Liên Xô (cũ) đã được thành lập, nhiệm vụ chính là thu nhập và đánh giá
bảo tồn nguồn gen cây trồng. Tổ chức Lương thực và nông nghiệp Thế giới
(FAO) đã tổng hợp các kết quả nghiên cứu và đề ra phương hướng thúc đẩy
việc xây dựng ngân hàng gen phục vụ cho việc giữ gìn tài nguyên thiên nhiên
nhằm phục vụ lợi ích lâu dài của nhân loại. Trong vùng nhiệt đới và á nhiệt đới
đã hình thành nhiều tổ chức quốc tế, đảm nhận việc thu thập tập đoàn giống
trên thế giới đồng thời cung cấp nguồn gen để cải tạo giống lúa trồng [11].
Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế với tên tiếng Anh là International
Rice Research Institute (IRRI) ở Los Banos, Philippines đã bắt đầu chương
trình thu thập, bảo tồn và đánh giá các giống cổ truyền và các cây lúa dại từ
năm 1962. Từ khi thành lập IRRI đã tiến hành thu thập nguồn gen cây lúa,
năm 1977 chính thức khai trương ngân hàng gen, tại đây đã thu thập tập đoàn
cây lúa từ 110 quốc gia trên Thế giới trong bộ sưu tập có hơn 80 nghìn mẫu,
trong đó các giống lúa trồng ở châu Á (O. sativa) chiếm đến 95% [32].
Khoảng 90.000 giống lúa trồng trên khắp thế giới đã được tồn trữ ở IRRI và
cùng một số lượng giống lúa này được IRRI gửi bảo quản ở Phòng Khảo
nghiệm tồn trữ hạt giống quốc gia Mỹ (US. National Seed Storage

nhiễm mặn, hạn hán, úng lụt [31].
Các nhà khoa học Ấn Độ và Nhật Bản là những người đầu tiên đề xuất
mở rộng sản xuất lúa lai thương phẩm [29]. Tại viện nghiên cứu lúa quốc tế -
IRRI các nhà khoa học đã xây dựng chương trình nghiên cứu về lúa lai làm cơ
sở cho phát triển sản xuất lúa lai thương phẩm. Song tất cả họ đều chưa thành
công vì chưa tìm ra phương pháp thích hợp để sản xuất hạt lai [30]. Nhưng
việc nghiên cứu chọn tạo giống lúa không chỉ dừng lại ở đó, sự miệt mài của
các nhà khoa học ở Viện nghiên cứu lúa Quốc tế đã lai tạo chọn lọc hàng trăm
giống lúa tốt được gieo trồng phổ biến trên thế giới. Các giống lúa IR5, IR6,
10
IR8, IR30 và những giống lúa khác đã tạo ra sự nhảy vọt về năng suất. Các
viện khác như IRAT, EAT, ICRISAT cũng đã chọn lọc ra nhiều những giống
lúa tốt phục vụ sản xuất.
Hiện nay người ta ứng dụng ưu thế lai trong sản xuất lúa. Trong lịch sử
phát triển lúa lai, Trung Quốc là nước đầu tiên sử dụng thành công ưu thế này.
Năm 1974, các nhà khoa học Trung Quốc đã cho ra đời những tổ hợp lai có
ưu thế lai cao, đồng thời xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất hạt lai hệ "3
dòng" được hoàn thiện và đưa vào sản xuất năm 1975. Năm 1996, Trung
Quốc lại thành công với quy trình sản xuất lúa lai "2 dòng" và đẩy mạnh
nghiên cứu lúa lai 1 dòng và lúa lai siêu cao sản nhằm tăng năng suất và sản
lượng lúa gạo của đất nước [35]. Cụ thể như sau: năm 1973 Shiming Song
phát hiện ra được dòng bất dục mẫn cảm với ánh sáng ngày ngắn (PGMS) từ
giống Nongken 58. Nhiều kết quả nghiên cứu khác về lúa lai hai dòng cũng
đã được công bố. Năm 1991 các nhà khoa học Nhật Bản đã áp dụng phương
pháp gây đột biến nhân tạo để tạo ra dòng bất dục đực mẫn cảm với nhiệt độ
[29]. Chương trình phát triển lúa lai giữa các loài phụ indica và japonica được
bắt đầu từ năm 1987 nhờ sự phát hiện và sử dụng gen tương hợp rộng, mở ra
tiềm năng về năng suất cao cho các giống lúa lai hai dòng [34]. Những tổ hợp
giữa các loài phụ như: Chen 232/26 Zhazao; 3037/02428 và 6154S/vaylava
đưa ra ở Trung Quốc nhưng không được sử dụng trong sản xuất đại trà, vì cây

xuất. Trong công tác nghiên cứu giống lúa, Viện nghiên cứu giống lúa trung
ương của Ấn Độ được thành lập vào năm 1946 tại Cuttuck bang Orisa là nơi
tập trung nghiên cứu, lai tạo các giống lúa mới phục vụ sản xuất. Ngoài ra tại
các bang của Ấn Độ đều có các cơ sở nghiên cứu, trong đó các cơ sở quan
trọng ở Madras heydrabat, Kerala, hoặc Viện Nghiên cứu cây trồng cạn Á nhiệt
đới (ICRISAT). Nhờ vậy Ấn Độ là nước có nhiều giống lúa chất lượng cao nổi
tiếng trên thế giới như: Basmati, Brimphun trong đó giống lúa Basmati có giá
trị trên thị trường tới 850 Đô la Mỹ/tấn, trong khi giống gạo thơm Thái Lan nổi
tiếng trên Thế giới cũng chỉ có giá trị 460 Đô la Mỹ /tấn [9].
12
Mặt khác, Ấn Độ cũng là nước nghiên cứu lúa lai khá sớm và đã đạt
được một số thành công nhất định, một số tổ hợp lai tốt được sử dụng ở Ấn
Độ như; IR58025A/IR9716, IR62829A/IR46, PMS8A/IR46, ORI 161, ORI
136, 2RI 158, 3RI 160, 3RI 086, PA- 103 Một trong những giống lúa chất
lượng cao do các nhà khoa học chọn tạo thành công được nhập về Việt Nam
là giống BTE-1, giống này đã được Bộ Nông nghiệp & PTNT Việt Nam công
nhận năm 2007 [9].
Thái Lan là nước xuất khẩu lúa gạo đứng đầu thế giới. Với những ưu
đãi của thiên nhiên Thái Lan có vùng châu thổ trồng lúa phì nhiêu, mặc dù
năng suất và sản lượng lúa gạo của Thái Lan không cao song họ chú trọng
đến việc chọn tạo giống có chất lượng gạo cao. Các trung tâm nghiên cứu lúa
của Thái Lan được thành lập ở nhiều tỉnh và các khu vực. Các trung tâm này
có nhiệm vụ tiến hành chọn lọc, phục tráng, lai tạo, nhân giống phục vụ cho
nhu cầu sản xuất của người dân với mục tiêu phục vụ nhu cầu trong nước và
xuất khẩu. Các đặc điểm nổi bật của các giống lúa mà các nhà khoa học tập
trung nghiên cứu và lai tạo đó là hạt gạo dài và trong, ít dập gãy khi xay sát,
có hương thơm, coi trọng chất lượng hơn là năng suất, điều này cho chúng ta
thấy rằng giá lúa gạo xuất khẩu của Thái Lan bao giờ cũng cao hơn của Việt
Nam. Một số giống lúa chất lượng cao nổi tiếng thế giới của Thái Lan là:
Khaodomali, Jasmin (Hương nhài).

tạo ra những giống có chất lượng cao, hàm lượng dinh dưỡng lớn. Đây cũng là
một giải pháp để giảm áp lực cho y học. Vì vậy, một số viện nghiên cứu quốc
tế đang tập trung vào giống lúa mới “gạo vàng 2” để chống lại nguy cơ bệnh
mù do thiếu vitamin A đang tăng lên trên thế giới. So với giống "gạo vàng"
phát triển vào năm 2000, “gạo vàng 2” này có hàm lượng beta-carotene cao
gấp 23 lần.
Theo ông Jagadish Mittur - giám đốc Trung tâm nghiên cứu Monsanto
ở Bangalore (Ấn Độ), bộ gen của giống lúa mới được ghép thêm gen của cây
thủy tiên hoa vàng hoặc cây ngô. Giống lúa đang được nghiên cứu và phát
14
triển ở sáu nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Vì giống lúa mới là sản phẩm
của công nghệ biến đổi gen, các nhà khoa học đang nghiên cứu để xác định
độ an toàn thực phẩm và an toàn môi trường của giống lúa này, trước khi đưa
vào gieo trồng đại trà mang tính thương mại trong vòng 3-4 năm tới [23].
Ngoài châu Á, thì ở Mỹ, năm 1926, J.W Jones đã bắt đầu nêu vấn đề ưu
thế lai của lúa khi khảo sát lúa ở Đài Loan. Có 2 người tham gia vào đề xuất
vấn đề sản xuất lúa lai thương phẩm là Stansent và Craiglules. Trong thời
gian gần đây các nhà khoa học Mỹ không chỉ quan tâm đến việc chọn lọc, lai
tạo và đưa ra những giống lúa có năng suất cao, ưa thâm canh và ổn định, mà
còn nghiên cứu tỷ lệ protein trong gạo, phù hợp với thị trường hiện nay.
Ngoài ra, trên thế giới còn rất nhiều nhà khoa học đã và đang nghiên cứu các
giống lúa nhằm mục đích đưa ra những giống lúa có năng suất cao, phẩm chất
tốt, có khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh, thâm canh.
1.2.3. Tình hình nghiên cứu giống lúa thuộc loài phụ Japonica trên thế giới
Lúa trồng Oryza sativa (2n = 24) được phân làm các loài phụ là O.S.
Indica, O.S. Japonica và O.S. Javanica. Ngoài ra, còn có các nhóm giống lúa
trung gian giữa các loài phụ trên (Glaszmann, 1987). Các giống lúa Japonica
được sản xuất chủ yếu ở vùng lạnh và cận nhiệt đới. Một số nhà khoa học trên
thế giới, dựa trên phân tích gen, cho rằng các giống lúa Japonica có nguồn
gốc từ các vùng núi Việt Trung [24].

triệu ha, Triều Tiên và Hàn Quốc khoảng 2,5 triệu ha, Nepal 1,45 triệu ha
Nước Mỹ hàng năm sản xuất khoảng 10 triệu tấn lúa Japonica trên 1,3 triệu
ha. (Source: FAO 2005). Bang California là bang sản xuất chính với 90% lúa
Japonica, với năng suất bình quân 9 tấn/ha, trong đó xuất khẩu khoảng 30%
(Mechel S. Paggi and Fumiko Yamazaki 2001) [24].
Ba thị trường nhập khẩu lúa Japonica lớn nhất châu Á là Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài Loan của Mỹ, Australia, Trung Quốc và Thái Lan. Riêng Nhật
Bản mỗi năm nhập khẩu gần 1 triệu tấn gạo Japonica. Thổ Nhĩ Kỳ là thị
trường lớn thứ nhì, nhập khẩu từ Ai Cập, Mỹ và Australia [28]. Ngoài ra còn
khoảng 42 quốc gia khác nhập khẩu gạo Japonica [24].
16
1.3. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lúa ở trong nước
1.3.1. Tình hình sản xuất ở trong nước
Việt Nam là một nước nông nghiệp, có nền văn minh lúa nước trải qua
4000 năm, sản xuất lúa gạo gắn liền với sự phát triển nông nghiệp. Nước ta
nằm trong vùng khí hậu nóng ẩm, lượng bức xạ mặt trời cao và đất đai phù
hợp nên có thể trồng nhiều vụ lúa trong năm với nhiều giống lúa khác nhau.
Từ thủa đầu dựng nước cây lúa đã được gắn liền với nền văn minh lúa
nước trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Cùng
thời gian đó năng suất và sản lượng lúa cũng tăng lên rõ rệt nhờ vào công
cuộc cải cách về giống lúa và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật về phân
bón, tưới tiêu, phòng trừ sâu bệnh một cánh hợp lý, đồng bộ. Tính từ năm
1961 đến năm 2005, năng suất lúa của nước ta đã tăng lên 2,8 lần, giai đoạn
tăng cao nhất là từ thập kỷ 80 đến nay. Có được như vậy là nhờ các tiến bộ
mới trong thâm canh tăng năng suất lúa được ứng dụng rộng rãi, đặc biệt là
việc chuyển đổi cơ chế quản lý đất đai, từ cơ chế hợp tác sang tư nhân hoá
(Khoán 10), lấy hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ đã khuyến khích người
dân đầu tư, thâm canh sản xuất lúa. Sản lượng lúa của Việt Nam cũng vì thế
mà tăng liên tục từ 9,0 triệu tấn năm 1961 lên 38,89 triệu tấn năm 2009 (Bảng
1.3). Từ một nước thiếu ăn, phải nhập khẩu gần 2 triệu tấn gạo/năm trước đây,

Nam sang trang sử mới. Từ chỗ thiếu ăn triền miên, đến năm 1988 vẫn còn
phải nhập khẩu hơn 450.000 tấn gạo, nhưng từ năm 1989, Việt Nam vừa bảo
đảm nhu cầu lương thực trong nước, có dự trữ, vừa xuất khẩu gạo mỗi năm từ
1 đến 1,5 triệu tấn và tiến dần lên tới 4 đến 4,5 triệu tấn như hiện nay
Trên cơ sở nhìn lại hơn 20 năm đổi mới của đất nước và phân tích thực
trạng nông nghiệp, nông dân, nông thôn từ năm 2000 đến nay, Hội nghị
18
Trung ương 7 vừa qua đã tập trung trí tuệ, thảo luận sôi nổi, thẳng thắn, dân
chủ và nhất trí thông qua Nghị quyết "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn".
Và ngày 05/8/2008, Ban chấp hành Trung ương đã chính thức ban hành Nghị
quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Hiện nay lúa vẫn là cây lương thực quan trọng nhất ở nước ta, cây lúa
cung cấp 85 - 87% tổng sản lượng lương thực trong nước.
Trong những năm gần đây diện tích cây lúa không tăng nhưng do năng
suất cây lúa được cải thiện đáng kể mà sản lượng lúa không ngừng tăng lên từ
24,9 triệu tấn thóc năm 1995 đến năm 2009 đã đạt 38,89 triệu tấn. Sau một
chặng đường dài không ngừng đổi mới phát triển nông nghiệp sản xuất lúa
gạo ở nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể như:
Xây dựng và phát triển các cánh đồng lúa nước khắp nơi trên nền tảng
cải tạo đất đai, thuỷ lợi, tăng diện tích tưới tiêu. Có thể nói nơi nào có đất
phẳng, có nguồn nước thì nơi đó có thể phát triển thành cánh đồng lúa nước
dù ở đồng bằng hay trung du miền núi.
Nhập nội và lai tạo giống mới có khả năng thích nghi và chống chịu.
Trên cơ sở đó điều chỉnh thời vụ chính và tăng vụ, tăng diện tích lúa đông
xuân, hè thu, giảm diện tích lúa nổi, lúa nương rẫy, phát triển nhiều trà lúa đối
với vụ đông xuân ở miền Bắc để hạn chế bệnh do thời tiết. Tạo được mùa vụ
thay đổi cơ cấu cây trồng trong đó cây lúa làm trung tâm.
Ứng dụng hệ thống kỹ thuật canh tác tiến bộ trong việc bón phân, bảo
vệ thực vật và làm đất.
Phát triển công nghiệp sau khi thu hoạch, nâng cao công nghiệp chế

Quá trình hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực, bên cạnh những
thách thức, lúa gạo Việt Nam cũng có nhiều cơ hội để mở rộng thị trường
xuất khẩu. Trong khi đó nhu cầu gạo trên thị trường thế giới và khu vực 5
năm tới dự báo vẫn tiếp tục sôi động do cầu vẫn tăng. Những năm gần đây
hiệp hội xuất khẩu gạo giữa các nước trên thế giới và khu vực cũng tạo điều
kiện cho mỗi nước. Thách thức với Việt Nam là thành viên của WTO nên thị
trường nông sản nói chung, thị trường Việt Nam nói riêng sẽ mở rộng cửa cho
hàng nhập khẩu từ các nước. Hàng rào thuế quan và sự bảo hộ của nhà nước
đối với sản xuất và xuất khẩu gạo dần hạn chế và tiến tới bãi bỏ. Gạo Thái
Lan, Mỹ, Trung Quốc,… và các nước khác có chất lượng cao giá rẻ hơn sẽ
tràn vào thị trường Việt Nam với thuế nhập khẩu không đáng kể (94% hàng
hóa Mỹ nhập vào Việt Nam hưởng thuế suất 15% trong đó hàng lương thực
20
gạo, ngô không đáng kể). Do đó lúa gạo Việt Nam phải chịu sức ép cạnh
tranh gay gắt trên sân nhà, trong khi đó cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản
xuất, chế biến gạo của ta còn lạc hậu.
Những giải pháp cơ bản để thúc đẩy xuất khẩu gạo là: Nghiên cứu khảo
nghiệm và đưa các giống lúa mới phù hợp với thị hiếu của thị trường và tích
cực phát triển các giống lúa chất lượng đã được khẳng định như gạo Chợ Đào
ở Long An, Tám Xoan ở Bắc Bộ,… để tiến tới xây dựng vùng chuyên canh
lúa cao cấp với sản lượng 1 triệu tấn/năm tại đồng bằng sông Cửu Long, xây
dựng thương hiệu độc quyền cho các sản phẩm cao cấp đó. Đồng thời áp dụng
tổng hợp các biện pháp như quy trình canh tác, bảo quản sau thu hoạch tiên
tiến, nâng cao kỹ thuật và năng lực xay xát, tăng cường khả năng bốc xếp tại
các cảng xuất khẩu để tạo ra một thương hiệu Việt về lúa gạo có sức cạnh
tranh mạnh trên thế giới.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu lúa trong nước
Việt Nam nằm ở vùng Đông Nam châu Á, khí hậu nhiệt đới gió mùa rất
thích hợp cho sự phát triển của cây lúa. Có nhiều đồng bằng châu thổ rộng lớn
được phù sa bồi đắp thường xuyên, các vùng đồng bằng châu thổ đều được sử

nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975), chúng ta đã tập trung nhiều
vào nghiên cứu cây lúa, trong đó công tác chọn tạo và lai tạo các giống đặc
biệt được chú trọng. Nhờ các thành tựu trong nghiên cứu và áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, năng suất lúa của Việt Nam không ngừng tăng. Chúng ta
cũng đã nhập nội một số giống từ Viện nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) và của
một số nước khác làm phong phú bộ giống lúa của Việt Nam.
Nhận rõ tầm quan trọng của sản xuất nông nghiệp nói chung và sản
xuất lúa gạo nói riêng, cho nên từ đại hội Đảng lần thứ VI và các kỳ đại hội
tiếp theo, ngành nông nghiệp đã được Đảng, nhà nước quan tâm thúc đẩy
đúng mức. Trong một thời gian không lâu đất nước đang từ một quốc gia
22
nhập khẩu lương thực, người nông dân làm ra sản phẩm lúa gạo và các sản
phẩm nông nghiệp khác song quanh năm vẫn chịu cảnh thiểu đói lương thực,
nay đã trở thành một quốc gia xuất khẩu lúa gạo đứng thứ 2 trên thế giới,
song một vấn đề đặt ra đó là số lượng xuất khẩu nhiều nhưng giá bán không
cao do chất lượng gạo của Việt Nam còn kém so với các nước khác như Thái
Lan chẳng hạn. Vì thế chiến lược sản xuất lúa gạo của Việt Nam trong những
năm tới và các thập niên tiếp là: phấn đấu đạt và duy trì sản lượng lúa hằng
năm ở mức gần 40 triệu tấn/năm như hiện nay, đồng thời đưa vừa gieo cấy
khoảng 1 triệu ha lúa chất lượng cao để phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước
và đẩy mạnh xuất khẩu gạo chất lượng cao nhằm đem lại hiệu quả kinh tế.
Với điều kiện thời tiết khí hậu thuận lợi cho người trồng lúa, Việt Nam
được coi như cái nôi của nền văn minh lúa nước. Phát huy những lợi thế đó
trong những năm qua thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng từ nghị quyết
đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay nền nông nghiệp nước ta được
Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm, coi nền nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu và đã được đầu tư đúng mức nên năng suất và sản lượng lúa gạo Việt
Nam không ngừng được nâng cao.
Để có được một ngành nông nghiệp như ngày nay, đã có nhiều thế hệ
nhà khoa học đóng góp công sức, trí tuệ để nghiên cứu ra các công trình khoa

nhà khoa học danh tiếng như: Giáo sư Nông học Lương Đình Của, Viện sĩ Vũ
Tuyên Hoàng… lãnh đạo và chỉ đạo công tác nghiên cứu, chọn tạo các giống
lúa. Hàng trăm giống lúa xuân, lúa mùa, lúa chịu hạn, chịu úng, lúa nếp, lúa
có hàm lượng Protein cao, lúa chịu mặn đã được chọn tạo và bồi dục ở Viện
này, trong đó có các giống lúa chất lượng cao như: giống P4 và P6 là những
giống lúa được lai tạo theo hướng chất lượng Protein cao. Giống P4 có thời
gian sinh trưởng trung bình, trồng được 2 vụ/năm, năng suất khá đạt 45 đến
55 tạ/ha cao nhất có thể đạt 72 tạ/ha. Giống P4 có hàm lượng protein cao tới
24


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status