KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC:CUỘC ĐẤU TRANH TRÊN BÀN ĐÀM PHÁN TẠI HỘI NGHỊ PARI (1968 - 1973) - Pdf 14


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

TRẦN THỊ KIM LIÊN

CUỘC ĐẤU TRANH TRÊN BÀN ĐÀM PHÁN
TẠI HỘI NGHỊ PARI (1968 - 1973)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
SƠN LA, NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

Em xin cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Sử - Địa, Trường ĐH Tây Bắc,
các bạn sinh viên trong tập thể Lớp K50 ĐHSP Lịch sử đã động viên giúp đỡ
trong suốt thời gian thực hiện khóa luận.
Khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được ý
kiến đóng góp của các thầy, cô và các bạn để khóa luận được hoàn chỉnh
hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 05 năm 2013
Người thực hiện
Trần Thị Kim Liên

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1

Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã trải
qua nhiều cuộc đấu tranh chống ngoại xâm lâu dài và gian khổ. Một nét đặc thù
trong sự nghiệp đấu tranh ấy, mặt trận ngoại giao luôn đồng hành cùng mặt trận
quân sự. Cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 - 1975) của nhân dân ta
là một điển hình về nét đặc thù ấy.
Cuộc đàm phán Pari về vấn đề Việt Nam bắt đầu từ ngày 13/5/1968, kéo
dài đến ngày 27/1/1973, tổng cộng trải qua 4 năm, 8 tháng, 16 ngày, là cuộc đàm
phán lâu nhất để chấm dứt một cuộc chiến tranh kéo dài nhất trong thế kỷ XX.
Hiệp định Pari, là thắng lợi ngoại giao to lớn, đó là thắng lợi rực rỡ của tình
đoàn kết dân tộc thống nhất từ Bắc chí Nam, của tình đoàn kết quân dân “rắn
như thép, vững như đồng”, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời, cũng là thắng lợi của tình đoàn
kết ba nước anh em Việt Nam - Lào - Campuchia, trong mấy chục năm kề vai
sát cánh đấu tranh chống kẻ thù chung.
Cuộc đàm phán Pari và Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình
ở Việt Nam là đỉnh cao của mặt trận ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ chống
Mĩ, cứu nước và cũng là thành công lớn nhất trong lịch sử ngoại giao của dân
tộc ta thời đại Hồ Chí Minh, để lại những bài học thực tiễn vô giá về đấu tranh
ngoại giao.
Ngày nay, nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất, đang đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong sự
nghiệp lớn lao đó, ngoại giao vẫn luôn đóng vai trò to lớn và những bài học của
Hội nghị Pari vẫn còn nguyên những giá trị trong hoàn cảnh mới.
Từ sau năm 1975, đã có nhiều công trình nghiên cứu về Hội nghị Pari và
Hiệp định Pari. Độ lùi thời gian càng dài, càng làm sáng tỏ những bước đi tài
tình, sáng tạo của Đảng, Chính phủ ta, trực tiếp là của 2 phái đoàn Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (sau
này là Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam) trên bàn
đàm phán. Với mong muốn tìm hiểu quá trình đấu tranh gay go, căng thẳng và
quyết liệt giữa hai đoàn Việt Nam và Hoa Kỳ tại Hội nghị Pari, tôi quyết định

Năm 2007, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia cho ra mắt bạn đọc tác phẩm
“Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam”. Đây là một trong
những công trình công phu đề cập khá đầy đủ về quá trình đàm phán, phương
pháp đàm phán cũng như vai trò và ý nghĩa của Hội nghi Pari.
Hai năm sau đó vào năm 2009, tác phẩm “Cuộc đàm phán lịch sử” của
Ban Nghiên cứu Lịch sử Ngoại giao, đã tổng kết về cuộc đấu tranh tại Hội nghị
Pari, vai trò và sự lãnh đạo tài tình của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt
những năm tháng đàm phán.
Gần đây năm 2010, cuốn sách“Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của
Việt Nam - tác động của những nhân tố quốc tế” của tác giả Nguyễn Khắc
Huỳnh, đã tập trung giới thiệu về mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ cuộc kháng

3
chiến chống Mĩ cứu nước, cũng như tác động của phong trào đối với cuộc kháng
chiến của Nhân dân Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu trên đã trình bày khá đầy đủ về Hội nghị Pari
cũng như Hiệp định Pari. Nhằm tổng hợp về bối cảnh dẫn đến bàn đàm phán,
nội dung của các giai đoạn cũng như ý nghĩa, bài học mà Hội nghị Pari đã để lại,
nên tôi lựa chọn đề tài này.
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về quá trình đàm phán tại Hội nghị Pari giữa bốn bên:
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa, nhằm tìm kiếm giải pháp cho
vấn đề Việt Nam từ 5/1968 đến 1/1973.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khái quát quá trình đưa Việt Nam và Hoa Kỳ đến bàn đàm phán tại Hội
nghị Pari.
Làm rõ quá trình đấu tranh lâu dài căng thẳng, phức tạp giữa các bên trên
bàn đàm phán tại Hội nghị Pari.


5
Chương 1
CON ĐƯỜNG DẪN TỚI HỘI NGHỊ PARI

1.1 . Chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mĩ đứng trước nguy cơ phá sản
Với việc tiến hành chiến tranh hạn chế dưới hình thức một cuộc chiến tranh
đặc biệt, chính quyền Mĩ tin tưởng sẽ giành được thắng lợi và nhanh chóng kết
thúc chiến tranh ở Việt Nam. Nhưng đế quốc Mĩ đã nhầm. Những thất bại liên
tiếp trên chiến trường đã làm cho nỗi thất vọng của Nhà Trắng và Lầu Năm góc
ngày càng tăng lên. Đến năm 1965, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” mà Mĩ
tiến hành đã phát triển đến đỉnh cao và đứng trước nguy cơ thất bại. Để cứu vãn
tình thế, Mĩ ồ ạt đưa quân viễn chinh cùng với vũ khí và phương tiện chiến tranh
vào miền Nam, chuyển từ chiến lược “chiến tranh đặc biệt” sang chiến lược
“chiến tranh cục bộ” và mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải
quân ra miền Bắc.
“Chiến tranh cục bộ” là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới,
là một trong ba hình thức chiến tranh được đề ra phù hợp với chiến lược toàn
cầu “phản ứng linh hoạt” bao gồm “chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục
bộ” và “chiến tranh tổng lực”. Chiến lược chiến tranh cục bộ mà Mĩ áp dụng ở
miền Nam Việt Nam được bắt đầu từ năm 1965. Trong chiến lược chiến tranh
này Mĩ sử dụng quân viễn chinh Mĩ, quân của một số nước thân Mĩ ở khu vực
Châu Á như: Nam Triều Tiên, Thái Lan, Philippin, Tân Tây Lan và một lực
lượng ngụy quân Sài Gòn, trong đó quân viễn chinh Mĩ giữ vai trò quan trọng và
không ngừng tăng lên về số lượng và trang bị.
Để tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ”, Chính phủ Mĩ tăng cường
trang bị vũ khí và quân đội, đặc biệt là lính Mĩ cho miền Nam Việt Nam. Tiến
hành “chiến tranh cục bộ” ở Việt Nam, Mĩ nhằm thực hiện âm mưu:
1. Nhanh chóng tạo ra ưu thế về binh lực và hỏa lực, cố giành lại thế chủ
động trên chiến trường, đẩy lực lượng vũ trang của ta vào thế phòng ngự, buộc

Bắc, giải phóng miền Nam hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết 12 và ý chí “không có gì quý hơn độc lập tự do’’
cộng với kinh nghiệm và truyền thống của nghìn năm đánh giặc ngoại xâm,
thêm vào đó là sự chi viện rất lớn của miền Bắc, nhân dân miền Nam đã anh
dũng đứng lên chống lại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ trên cả
ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao.
Ngay sau khi đưa quân đến miền Nam Việt Nam, Mĩ đã gặp phải những
thất bại to lớn, mở đầu là thất bại ở Núi Thành (Quảng Nam) vào tháng 5/1965.
Trong trận này, Mĩ thiệt hại 140 quân, mất toàn bộ vũ khí và quân dụng. Từ trận
Núi Thành đã xuất hiện khẩu hiệu “Tìm Mĩ mà đánh, tìm Ngụy mà diệt”, là bài
học kinh nghiệm đánh Mĩ đầu tiên của nhân dân miền Nam.
Sau thất bại ở Núi Thành, Mĩ điên cuồng mở cuộc tấn công vào Vạn Tường
(18/8/1965). Trong trận này, quân Mĩ hoàn toàn lựa chọn chiến trường tác chiến
phù hợp với sở trường của mình để xuất quân. Tuy có ưu thế về vũ khí và lực
lượng nhưng quân Mĩ đã nhanh chóng thất bại ở Vạn Tường: thiệt hại 900 quân,

7
22 xe tăng và xe bọc thép, 13 máy bay bị bắn cháy. Chiến thắng Vạn Tường
minh chứng rằng quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng đánh bại quân
đội Mĩ trong điều kiện chúng có ưu thế về binh lực, hỏa lực và cơ động.
Bước vào mùa khô thứ nhất 1965 - 1966, với lực lượng 72 vạn quân, trong
đó có 18 vạn quân Mĩ được trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại
như: xe tăng, xe bọc thép, máy bay các loại, tàu xuồng chiến đấu để mở cuộc
phản công vào quân Giải phóng. Ngày 8/1/1966 quân Mĩ mở cuộc phản công
chiến lược đầu tiên và kết thúc vào tháng 4/1966. Tổng cộng, Mĩ đã mở 450
cuộc hành quân lớn nhỏ trong mùa khô thứ nhất. Tuy nhiên, trong mùa khô này
Mĩ đã thiệt hại lớn: 104.000 quân, trong đó có 42.000 lính Mĩ, 3.500 chư hầu,
1.430 máy bay, 600 xe tăng và xe thiết giáp, 1.310 ô tô. Thất bại của Mĩ trong
cuộc phản công chiến lược này là thất bại có tính chiến lược vì những mục tiêu
mà Mĩ đề ra lúc đầu đã không thực hiện được.

động, học sinh, sinh viên, Phật tử, các binh sĩ ngụy nổi dậy đấu tranh đòi lật đổ
Thiệu - Kỳ, đòi Mĩ rút quân về nước, đòi các quyền tự do, dân chủ và cải thiện
dân sinh. Tháng 3/1966, lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ chóp bu của ngụy
quyền khi Thiệu và Kỳ cách chức Nguyễn Chánh Thi - Tư lệnh Quân đoàn I ra
khỏi chính quyền ngụy, đã bùng nổ một cao trào đấu tranh chính trị rộng lớn ở
khắp các thành phố và đô thị miền Nam. Phong trào diễn ra sôi nổi và có sự phối
hợp giữa các các thành phố như: Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn. Sau khi tạm thời
dàn xếp mâu thuẫn trong nội bộ, Thiệu - Kỳ đã đưa quân đàn áp các phong trào.
Phong trào đấu tranh ở các thành phố và đô thị tuy kết thúc nhưng đã gây ra
không ít khó khăn cho Chính phủ bù nhìn Thiệu - Kỳ.
Cùng với cuộc đấu tranh ở thành thị, cuộc đấu tranh chống bình định ở các
vùng nông thôn cũng diễn ra hết sức sôi nổi. Được sự hỗ trợ của các lực lượng
vũ trang, hầu hết các vùng nông thôn miền Nam, quần chúng nhân dân đã vùng
lên đấu tranh chống lại ách kìm kẹp của địch, trừng trị bọn ác ôn, phá từng mảng
lớn ấp chiến lược, làm thất bại âm mưu giành dân của địch. Công tác chống phá
bình định đã thu được một số kết quả đáng kích lệ, những làng xã chiến đấu mọc
lên liên hoàn.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày càng được nhiều
nước và nhiều tổ chức công nhận. Đến cuối năm 1967, Mặt trận đã có cơ quan
thường trú tại nhiều nước như: Liên Xô, Cu Ba, Trung Quốc, Tiệp Khắc,
Angiêri… Cương lĩnh của mặt trận được 41 Chính phủ, 12 tổ chức quốc tế, 5 tổ
chức khu vực lên tiếng ủng hộ.
Bên cạnh những thất bại về quân sự và công cuộc bình định, trên thế giới,
Mĩ ngày càng rơi vào thế cô lập. Cuộc chiến tranh mà Mĩ gây ra ở miền Nam
Việt Nam là một cuộc chiến tranh phi nghĩa, vì vậy, ngay từ đầu Mĩ đã vấp phải
sự phản kháng quyết liệt không chỉ của nhân dân Việt Nam mà còn của mọi tầng
lớp nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Trong những thập niên 60, cuộc kháng
chiến chống Mĩ của nhân dân Việt Nam đã trở thành trung tâm chú ý của dư
luận thế giới. Trong lịch sử, chưa có một cuộc chiến tranh nào lại có thể tạo
dựng nên một phong trào, một mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ mạnh mẽ, đoàn

nhất là thắng lợi trong hai mùa khô đã đẩy địch vào thế tiến thoái lưỡng nan về
chiến lược, lực lượng của chúng phải căng ra các chiến trường, tinh thần giảm
sút nghiêm trọng. Trên cơ sở tổng kết những thắng lợi đã đạt được, Đảng đưa ra
quyết định: Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam
sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Quyết định được cụ
thể hóa thành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trong năm 1968.
Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, đúng vào Giao thừa Tết Mậu Thân
năm 1968, quân và dân miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy tại hầu hết các
thành phố, thị xã, thị trấn và căn cứ quân sự của địch trên khắp miền Nam, mạnh
nhất là hai thành phố Sài Gòn và Huế. Quân Giải phóng đã tiến công và đánh

10
trúng hầu hết các cơ quan đầu não, các sở chỉ huy của Mĩ - ngụy, hàng loạt căn
cứ quân sự, các tuyến phòng thủ, các hệ thống giao thông thủy bộ, các kho tàng,
làm tê liệt mọi hoạt động vận chuyển, liên lạc của địch. Phối hợp với thành thị,
quần chúng ở các vùng nông thôn cũng vùng lên đập tan bộ máy ngụy quyền,
phá vỡ hàng loạt ấp chiến lược. Kết quả, chỉ trong vòng không đầy 1 tháng, đợt
1 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, Mĩ - ngụy đã thiệt hại khoảng
150.000 quân, trong đó có khoảng 45.000 lính Mĩ. 2.370 máy bay, 233 tàu
xuồng chiến đấu, 3.500 xe quân sự bị bắn cháy và phá hủy. Đây là cuộc tiến
công chiến lược quy mô lớn nhất, cường độ mãnh liệt nhất, đều nhất từ trước tới
nay của quân Giải phóng.
Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã làm rung chuyển chiến trường
miền Nam Việt Nam và cả nước Mĩ. Nhưng do lực lượng Mĩ - ngụy còn đông,
cơ sở của chúng ở thành thị còn mạnh nên nhanh chóng mở cuộc phản công lại
quân Giải phóng ở thành thị và nông thôn. Bên cạnh đó, do những yếu tố bất
ngờ đã mất đi nên trong đợt 2 và 3 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, lực
lượng quân Giải phóng gặp không ít khó khăn và tổn thất.
Mặc dù vậy, ý nghĩa của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vẫn hết sức to lớn,
chỉ trong một thời gian ngắn đã làm thay đổi thế trận, đưa chiến tranh vào tận

trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không đơn thuần phản ánh cuộc đấu
tranh trên chiến trường mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc
đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò tích cực và chủ
động” [4;217]. Để giành thắng lợi trên mặt trận ngoại giao, phương châm của
Đảng là phát huy thế mạnh đã giành được về các mặt quân sự và chính trị, đồng
thời phối hợp chặt chẽ với các nước anh em trên cơ sở kiên quyết bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.
Bước sang năm 1967, với thắng lợi bước đầu đánh bại hai cuộc phản công
mùa khô và chiến tranh phá hoại miền Bắc, Trung ương Đảng quyết định phản
công địch trên mặt trận ngoại giao. Thực hiện chủ trương này, ngày 28/1/1967,
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh tuyên bố: Chỉ sau khi Hoa Kỳ chấm
dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh chống lại nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới có thể nói
chuyện được. Tuyên bố là một quả bom ngoại giao đối với Mĩ, đồng thời đánh
bại luận điệu lừa bịp luôn đòi “đàm phán không điều kiện” của Mĩ. Khi đưa ra
tuyên bố này, Hà Nội tỏ ý sẵn sàng nói chuyện với Oasinhtơn (Washington)
nhưng với điều kiện phải chấm dứt ném bom và mọi hành động chiến tranh
chống lại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với tuyên bố này, Việt Nam đã
giành thế chủ động về ngoại giao. Sự kiện này được các hãng thông tấn, báo chí
các nước đưa tin và bình luận một cách rộng rãi. Dư luận các nước hưởng ứng
mạnh mẽ.
Những đòn tấn công ngoại giao liên tiếp chứng tỏ Đảng và Nhà nước đã
nâng ngoại giao lên thành một mặt trận quan trọng song song với hai mặt trận
quân sự và chính trị góp phần kiềm chế địch làm cho nội bộ của chúng phân hóa
một cách rõ rệt, thúc đẩy xu thế hòa bình hình thành và phát triển. Nội bộ Mĩ
mâu thuẫn sâu sắc, chia làm hai phe: một bên là nhóm hiếu chiến tiếp tục đòi
tăng quân và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, một bên chủ trương muốn

12
nhanh chóng chấm dứt cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Vấn đề Việt Nam gây ra sự

cuộc tiến công nào chống miền Bắc Việt Nam, trừ khu vực nằm ở Bắc khu phi
quân sự là nơi đối phương đang có những cuộc chuẩn bị liên tục trực tiếp đe
dọa các vị trí tiền tiêu của đồng minh và là một cuộc vận chuyển các đoàn người
tiếp tế chỉ làm tăng thêm sự đe dọa đó” [4;222]. Giônxơn còn nói thêm: “Đã
đến lúc bắt đầu nối lại về hòa bình và tôi sẵn sàng đi bước đầu tiên trên con
đường xuống thang” [4;222].

13
Như vậy, những bước đi trên mặt trận ngoại giao đã góp phần tích cực buộc
Mĩ xuống thang chiến tranh ở Việt Nam và chịu ngồi vào bàn đàm phán với Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Pari để đi đến tìm ra một giải pháp chính trị
cho vấn đề Việt Nam.
1.3. Những cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trước Hội
nghị Pari
Hội nghị Pari về chiến tranh ở Việt Nam được khai mạc vào ngày
13/5/1968. Nhưng để đi đến cuộc đàm phán lịch sử này thì Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và Mĩ đã phải trải qua nhiều cuộc tiếp xúc, trong đó có những cuộc
tiếp xúc qua những đại diện trung gian, cũng có những cuộc tiếp xúc trực tiếp
giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mĩ.
Đầu tiên phải kể đến những cuộc tiếp xúc thông qua những người đại diện
trung gian.
Cuộc tiếp xúc đầu tiên trước bàn Hội nghị Pari diễn ra vào năm 1964 với
vai trò trung gian của đại sứ Xibonơ (Xibono), người đại diện cho Chính phủ
Canada trong Ủy ban Giám sát quốc tế về Việt Nam. Chuyến công cán của ông
đã chuyển được thông điệp của Mĩ tới những nhà lãnh đạo Việt Nam, đồng thời
giúp Mĩ biết được tinh thần của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước nguy cơ
chiến tranh mở rộng. Chuyến đi này được Mĩ đánh giá cao vì đây là người đầu
tiên của Mĩ sau hai mươi năm được trực tiếp nói chuyện với đại diện của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
Không lâu sau đó, vào tháng 7/1965, một trong những phái viên của khối

vô thời hạn và tăng cường nỗ lực ngoại giao để đưa Hà Nội đến bàn đàm phán.
Ngay sau đó, hàng trăm nhà ngoại giao tài giỏi, nhiều kinh nghiệm đã được cử
đi tới 40 nước, thảo luận với hàng trăm chính phủ để tìm hướng cho việc giải
quyết vấn đề Việt Nam. Trong đó có chuyến đi của ông Hariman đến Vácxava.
Ngay sau khi cuộc gặp gỡ giữa đại diện Chính phủ Mĩ và Ba Lan kết thúc, Thứ
trưởng kiêm Tổng thư ký Bộ Ngoại giao Ba Lan Mikhalốtxki (Mikhalotxki) đã
có mặt tại Hà Nội. Tuy nhiên, cuộc gặp cũng không mang lại kết quả gì cho
triển vọng hòa bình giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mĩ.
Từng là nước chịu thất bại nặng nề ở Đông Dương nói chung và Việt Nam
nói riêng, cũng đã chứng kiến liên tiếp những thất bại của Mĩ ở Việt Nam, vì
vậy, khi thấy Mĩ ngày càng lún sâu vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Chính phủ
Pháp cho rằng cần có một giải pháp chính trị có lợi cho cả Việt Nam và Mĩ.
Trong hai năm 1965 và 1966, Chính phủ Pháp đã cử hai phái viên là Giăng
Xôven (Jeans Soven) và Giăng Xanhtơni (Jeans Sainteny) đi Hà Nội để tìm
kiếm một giải pháp cho vấn đề Việt Nam. Tuy chuyến đi không đạt được kết
quả như mong đợi nhưng nó đã góp phần cải thiện quan hệ Việt - Pháp, đồng
thời cho thấy rõ thái độ cũng như điều kiện của phía Việt Nam để có cuộc
thương lượng.
Bước sang năm 1966, ngay sau khi nhận được bức thư của Chủ tịch Hồ Chí
Minh vào ngày 24/1/1966, Thủ tướng Canađa quyết định cử ông Sextơ Ronning
sang Hà Nội để thăm dò khả năng giải quyết vấn đề Việt Nam. Ông Ronning bày

15
tỏ nỗi lo lắng của người Canađa trước tình hình Việt Nam, cũng như để tìm kiếm
khả năng tiến tới một giải pháp hòa bình. Thủ tướng Phạm Văn Đồng cảm ơn
những tình cảm tốt đẹp mà ông, chính phủ cũng như nhân dân Canađa đã dành
cho nhân dân Việt Nam, Thủ tướng trả lời rằng việc thương lượng giữa Việt Nam
và Mĩ chưa diễn ra được là do Mĩ chưa chấp nhận những điều kiện mà phía Việt
Nam đưa ra. Ông Ronning đưa ra câu hỏi rằng có phải nếu Mĩ ngừng ném bom
miền Bắc thì Việt Nam sẽ thương lượng. Thủ tướng trả lời rằng Mĩ phải ngừng

16
Giữa Mai Văn Bộ và Gơliơn đã gặp nhau tất cả bốn lần, tuy nhiên không mang
lại kết quả gì khả quan cho cả hai bên. Đây là lần đầu tiên một quan chức có
thẩm quyền nhưng không chính thức của Mĩ gặp đại diện của Việt Nam.
Ngay sau đó không lâu, ngày 29/12/1965 đã diễn ra cuộc tiếp xúc trực tiếp
giữa Đại sứ Bairốt (Byroade) và Tổng lãnh sự Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Vũ
Hữu Bỉnh tại Rănggun. Nội dung của cuộc gặp gỡ là ông Bairốt muốn tận tay
chuyển tới Tổng lãnh sự Việt Nam Dân chủ Cộng hòa một bức thông điệp của
Chính phủ Mĩ và mong sẽ nhận được câu trả lời trong thời gian ngắn nhất. Cuộc
gặp gỡ ngắn ngủi nhưng mang đầy ý nghĩa: lần đầu tiên đại diện ngoại giao của
hai nước đã gặp nhau tuy không chính thức nhưng lại chuyển một thông điệp
của Mĩ.
Bước sang năm 1967, nhà báo Mĩ đầu tiên đến Việt Nam là ông Harixơn
Xônxbơri - Trợ lý Tổng biên tập “Thời báo Niu Yoóc”. Ông được Thủ tướng
Phạm Văn Đồng tiếp vào ngày 2/1/1967. Trong cuộc nói chuyện này, Xônxbơri
đưa ra ý kiến của mình rằng ông cũng như nhiều người Mĩ khác rất mong muốn
hòa bình giữa Việt Nam và Mĩ. Ông tha thiết mong có một cuộc thương lượng
giữa hai bên.
Cũng trong năm 1967, ngày 12/1/1967, hai người Mĩ là ông H.S.Axmôrơ
và W.C.Bách cũng có chuyến thăm Việt Nam. Tới Hà Nội, hai ông được Chủ
tịch Hồ Chí Minh tiếp tại Phủ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch trình bày về quan điểm của
Việt Nam muốn thương lượng thì phải chấm dứt ném bom ở miền Bắc và đưa
thêm quân vào miền Nam. Hai vị khách người Mĩ nói rằng họ sẽ giữ bí mật
chuyến đi này và sẽ rất kín đáo trong việc nói chuyện với Bộ Ngoại giao Mĩ. Họ
cảm ơn sự tiếp đón thân mật của phía Việt Nam.
Không dừng lại ở đó, ngày 10/1/1967 Lê Trang - Tham tán công sứ đại diện
lâm thời sứ quán Việt Nam tại Liên Xô và Gớttơrai - đại diện của Chính phủ Mĩ đã
có cuộc gặp đầu tiên tại Đại sứ quán Việt Nam. Ông Gớttơrai đọc một thông điệp
của Chính phủ Mĩ liên quan đến việc Chính phủ Mĩ đặt ưu tiên cao nhất cho những
vấn đề có liên quan đến Việt Nam. Hai bên gặp nhau thêm ba lần nữa nhưng những

chính thức vào 13/5/1968.
Như vậy, trải qua nhiều cuộc tiếp xúc thông qua các nước trung gian như
Anh, Pháp, Ba Lan, Rumani, Gana… cũng như những cuộc tiếp xúc trực tiếp,
cuối cùng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ cũng đã chính thức ngồi vào
bàn đàm phán để tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho vấn đề Việt Nam.

18
Chương 2
DIỄN BIẾN ĐẤU TRANH TRÊN BÀN HỘI NGHỊ PARI

2.1. Đấu tranh tại Hội nghị Pari từ tháng 5/1968 đến tháng 11/1968
Sau gần một tháng thỏa thuận về địa điểm, cuối cùng hai bên cũng đã nhất
trí tổ chức Hội nghị tại Trung tâm hội nghị quốc tế tại đại lộ Kléber - Pari. Ngày
13/5/1968, Hội nghị khai mạc. Để chuẩn bị cho cuộc đàm phán lịch sử này, hai
bên đã trang bị cho mình những nhà ngoại giao tài giỏi, kinh nghiệm nhất. Phía
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Trưởng đoàn là đồng chí Xuân Thủy một chiến sĩ
cách mạng lão luyện, một nhà báo, nhà thơ, nguyên là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Phó đoàn là đồng chí Hà Văn Lâu, nguyên Cục
trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam, cùng
nhiều đồng chí khác. Phía Mĩ có ông Hariman (Harriman) làm Trưởng đoàn,
Vanxơ (Vance) nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng làm Phó đoàn, cùng nhiều
thành viên khác.
Nội dung chính của giai đoạn này là phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên
quyết đấu tranh đòi Mĩ chấm dứt hoàn toàn và vô điều kiện việc ném bom miền
Bắc. Phía Mĩ đòi có sự tham gia của Chính phủ Sài Gòn, Bắc Việt Nam không
vi phạm khu phi quân sự, không bắn pháo hay tên lửa vào các thành phố như:
Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Những ngày thương lượng đầu tiên diễn ra hết sức gay
gắt với lập trường của hai bên mâu thuẫn một cách gay gắt.
Bước vào phiên họp công khai đầu tiên, đồng chí Xuân Thủy nêu khái
quát nguyên nhân của cuộc chiến tranh là do chính sách xâm lược và cai trị của

miền Nam Việt Nam. Tiếp sau Hariman, cố vấn Lê Đức Thọ cũng trình bày
những quan điểm của đoàn Việt Nam về tình hình thực tế cuộc chiến tranh mà
Mĩ gây ra ở Việt Nam. Kết thúc phiên họp riêng đầu tiên hai bên vẫn chưa giải
quyết được vấn đề gì.
Không lâu sau cuộc gặp đầu tiên, vào ngày 15/9/1968, hai bên tiếp tục có
cuộc nói chuyện mới. Hariman cho rằng quyết định của Lê Đức Thọ về việc nội
bộ của miền Nam Việt Nam phải do nhân dân miền Nam tự giải quyết quan
điểm này phù hợp với quan điểm của Hoa Kỳ. Về vấn đề rút quân, phía Mĩ cho
rằng: cả quân Mĩ và quân miền Bắc cùng rút khỏi miền Nam, nhưng do lực
lượng của Mĩ đông hơn nên sẽ rút sau 6 tháng, sau khi rút khỏi thì hai bên không
được đưa quân trở lại. Cuối cùng Hariman nêu lên việc Chính quyền Sài Gòn và
Mặt trận phải có mặt trong bất cứ cuộc nói chuyện nào liên quan đến miền Nam
Việt Nam. Cố vấn Lê Đức Thọ trả lời rằng việc thảo luận về vấn đề rút quân sẽ
chỉ được bàn sau khi chấm dứt ném bom không điều kiện.
Cuối tháng 9, đầu tháng 10/1968, hoạt động quân sự của ta ở miền Nam
ngừng lại. Sau một thời gian dài tấn công liên tục, quân Giải phóng bị tổn thất
nặng nề chua kịp bổ sung, chi viện gặp nhiều khó khăn. Xét trên chiến trường,
Đảng và Chính phủ nhận thấy Mĩ cũng khó có thể giành thắng lợi. Mặt khác,
nước Mĩ đang trong thời kỳ bầu cử Tổng thống, mặc dù không ra ứng cử nhưng
Giônxơn vẫn tìm mọi cách ủng hộ ứng cử viên Hămphơrây (Humphrey) vì vậy
Giônxơn buộc phải xuống thang chiến tranh. Xuất phát từ nhận định đó, Đảng

20
và Chính phủ chủ trương phải từng bước kéo Mĩ xuống thang. Trở lại với cuộc
họp riêng giữa Lê Đức Thọ và Hariman ngày 11/10/1968, bắt đầu cuộc nói
chuyện, Lê Đức Thọ đưa ra hai câu hỏi: có phải phía Mĩ yêu cầu Chính quyền
Sài Gòn là một bên tham gia đàm phán và sau khi nhận được câu trả lời thì sẽ
chấm dứt ném bom Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đây có phải là điều kiện có
đi có lại cho việc chấm dứt ném bom không. Ông Hariman trả lời rằng Hoa Kỳ
coi việc Chính quyền Sài Gòn tham gia đàm phán không phải là điều kiện để

21
mình Giônxơn viết như sau: “Khi đã đạt được sự dàn xếp với Hà Nội thì sự hòa
hợp với Tổng thống Thiệu lại tan vỡ” [10;48]. Điều này xuất phát từ nguyên
nhân là Thiệu đã ngả theo ứng cử viên của Đảng Cộng hòa là Níchxơn (Nixon)
và phá hoại sự thỏa thuận với Oasinhtơn.
Cuộc tiếp xúc bí mật bắt đầu vào lúc 1 giờ 35 phút ngày 30/10/1968, giữa
Hariman và Xuân Thủy. Mở đầu, Hariman đọc một bản thông báo có nội dung:
“Tôi được phép tuyên bố với ngài rằng Tổng thống sắp sửa ra những mệnh lệnh
vào buổi tối ngày 31 tháng 10, tức là 7 hoặc 8 giờ theo giờ Oasinhtơn
(Washington), theo giờ GMT là 24 giờ ngày 31 tháng 10, hoặc 01 giờ sáng ngày
1 tháng 11 để chấm dứt mọi cuộc oanh tạc bằng không quân, hải quân và pháo
binh và mọi hành động khác liên quan đến việc dùng vũ lực chống toàn bộ lãnh
thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Những mệnh lệnh đó sẽ hoàn toàn có
hiệu lực 12 giờ sau đó…” [10;51]. Sau khi nghe xong những thông báo của
Hariman, Xuân Thủy cũng đồng ý rằng Hội nghị bốn bên sẽ họp trước ngày
6/11/1968 và chấp nhận việc giữ kín bí mật trước khi Giônxơn đọc diễn văn. Kết
thúc buổi tiếp xúc, mọi người đều vui vẻ vì đã giải quyết được vấn đề chấm dứt
ném bom và ngày họp Hội nghị bốn bên. Vấn đề bây giờ chỉ là đợi Giônxơn đọc
diễn văn tuyên bố ngừng ném bom đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đúng
20 giờ ngày 31/10/1968, Giônxơn đọc diễn văn tuyên bố chấm dứt ném bom
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên sóng truyền hình với nội dung: Chấm dứt mọi
việc ném bom bằng không quân, hải quân và bắn phá pháo binh chống lại miền
Bắc Việt Nam bắt đầu từ ngày 1/11/1968.
Theo đúng kế hoạch, Hội nghị bốn bên sẽ bắt đầu vào ngày 6/11/1968,
nhưng do còn nhiều lý do nên Hội nghị không diễn ra đúng dự định. Lý do thứ
nhất là do đó Chính quyền Sài Gòn chần chừ không cử người tham gia Hội nghị.
Tuy vậy, dưới sức ép của dư luận thế giới cũng như dư luận trong nước đến
ngày 8/11/1968, Thiệu buộc phải cử một phái đoàn đi Pari dự Hội nghị. Tưởng
rằng sau khi Thiệu nhận lời tham gia, Hội nghị sẽ diễn ra theo đúng kế hoạch
nhưng vấn đề thứ hai lại nảy sinh đó là vấn đề về hình dáng của chiếc bàn ngồi


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status