KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC: Xây dựng bộ ảnh mô tả đặc điểm hình thái và cấu tạo giải phẫu của một số loài Lan thuộc bộ Lan (Orchidales) ở Mộc Châu - Pdf 14

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo – Thạc sĩ Vũ Hồng Kim
người đã hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ, động viên em trong suốt thời gian thực
hiện đề tài này.
Em xin cảm ơn cô giáo – Thạc sĩ Vì Thị Xuân Thủy cùng các thầy cô giáo
trong bộ môn Thực vật học và toàn thể các thầy cô trong khoa Sinh – Hóa
trường Đại học Tây Bắc đã giúp đỡ em trong thời gian học tập tại khoa cũng
như khi thực hiện đề tài này.
Đề tài hoàn thành không thể tránh khỏi hạn chế và thiếu sót, vì vậy em rất
mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và các bạn sinh
viên để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5, năm 2013
Sinh viên:
Hà Trà My MỤC LỤC

Từ xưa đến nay giới thực vật đã có một vai trò quan trọng đối với con
người, nó là một phần thiết yếu của cuộc sống. Con người ngày càng muốn
khám phá, tìm hiểu về chúng, để phục vụ cho chính mình. Từ đó nhiều công
trình nghiên cứu về thực vật học đã được thực hiện và ngày càng phát triển,
đóng góp một phần vào sự phát triển của khoa học Sinh học. Các công trình
nghiên cứu chủ yếu là thực nghiệm hướng đến những đặc điểm hình thái ngoài,
công tác phân loại, định loại, giải phẫu
Trong giới thực vật phong phú ấy phải kể đến sự có mặt của Bộ Lan
(Orchidales) – thuộc lớp thực vật Một lá mầm, bộ này có 1 họ duy nhất là họ
Lan (Orchidaceae), đã sớm được biết đến là một họ lớn thứ 2 trong ngành Hạt
kín, với số lượng hiện nay biết khoảng hơn 800 chi với hơn 30.000 loài (1987),
phân bố khắp nơi, phong phú nhất là trong các rừng ẩm nhiệt đới Đông Nam Á
và châu Mỹ [7]. Nhiều loài có giá trị thẩm mĩ, y học cao, vì thế nó đã được
nghiên cứu tìm hiểu và khai thác từ rất sớm. Ở nước ta, sự thống trị của họ Lan
(Orchidaceae) thể hiện ở 132 chi với trên 1000 loài (1998), phân bố rộng rãi ở
nhiều nơi, nên cũng đã có nhiều nghiên cứu về các loài nổi tiếng xong chưa thể
bao quát hết được [7]. Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện góp phần tìm hiểu
những đặc điểm về hình thái – giải phẫu của một số đại diện thường gặp của bộ
Lan ở địa phương Mộc Châu – Sơn La. Cao nguyên Mộc Châu là một trong
những khu vực phát triển nhất của Tỉnh Sơn La, nơi đây có điều kiện tự nhiên
rất thích hợp cho nhiều loài thực vật có hoa trong đó có Phong Lan, nên thuận
lợi cho quá trình thu thập mẫu vật. Thực tế tại đây lại chưa có nhiều công trình
nghiên cứu khoa học, mà chủ yếu nhằm mục đích thương mại. Vì vậy việc đề tài
được thực hiện tại đây mang tính định hướng, mở đường cho các đề tài sau.
Trong quá trình học tập các bộ môn thuộc lĩnh vực Sinh học như giải phẫu
hình thái thực vật, phân loại thực vật… rất cần có nhiều hình ảnh trực quan để
minh họa ngay từ các đối tượng phổ biến, gần gũi với con người như Phong lan,
nhưng trong thực tế nhu cầu cơ bản này chưa được đáp ứng đầy đủ vì thế việc
xây dựng được những hình ảnh trực quan về đặc điểm hình thái ngoài và cấu tạo
giải phẫu một số đại diện của bộ Lan trên địa bàn Mộc Châu sẽ đáp ứng nhu cầu

Thu thập một số tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu để vận dụng vào
phân tích, biện luận các kết quả đạt được.
* Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm:
- Phương pháp quan sát:
Quan sát, mô tả các cơ quan sinh dưỡng, ghi chép đặc điểm phân bố và điều
kiện sinh thái của các loài nghiên cứu.

3
Chụp ảnh các đối tượng nghiên cứu trong điều kiện tự nhiên.
- Phương pháp thu mẫu:
Thu mẫu vật có đầy đủ các cơ quan rễ, thân, lá, hoa, quả (trường hợp hoa,
quả chưa có, sẽ thu vào mùa ra hoa).
- Phương pháp giải phẫu mẫu trong phòng thí nghiệm [10]
Phương pháp nhuộm kép (với đỏ carmin và xanh metylen)
Là cách nhuộm với hai loại màu trở lên, vì vậy lát cắt sẽ có màu khác nhau,
giúp dễ quan sát các thành phần của mẫu, đồng thời mang tính thẩm mĩ hơn.
Chuẩn bị:
+ Dụng cụ: Kính hiển vi, máy ảnh, lam kính, lamen, kim mũi mác, đĩa
đồng hồ, bút, giấy…
+ Hóa chất: Nước cất, nước Javel, dung dịch xanh metylen, đỏ carmin, axit
acetic 1%, glyxerin…
Tiến hành:
+ Chọn những lát cắt tốt ngâm vào nước Javel từ 10 – 15 phút để tẩy rửa
sạch nội quan của tế bào, làm sáng các lát cắt.
+ Rửa mẫu bằng nước cất
+ Rửa sạch các lát cắt trong dung dịch axit acetic 1% (để tẩy sạch
hypoclorat có trong Javel còn lại trong khoang tế bào). Nếu mẫu cắt có tinh bột
thì phải loại bỏ tinh bột bằng Cloran hydrat trong 15 – 30 phút.
+ Rửa kỹ lại những lát đó trong nước cất, lặp lại 3 lần.
+ Nhuộm xanh bằng dung dịch xanh metylen loãng (1/1000 đến 1/10000

mẫu vật.
- Tháng 03/2013 đến tháng 04/2013: Xử lý kết quả thu được và hoàn thành
đề tài.
- Tháng 05/2013: Báo cáo đề tài.
1.8. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Xây dựng bộ ảnh về hình dạng ngoài và cấu tạo giải phẫu của một số loài
thuộc bộ Lan (Orchidales), bổ sung bộ ảnh cho khoa Sinh – Hóa, trường Đại
học Tây Bắc.
- Đề tài hoàn thành là tài liệu tham khảo có giá trị cho công tác học tập,
nghiên cứu, tham khảo của sinh viên và những ai quan tâm đến vấn đề này.
5
1.9. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
Trong lịch sử phát triển của thực vật học thì giải phẫu hình thái được phát
triển tương đối sớm. Hơn 2300 năm trước đây, Theophrastus (371 – 286 TCN)
lần đầu tiên đã đề cập đến các dẫn liệu về hình thái và cấu tạo của cơ thể thực
vật trong các tác phẩm “Lịch sử thực vật”, “Nghiên cứu về cây cỏ”. Ông đã
chia các phần của cây ra rễ, thân, lá, hoa, quả. Đồng thời những kiến thức về giải
phẫu cũng lần đầu tiên được đề cập đến sự tạo thành vòng hàng năm của gỗ và
libe. Nhiều kiến thức về sự phân biệt trong cơ quan sinh dưỡng và cơ quan sinh
sản cũng được trình bày trong tác phẩm của ông. Giải phẫu thực vật với phương
pháp nghiên cứu của nó có liên quan chặt chẽ với những thành tựu của kính hiển
vi. Năm 1660, nhờ R. Hook phát minh ra kính hiển vi, nên vào năm 1672 Grew
đã sáng lập môn Giải phẫu thực vật và cùng Malpighi xuất bản quyển “Giải
phẫu thực vật” . J.P.deTournefort đã dựa vào 3 đặc điểm của tràng hoa, chia
thành 3 nhóm thực vật: cánh rời, cánh liền và không cánh. Trong khi John Jay đã
dựa vào cấu tạo của phôi, đặt cách phân chia thực vật một lá mầm và hai lá
mầm. Lineaus đã đưa ra khái niệm về biến thái hình thái khi xem xét về nguồn

trong những năm gần đây, các tác giả trong nước đã quan tâm nghiên cứu giải
phẫu một số loài, chi, họ thực vật Hạt kín, giải phẫu một số cây trong rừng ngập
mặn. Ngoài ra, các trường Đại học trong nước cũng đã cho xuất bản nhiều giáo
trình về Hình thái - Giải phẫu học thực vật rất có giá trị. 7
PHẦN 2
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Thực vật học là khoa học nghiên cứu về cây cỏ, thảo mộc. Khoa học này
nghiên cứu về hình dạng, cấu tạo, phân loại cây cỏ cùng với việc nghiên cứu
chức năng hoạt động của chúng, nghiên cứu các quy luật sinh trưởng, phát triển,
các quy luật tổ chức, tồn tại của giới thực vật cũng như sự phân bố của thực vật
trên trái đất, tìm hiểu ảnh hưởng tác động tương hỗ giữa cây cỏ với môi trường
chúng sống, cũng như ảnh hưởng qua lại giữa chúng với nhau Vai trò của thực
vật với sự sống vô cùng lớn lao, vì vậy các lĩnh vực nghiên cứu về nó là vô cùng
sâu rộng và cuối cùng cũng là để nhằm mục đích tìm hiểu quy luật sống và phát
triển tiến hoá của giới thực vật để sử dụng nguồn tài nguyên to lớn đó, cải tạo nó
để phục vụ cho cuộc sống con người ngày càng tốt hơn. [2]
Một trong những chuyên ngành của thực vật học là giải phẫu - hình thái thực
vật. Chuyên ngành này lại có thể chia thành 2 phần nhỏ hơn là:
Thứ nhất hình thái học thực vật nghiên cứu về hình dạng, cùng những biến
đổi của các dạng cây cỏ ở các mức độ khác nhau. Hình thái thực vật rất đa dạng,
vì thế khoa học này phải giải thích quy luật phát sinh, phát triển cá thể cũng như
của quá trình lịch sử phát sinh thực vật.
Thứ hai giải phẫu học thực vật nghiên cứu cấu tạo giải phẫu, cấu tạo bên
trong của cơ thể thực vật như: tế bào, các mô nên còn gọi là hình thái trong mà
phương pháp chủ yếu là dùng kính hiển vi quang học. [10]

dưới đất như rễ, chủ yếu để làm chức năng dự trữ. Thân thường có mang cành
và cành đến lượt nó lại phân nhánh các cấp tiếp theo khác nhau. Cành có mang
lá được gọi là chồi. [1]
Lá chủ yếu là cơ quan trên mặt đất, chuyên hoá cao với chức năng dinh
dưỡng khí và thoát hơi nước.
Rễ chủ yếu là phần cơ quan dưới đất của cây. Chức năng chủ yếu của rễ là
hấp thụ nước, muối khoáng và vận chuyển các chất này lên lá, là nơi dự trữ các
chất dinh dưỡng của cây.
Rễ và thân thường nằm theo một trục thẳng đứng và cấu tạo có nhiều nét
giống nhau cho nên chúng được gọi là cơ quan trục.
Tế bào là đơn vị cấu cơ sở của mọi cơ thể thực vật đa bào. Tế bào có thể rất
khác nhau về hình dạng, cấu tạo chức năng và về nguồn gốc hình thành. Tập hợp
các tế bào có hình dạng, cấu tạo giống nhau hoặc chuyên hoá để hoàn thành những
chức năng riêng gọi là mô. Nhiều loại mô khác nhau tham gia cấu tạo nên các cơ
quan và các cơ quan tham gia cấu tạo nên một cây hoàn chỉnh.
Sự phân loại về tế bào và mô chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì các tế bào có
thể khác nhau về hình dạng, cấu tạo lại có thể cùng đảm nhận một chức năng và
ngược lại. Đối với mô cũng vậy, các mô khác nhau có thể dần dần chuyển hoá

9
cho nhau và trùng với nhau từng phần về cấu tạo và chức phận. Vì vậy mà
không có một dấu hiệu cụ thể nào có thể dùng để phân loại mô cho mọi trường
hợp được, nên khái niệm mô trong giải phẫu thực vật chỉ là tương đối mà thôi.
Dù sao khái niệm đó trong cơ thể thực vật ít nhiều cũng được phân biệt một số
kiểu gắn liền với chức năng sống chính của nó. Theo một trong những cách phân
loại đã có từ lâu, thì cơ thể thực vật có mạch gồm 5 hệ thống mô: mô phân sinh,
mô bì, mô dẫn, mô cơ và mô cơ bản. [1, 11]
Khi tiến hành nghiên cứu các đại diện thực vật thuộc bộ Lan (Orchidales)
tôi chủ yếu dựa vào hệ thống phân loại của Takhtajan 1980, vì nó phù hợp với
xu hướng của đại đa số các nhà nghiên cứu Lan. Hệ thống này rõ ràng, không

trí thứ 2 – sau họ Cúc (Asteraceae) trong ngành thực vật Hạt kín
(Magnoliophyta = Angiospermae) và là họ lớn nhất trong lớp Một lá mầm
(Liliopsida = Monocotyledonae). Chính vì thế, hình thái, cấu tạo cũng như hệ
thống phân loại họ này hết sức đa dạng và phức tạp. [7]
Nhìn chung, họ Lan bao gồm các loài cây thân thảo, sống lâu năm, chúng
sống ở đất, nơi hốc vách đá, hoặc sống phụ sinh (bì sinh), sống hoại sinh…
Khi sống ở đất, chúng thường có dạng củ nạc, rễ mập và xum xuê hoặc có
thân rễ bò dài hay ngắn. Ở xứ lạnh, Phong lan ở đất thường có cụm hoa màu ít
sặc sỡ, sống chen lẫn với các đám cỏ ven rừng, trên các bãi hoang, hay trên các
triền núi bên các bụi cây thấp. Còn các loài Phong lan sống ở đất vùng nhiệt đới
thì rất đa dạng, chúng mọc ra các cụm hoa sặc sỡ, ngào ngạt hương thơm hoặc
hôi hám. Các loài cây này tuy khác xa nhau về địa lý, hoàn cảnh sống, nhưng
thường vẫn được xếp vào các chi chung, đặc chưng cho các chi toàn cầu là:
Herminium, Liparis, Malaxis…[8, 12]
Tuy nhiên, nét độc đáo nhất của bộ Lan là lối sống phụ sinh (bì sinh) bám,
treo lơ lửng trên vỏ các thân cây gỗ khác. Chúng phát triển các dạng thân rễ nạc,
dài hay ngắn, mập hay mảnh mai, đưa cơ thể bò đi xa, hay chụm lại thành các
bụi dày. Hệ rễ khí sinh (bản chất là rễ chùm, mọc lơ lửng trong không khí gọi là
rễ khí sinh) ở đây vừa làm nhiệm vụ lấy nước, muối khoáng trên vỏ cây gỗ, vừa
bám chặt vào giá thể để giữ cây khỏi bị gió cuốn đi, và giúp cây mọc cao vươn
ra chỗ có nắng. Hệ rễ phát triển nhiều hay ít phụ thuộc vào hình dạng chung của
cả cơ thể. [12]

11
Ở các loài đặc trưng cho hệ thực vật Châu Á nhiệt đới và Australia, nhiều
loài Lan rất nhỏ bé, sống trong các kẽ nứt của vỏ cây, hệ rễ cũng nhỏ đan thành
búi, ngược lại các loài Lan có kích thước lớn hay trung bình, hệ rễ khí sinh phát
triển rất phong phú, mọc dài, mập mạp và khỏe cứng. Để làm nhiệm vụ hấp thu
chất dinh dưỡng, chúng được bao bởi một lớp mô hút ẩm dày, bao gồm những tế
bào chết chứa đầy không khí. Lớp mô xốp này được gọi là màn (vêlamen). Khi


12
Ở thân các loài Lan sống phụ sinh có nhiều đoạn phình lớn thành giả hành
hay còn gọi là củ giả. Đó là bộ phận dự trữ nước, các chất dinh dưỡng để nuôi
cây trong hoàn cảnh khô hạn khi sống bám trên cao. Giả hành rất đa dạng, hoặc
hình cầu thuôn dài xếp sát nhau, hay rải rác đều đặn (Lan lọng – Bulbophyllum),
hay hình trụ xếp chồng chất lên nhau thành một thân giả (Lan hoàng thảo –
Dendrobium). Kích thước giả hành cũng rất biến động, từ dạng rất nhỏ chỉ bằng
đầu chiếc đinh găm – Lan lọng, đến dạng hình cầu to như chiếc mũ người lớn
(Lan bạch phượng – Pecteilis susannae). Cấu tạo giả hành gồm nhiều mô mềm
chứa đầy dịch nhầy, phía ngoài có lớp biểu bì với vách tế bào dày, nhẵn bóng
bảo vệ để tránh sự mất nước do sức nóng mặt trời. Đa số giả hành đều có màu
xanh bóng, nên cùng với lá, nó cũng làm nhiệm vụ quang hợp. Các loài Lan xứ
lạnh, sống ở đất giả hành lại làm nhiệm vụ dự trữ dinh dưỡng (nên không có
màu xanh và bị vùi lấp dưới đất), phía trên giả hành mang một hay nhiều lá. [7]
Lá Lan mọc đơn độc hoặc xếp dày đặc ở gốc, hay xếp cách đều đặn trên
thân, trên giả hành. Hình dạng lá thay đổi rất nhiều từ loại lá mọng nước, nạc,
dai, hình kim, hình trụ dài, tiết diện tròn hay có rãnh, đến loại lá hình phiến
mỏng, dải, mềm, xanh bóng đậm hay nhạt tùy theo vị trí sống của cây, đặc biệt
rất hiểm gặp các loại lá hình tròn (Lan thanh tiên quì – Nervilia) hay chia thùy
sâu (Lan bắp ngô – Acampe). Lá tận cùng thành một cuống hay thuôn dài xuống
thành bẹ ôm thân. Phiến lá trải rộng hay gấp lại theo các gân vòng cung (như cái
quạt) hay chỉ gấp lại theo một gân giữa (hình chữ V). Những lá dưới sát gốc,
thường giảm đi chỉ còn những bẹ không có phiến, hay giảm hẳn thành các vẩy.
Về màu sắc, phiến lá thường có màu xanh bóng, nhưng đôi khi hai mặt lá có
màu khác nhau (thường mặt dưới lá có màu xanh đậm hay tía), mặt trên lại
khảm thêm nhiều màu sặc sỡ. Nhiều loài Lan có lá màu hồng, màu nâu hồng, và
nổi lên các đường vẽ trắng theo các gân rất đẹp (Lan sứa – Anoectochilus). [7]
Phong lan ở các vùng nhất là các loài ở vùng nhiệt đới, thường trút hết lá
trong mùa khô hạn. Lúc này, cây ra hoa hoặc sống ẩn, chờ mùa mưa đến sẽ cho

mang tuyến mật, trong một cựa dài hay trong một u lồi, phần này dính vào chân
của cột nhị nhụy hay là phần kéo dài ra phía trước của cằm. Cấu tạo của cánh
môi độc đáo đến nỗi các nhà khoa học đã đặt nhiều vấn đề để tìm hiểu nguồn
gốc của nó. Họ này tiến hóa theo hướng thích nghi với sự thụ phấn nhờ côn
trùng và nhờ chim vì vậy trong số 6 nhị của hoa mẫu 3 (đặc trưng cho loại hoa
Hành tỏi) thì có sự biến đổi giảm dần khá phức tạp, từ loại có 3 nhị của hoa
thuộc chi Neuwiedia (Lan huệ), đến loại chỉ còn 2 nhị của chi Paphiopedilum
(Lan hài), cuối cùng đến loại chỉ còn 1 nhị của hầu hết các chi còn lại. Về cấu
tạo thì cũng từ các chi Phong Lan nguyên thủy Neuwiedia (Lan huệ), Apostasia
(Lan giả) có nhị và vòi nhụy chưa thể kết hợp với nhau, tiến tới dạng dính liền
với nhau thành cột nhị nhụy (ở hầu hết các chi Phong lan khác). Cột nhị nhụy
nằm chính giữa hoa, là dấu hiệu cơ bản để định loại họ Lan, mang phần đầu đực
ở phía trên và phần cái (đầu nhụy) ở mặt trước. Cột này thường dài, thẳng hay
cong về phía trước, và gốc có thể kéo dài ra phía trước thành cằm. Nhị gồm có 2
phần, bao phấn và hốc phấn. Bao phấn nằm ở cột nhị nhụy gần như ngang hay

14
thẳng đứng, nó đối diện với lá đài lưng và ngoại hướng, hoặc đối diện với cánh
môi và nội hướng. Còn hốc phấn thì lõm lại, mang khối phấn và thường song
song với bao phấn. Khối phấn được che đậy bởi mỏ bất thụ - do một đầu nhụy
biến đổi thành, gồm toàn bộ hạt phấn dính lại với nhau, rất cứng do có tinh bột,
sáp hay chất sừng. Số lượng khối phấn biến đổi từ 2, 4, 6 đến 8, có dạng thuôn
hay cong lưỡi liềm, đôi khi thuôn dài có đuôi, kết thúc bởi chuôi và gót. Hoa
Lan có bầu hạ (bầu dưới) thuôn dài kéo theo cuống (rất khó phân biệt giữa bầu
và cuống hoa). Sự vặn xoắn toàn bộ hoa trong quá trình phát triển là đặc điểm
của bầu. Hoa thường bị vặn xoắn 180
0
sao cho cánh môi khi bắt đầu nở hướng ra
bên ngoài ở vào phía dưới làm chỗ đậu thuận lợi cho côn trùng. Rất ít khi gặp
hoa vặn 360

để cho hạt giống nảy mầm. Lúc này các sợi nấm sẽ chui vào trong phôi, do sự
hoạt động của chúng mà tinh bột sẽ chuyển hóa thành đường, cần thiết cho sự
phát triển của phôi. Ở những cây trưởng thành thường có nấm cộng sinh ở rễ.

15
Trọng lượng toàn bộ hạt trong 1 quả chỉ bằng 1/10 đến 1/1000 mg, trong đó
không khí chiếm 76% - 96% thể tích hạt. Rõ ràng hạt cây Lan hầu như không có
trọng lượng. Nhờ đặc điểm này, hạt được mang đi rất xa.
Và cũng vì vậy họ Lan phân bố khắp nơi trên trái đất, nhưng phong phú nhất
là ở trong các rừng ẩm nhiệt đới Đông Nam Á và châu Mỹ. Ở nước ta hiện biết trên
130 chi với trên 1000 loài. Ở khu vực Tây Bắc do nằm ở vĩ độ cao, cùng với nhiều
dãy núi lớn làm bình phong, ngăn chặn gió lạnh phương bắc và ở sâu trong lục địa,
ít ảnh hưởng gió mùa Đông bắc nên ở đây ít lạnh hơn, ngược lại mùa hạ lại nóng
sớm, kèm theo gió lào, nên các chi loài Phong lan ở đây có khả năng chịu nóng
hơn, như các loài trong chi Rhynchostylis, Dendrobium, Eria… [7, 12]
Hầu hết các loài đều có hoa rất đẹp, làm cảnh. Tuy nhiên sinh trưởng của
các loài Lan rất chậm, từ khi nảy mầm cho đến khi ra hoa phải mất mấy năm, có
khi tới 10 – 15 năm, đồng thời do một số loài bị khai thác nhiều do đó trở nên
quý hiếm, nên cần phải có biện pháp bảo vệ.
2.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
2.2.1. Kết quả nghiên cứu hình thái, sinh học và phân bố
2.2.1.1. Cẩm báo nhung

Hình 1: Lan Cẩm báo (Vandopsis parishii)
Lan Cẩm báo nhung thuộc chi Cẩm Báo (Da báo) Vandopsis.
- Tên khác: Cẩm báo.
- Tên khoa học: Vandopsis parishii (Rchb. f.) Schltr. 1912

16
- Tên đồng danh: Hygrochilus parishii (Rchb. f.) Pfitzer 1897, Stauropsis


17
2.2.1.2. Chuỗi ngọc

Hình 2: Lan Chuỗi ngọc (Dendrobium findlayanum)
Lan Chuỗi ngọc thuộc chi Hoàng Thảo Dendrobium.
- Tên khác: Hoàng thảo thắt đốt, Hoàng thảo đùi gà, Hoàng thảo gióng trúc.
- Tên khoa học: Dendrobium findlayanum Par. & Rchb.f
- Tên đồng danh: Callista findlayana
- Mô tả:
Phong lan lớn, thân 6 – 8 đốt phình ra như gióng trúc, thân dài 40 – 50cm,
lá rụng vào mùa thu. Hoa có từ 1 – 3 chiếc, to 7 – 8cm, mọc ra từ đốt gần ngọn.
Hoa nở vào mùa Đông – Xuân, thơm và lâu tàn, cánh hoa trắng, phớt tím ở đầu
cánh và vào trong càng nhạt dần, hoa có đốm nâu đen ở trong họng (hoa chuỗi
ngọc biến đổi từ dạng họng vàng đến họng vàng có đốm nâu đen ở trung tâm).
Hình thái cánh hoa và cánh đài cũng không giống nhau, không đều đặn, nhiều
nơi trên rìa cánh có những đường răng cưa lớn nhỏ khác nhau
- Sinh học và sinh thái:
Chuỗi ngọc mọc phụ sinh trên thân các cây thân gỗ, thích hợp với điều kiện
nhiệt độ từ 15.6 – 32.2
0
C, nhiệt độ trung bình khoảng 10 – 26.7
0
C. Chuỗi ngọc
yêu cầu độ ẩm từ 50 – 70%.
- Phân bố: Sơn La (Mộc Châu), Điện Biên, Sa Thầy, Kontum.
- Công dụng: Cây làm cảnh vì có hoa đẹp, và giá trị thương mại cao. [13,
14, 15]

18

Còn có ở Ấn Độ, Mianma, Trung Quốc.
- Công dụng:
Dùng trị nhiệt bệnh thương tổn đến tân dịch, miệng khô phiền khát, bị hư
nhiệt sau khi khỏi bệnh. Cũng được dùng làm cảnh vì hoa đẹp có cựa dài, hoa
màu trắng hay vàng nhạt, môi vàng có các đường sống màu cam. [5]
2.2.1.4. Đuôi cáo

Hình 4: Lan Đuôi cáo (Rhynchostylis retusa)
Lan Đuôi cáo thuộc chi Ngọc Điểm Rhynchostylis.
- Tên khác: Bạch vĩ hồ, Ngọc điểm đuôi cáo, Ngọc điểm vĩ hồ.
- Tên khoa học: Rhynchostylis retusa [L.] Blume 1825.
- Tên đồng danh: Rhynchostylis guttata Rchb. f. 1854, Rhynchostylis violacea
Rchb. f. 1854, Sarcanthus guttatus Lindl. 1831.
- Mô tả:
Lan sống phụ sinh. Rễ dọc theo thân. Lá hình dải, dài 15 – 45cm, rộng 2.5cm,

20
cong, 2 thùy lệch nhau, mặt trên màu xanh lục, mặt dưới màu lục nhạt với vài
sọc dọc màu hơi vàng.
Cụm hoa là chùm thõng xuống dài bằng hay dài hơn lá. Nhiều hoa, rộng
1.5 – 2cm, màu trắng có chấm tím. Lá đài bên hình lưỡi hái, chạm nhau bởi
mép. Cánh môi hoàn toàn tím, hình nêm, không có thùy bên, đỉnh bằng hay lõm.
Cựa sâu 5mm, gần hình trụ, ở giữa mặt trong có một dải rộng lông ngắn cứng,
nối bởi một đường lông với gốc của chân cột. Cột màu trắng, có vân tím, hai
khối phấn gần hình cầu. Bầu và cuống dài khoảng 1.5cm.
Quả nang hình chùy, dài 2.5 – 4cm.
- Sinh học và sinh thái:
Nở hoa vào tháng 5 - 7, hoa bền tới một tháng. Đuôi chồn thích hợp với nhiệt
độ ấm áp 20 – 25
0

phấn màu trắng, đỉnh màu tím, phủ nhú mịn.
- Sinh học và sinh thái:
Nở hoa tháng 3 – 4. Phụ sinh bám trên các cây gỗ lớn trong rừng ở độ cao
400 – 1500m. Thích hợp với những nơi khí hậu mát mẻ, cần ánh sáng vừa phải,
thoáng gió có thể sống trong bóng râm một phần. Nhiệt độ thích hợp là 15.6 –
32.2
0
C, trung bình từ 10 – 26.7
0
C. Độ ẩm thích hợp là 45 – 70%. Yêu cầu độ ẩm
cao và một phần bóng râm từ cuối mùa xuân đến mùa hè. Vào mùa đông yêu
cầu về độ ẩm thấp hơn, nhưng không được quá khô.
- Phân bố:
Sơn La (Mộc Châu), Lào Cai (Sa Pa, Than Uyên: Ho Mit, Văn Bàn), Nghệ
An (Vinh, Đô Lương), Khánh Hòa (Suối Giao, Yersin, Diên Khánh: Hòn Bà),
Lâm Đồng (Lạc Dương: Lang Bian, Đà Lạt: thác Prenn). Ngoài ra còn có ở Lào,
Trung Quốc (đảo Hải Nam), Ấn Độ, Malayxia, Mianma, Nêpan, Butan, Thái Lan.
- Công dụng:
Dùng trị ho, đau hầu họng, bỏng lửa. Toàn cây trị kinh phong trẻ em, ăn
uống trúng độc. Cây làm cảnh vì hoa đẹp màu tím nhạt, cánh môi màu vàng nhạt

22
với các gân chéo màu tím ở gốc. [5]
2.2.1.6. Long tu

Hình 6: Lan Long tu (Dendrobium primulinum)
Long tu thuộc chi Hoàng Thảo Dendrobium.
- Tên khác: Hoàng thảo long tu Lào, Hoàng thảo long tu, Hoàng thảo vôi.
- Tên khoa học: Dendrobium primulinum Lindl 1858.
- Tên đồng danh: Callista primulina (Lindl.) Kuntze 1891, Dendrobium

- Tên đồng danh: Callista chrysantha, Dendrobium chrysanthum var.
anophthalama, Dendrobium chrysanthum var. microphthalama, Dendrobium
paxtonii.
- Mô tả:
Thân mọc đứng rồi thõng xuống dài 70 – 120cm, hình trụ, dày 0.6 – 0.8cm,


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status