Thiết kế sách giáo khoa điện tử chương "dung dịch - sự điện li" lớp 10 chuyên hóa học - Pdf 14

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
-------------------------

Trần Tuyết Nhung Chuyên ngành : Lí luận và phương pháp dạy học hóa học
Mã số : 60 14 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRẦN THỊ TỬU

cá nhân; tăng cường tí
nh chủ động, tính tự chủ của HS, sinh viên trong quá trình học tập,...” [51]
Tăng cường năng lực tự học cho HS là một yếu tố quan trọng góp phần đổi mới PPDH và nâng cao
chất lượng đào tạo ở các trường THP
T. Xuất phát từ đặc điểm của HS nói chung và HS chuyên hóa nói
riêng, ngoài việc học tập trên lớp các em thường phải dành nhiều thời gian để tự học và tự đọc. Việc
thiết kế tài liệu tự học có hướng dẫn cho HS là một biện pháp giúp HS có thể dễ dàng trong việc tự
học, tự đọc, tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập của mình.
Bên cạnh đó, việc ứng dụng c
ông nghệ thông tin trong giảng dạy hiện nay rất được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm vì nó góp phần tích cực thúc đẩy quá trình đổi mới PPDH.
Từ những lí do trên, tôi đã chọn đề tài: THIẾT KẾ SÁCH GIÁO KHOA ĐIỆN TỬ (E - BOOK)
CHƯƠNG “DUNG DỊCH - SỰ ĐIỆN LI” LỚP 10 CHUYÊN HÓA HỌC nhằm hỗ trợ hoạt động
tự học môn hóa học của HS và góp phần vào việc đổi mới PPDH hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế sách giá
o khoa điện tử chương “dung dịch – sự điện li” lớp 10 chuyên hóa giúp HS tự
học, tự nghiên cứu, góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu: Việc thiết kế sách giáo khoa điện tử chương “dung dịch – sự điện li” lớp
10 chuyên hóa.
 Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn hóa học ở các trường THPT chuyên ở Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của đề tài.
- Tìm hiểu thực trạng sử dụng CNTT trong dạy học hóa học ở trường phổ thông.
- Thiết kế sách giáo khoa điện tử chương “Dung dịch - Sự điện li”.
- Thực nghiệm sư phạm để đánh giá kết quả nghiên cứu.

5. Phạm vi nghiên cứu
Chương “Dung dịch - Sự điện li” trong chương trình chuyên hóa học lớp 10 THPT.


1.1. Đổi mới phương
pháp dạy và học
1.1.1. Phương pháp dạy học

Theo TS Trịnh Văn Biều [4]:
- PPDH là một trong những thành tố quan trọng nhất của quá trình dạy học. Cùng một nội dung
nhưng HS có hứng thú, tích cực hay không, có hiểu bài một cách sâu sắc không, phần lớn phụ thuộc
vào PPDH của người thầy. PPDH có tầm quan trọng đặc biệt nên nó luôn luôn được các nhà giáo dục
quan tâm.
- PPDH là cách thức thực hiện phối hợp, thống nhất giữa người dạy và người học, nhằm thực hiện
tối ưu các nhiệm vụ dạy học. Đó là sự kết hợp hữu cơ và thống nhất biện chứng giữa hoạt động dạy và

hoạt động học trong quá trình dạy học.
- PPDH the
o nghĩa rộng bao gồm:

+ Phương tiện dạy học.
+ Hình thức tổ chức dạy học.
+ PPDH theo nghĩa hẹp.
1.1.2. Những xu hướng đổi mới phương pháp dạy học
The
o TS. Lê Trọng Tín [52], một số xu hướng đổi mới PPDH nói chung và PPDH hóa học nói
riêng ở nước ta là:
1. Tăng cường tính tích cực, tính tìm tòi sáng tạo ở người học, tiềm năng trí tuệ nói riêng và nhân
cách nói chung thích ứng năng động với thực tiễn luôn đổi mới.
2. Tăng cường năng lực vận dụng trí thức đã học vào cuộc sống, sản xuất luôn biến đổi.
3. Chuyển dần trọng tâm của PPDH từ tính chất thông báo, tái hiện đại trà chung c
ho cả lớp sang
tính chất phân hóa – cá thể hóa cao độ, tiến lên theo nhịp độ cá nhân.

hành động trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI
và dự đoán “sẽ có sự thay đổi nền giáo dục một cách căn
bản vào đầu thế kỷ XXI do ảnh hưởng của CNTT ”. Như vậy, ICT đã ảnh hưởng sâu sắc tới giáo dục
và đào
tạo, đặc biệt là trong đổi mới PPDH, đang tạo ra những thay đổi của một cuộc cách mạng giáo
dục, vì nhờ có cuộc cách mạng này mà giáo dục đã có thể thực hiện được các tiêu chí mới:

Học mọi nơi (any where).

Học mọi lúc (any time).

Học suốt đời (life long).

Dạy cho mọi người (any one) và mọi trình độ tiếp thu khác nhau.

Thay đổi vai trò của người dạy, người học, đổi mới cách dạy và cách học.

Ở nước ta, vấn đề ứng dụng ICT trong giáo dục, đào tạo được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, coi
yêu cầu đổi mới PPDH có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều hết sức cần thiết. Các
Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã thể hiện rõ điều nà
y,
như: Nghị quyết CP của Chính phủ về chương trình quốc gia đưa công nghệ thông tin (CNTT) vào
giáo dục đào tạo (1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, Luật giáo dục (1998) và Luật giáo dục
sửa đổi (2005), Nghị quyết 81 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo, Chiến
lược phát triển giáo dục 2001 – 2010,…

Trong Nghị quyết TW II, khoá VIII Đảng và Nhà nước ta khẳng định, phải “đổi mới phương pháp
giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người
học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm
bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho HS,…”[22]

HỆ THỐNG
GIÁO DỤC
TRONG TƯƠNG LAI
ĐẶC ĐIỂM
- Đóng kín, cứng nhắc.
- Mở, mềm dẻo.
- Học ở mọi nơi, mọi lúc, học
mọi thứ, ai học cũng được.
- Thay đổi tâm lí.
- Phân mảnh rời rạc các
trường và các ngành.
- Nối mạng giáo dục/móc
xích các trường với nhau.
- Sự hội tụ, giao thoa của
các ngành với nhau và với
CNTT và TT.
- Cấu trúc hoá lại cả về hệ
thống giáo dục lẫn nội dung.
- GV trở thành người
hướng dẫn hơn là người
dạy dỗ.
- Học trong một khoảng đời. - Học suốt đời. - Tiêu chuẩn chất lượng mới.
- Tập trung vào chuyện thi cử.
- Tập trung vào chất lượng
con người, nâng cao dân trí.
- Quốc tế hoá và hợp tác
quốc tế.
1.1.3.2. Vai trò của CNTT trong dạy học Hóa học
Đối với môn hóa học, việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy sẽ tạo ra một bước chuyển cơ bản
trong quá trình đổi mới nội dung, PPDH. Cụ thể là:

í
thông tin, phối hợp các kênh thông tin trong một tài liệu văn bản…); vì thế GV cần có các kĩ năng tốt
để trình diễn một tài liệu điện tử - một tài liệu tích hợp các thành phần khác nhau: văn bản, đồ hoạ, âm
thanh, video...
- Các kĩ năng tạo ra các sản phẩm thích hợp dạng multimedia bao gồm nhiều dạng tài liệu như văn
bản, video, hình ảnh, âm thanh cũng hết sức cần thiết. Các tài liệu văn bản và các sản phẩm
khác như
đồ thị, hình ảnh, đoạn phim, âm thanh thường được tích hợp trong một tài liệu … các sản phẩm này
thường là kết quả nghiên cứu trong quá trình dạy học hoặc trong các sinh hoạt nhóm chuyên môn. Như
vậy, ngoài khả năng tạo ra văn bản, GV cần biết cách thu thập các dữ liệu cần thiết như các đoạn phim
video, các đoạn âm thanh, hình ảnh và tích hợp nó trong một sản phẩm trình diễn.
- Kĩ năng sử dụng các PMDH trong chuyên môn: PMDH tạo ra môi trường học tập mới cho HS
,
giúp HS khám phá, giải quyết vấn đề, sáng tạo. Có nhiều PMDH khác nhau được bán trên thị trường,
người GV cần biết được PMDH nào là tốt, cần thiết cho môn học của mình. Với từng PMDH, cần biết
lựa chọn tình huống sử dụng phần mềm để dạy học có hiệu quả. Mặt khác GV cần biết cách thức tổ
chức hoạt động học tập cho HS trong m
ôi trường CNTT. Cần hình dung nếu sử dụng các PMDH, việc
dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, dạy học kiến tạo, dạy học theo dự án sẽ như thế nào. Các hình
thức tổ chức dạy học khi sử dụng từng PMDH cụ thể như dạy đồng loạt, dạy học theo nhóm, tổ chức
hoạt động cá nhân sẽ có những nét khác biệt riêng, cần tới sự am hiểu của GV.
GV từng môn học cũng
cần có kĩ năng sử dụng CNTT trong các tình huống sư phạm điển hình của môn học. Với môn hóa học,
cần lưu ý đến tình huống sử dụng các phần mềm mô phỏng, sử dụng các thí nghiệm ảo trong dạy
học...GV cũng cần quan tâm tới khả năng kết hợp tối ưu các thiết bị dạy học truyền t
hống với CNTT
trong dạy học, sử dụng CNTT để đánh giá kết quả học tập của HS.
- Biết sử dụng các công cụ trợ giúp để tạo ra các sản phẩm PMDH cá nhân
Các PMDH dù có chất lượng cao đến đâu cũng không thể thích ứng hết với mọi trường hợp riêng lẻ
của quá trình dạy học. Trong môi trường dạy học đa dạng, với các đối tượng HS rất khác nha


- GV có thể vận dụng PPDH theo dự án của chương trình Dạy học cho Tương lai của Intel (Intel
Teach to the Future). Phương pháp này đòi hỏi HS vừa làm việc theo nhóm vừa ứng dụng CNTT trong
quá trình học tập để thiết kế ba bài tập: bài trình diễn PowerPoint, trang web và ấn phẩm (tờ rơi) để
thực hiện ý tưởng dự án của mình. Tuy nhiên, để thực hiện phương pháp này đòi hỏi GV phải được tập
huấn các nội dung của chương trình “Dạy học cho Tương lai của Intel” và hướng dẫn c
ho HS ứng dụng
CNTT để thực hiện các yêu cầu của chương trình phục vụ cho quá trình học tập ...
1.2. Tự học
1.2.1. Tự học là gì?

Theo từ điển Giáo dục học – NXB Từ điển Bách khoa 2001 [25], tự học là: “quá trình tự mình hoạt
động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực hành”.
Tiến sĩ Võ Quang Phúc cho rằng: “Tự học là một bộ phận của học, nó cũng được hình thành bởi
những thao tác, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của người học trong hệ thống tương tác của h
oạt động dạy
học. Tự học phản ánh rõ nhất nhu cầu bức xúc về học tập của người học, phản ánh tính tự giác và sự nỗ
lực của người học, phản ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt được kết quả
nhất định trong hoàn cảnh nhất định với nồng độ học tập nhất định”.
Tự học thể hiện bằng cách tự đọc tài liệu giáo khoa, sách báo các loại, nghe radio, truyền hì
nh,
nghe nói chuyện, báo cáo, tham quan bảo tàng, triễn lãm, xem phim, kịch, giao tiếp với những người có
học, với các chuyên gia và những người hoạt động thực tiễn trong các lĩnh vực khác nhau. Người tự
học phải biết cách lựa chọn tài liệu, tìm ra những điểm chính, điểm quan trọng trong các tài liệu đã đọc,
đã nghe, phải biết các
h ghi chép những điều cần thiết, biết viết tóm tắt và làm đề cương, biết cách tra
cứu từ điển và sách tham khảo, biết cách làm việc trong thư viện… Đối với HS, tự học còn thể hiện
bằng cách tự làm các bài tập chuyên môn, các câu lạc bộ, các nhóm thực nghiệm và các hoạt động
ngoại khóa khác. Tự học đòi hỏi phải có tính độc lập, tự chủ, tự giác và kiên trì cao.
1.2.2. Các hình thức của tự học

+ Thời (2): Tự thể hiện
Người học tự thể hiện mình bằng văn bản, lời
nói, tự sắm vai trong các tình huống học, tự trình bày
bảo vệ sản phẩm cá nhân ban đầu của mình, tự thể hiện qua sự hợp tác, trao đổi, đối thoại qua các tình
huống giao tiếp với các bạn và thầy, tạo ra sản phẩm có tính chất xã hội.
+ Thời (3): Tự kiểm tra, tự điều chỉnh
Sau khi tự thể hiện mình qua sự hợp tác, trao đổi, giao tiếp với các bạn và thầy, sau khi
thầy kết
luận, người học căn cứ vào kết luận của thầy và ý kiến của các bạn, tự kiểm tra, tự đánh giá sản phẩm
ban đầu của mình, tự sửa sai, tự điều chỉnh thành sản phẩm khoa học (tri thức), tự rút kinh nghiệm về
cách học, cách xử lí tình huống, cách giải quyết vấn đề.
1.2.3.2. Chu trình dạy của thầy
Chu trình dạy của thầy nhằm tác động hợp lí, phù hợp và cộng hưởng với chu trình tự học của trò,
cũng là chu trình ba thời tương ứng với chu trình tự học ba thời của trò.
- Hướng dẫn
- Tổ chức
- Trọng tài, cố vấn, kết luận, kiểm tra.
+ Thời (1): Hướng dẫn
Thầy hướng dẫn cho người học về các tình huống học, các vấn đề cần phải giải quyết, các nhiệm
vụ phải thực hiện trong cộng đồng người học.

+ Thời (2): Tổ chức
Thầy tổ chức cho trò tự thể hiện mình và hợp tác với các bạn: tổ chức các cuộc tranh luận hội thảo,
sinh hoạt nhóm, các hoạt động tập thể trong và ngoài nhà trường nhằm tăng cường mối quan hệ giao
tiếp trò – trò, trò – thầy và sự hợp tác cùng nhau tìm ra kiến thức, chân lí.
+ Thời (3
): Trọng tài, cố vấn, kết luận, kiểm tra
Thầy là trọng tài, cố vấn kết luận về các cuộc tranh luận, hội thảo, đối thoại…để khẳng định về
mặt khoa học kiến thức do người học tự mình làm ra.
Cuối cùng, thầy là người kiểm tra đánh giá kết quả tự học của trò, trên cơ sở trò tự kiểm tra, tự

thức khổng lồ của chương trình. Do đó, tự học là một giải pháp tối ưu để giải quyết mâu thuẫn giữa
khối lượng kiến thức đồ sộ với quĩ thời gian ít ỏi ở nhà trường.
- Tự học là con đường tạo ra tri thức bền vững c
ho mỗi người. Quá trình tự học khác hẳn với quá
trình học tập thụ động, nhồi nhét, áp đặt. Quá trình tự học diễn ra theo đúng qui luật của hoạt động
nhận thức. Kiến thức có được do tự học là kết quả của sự hứng thú, tìm tòi, lựa chọn nên bao giờ cũng

vững chắc bền lâu.
- Người học phải biết cách tự học vì học tập là một quá trình suốt đời. Đối với HS THPT, nếu
không có khả năng và phương pháp tự học, tự nghiên cứu thì khi lên đến những bậc cao hơn HS sẽ khó
thích ứng với cách học mới đòi hỏi phải tự học, tự nghiên cứu nhiều hơn.
- Tự học của HS THPT còn có vai trò quan trọng đối với yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo,
nâng ca
o chất lượng đào tạo tại các trường phổ thông. Đổi mới dạy học theo hướng tích cực hóa người
học sẽ phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học trong việc lĩnh hội tri thức. Vì
vậy, tự học là con đường phát triển phù hợp với qui luật tiến hóa của nhân loại và là biện pháp sư
phạm đúng đắn cần đư
ợc phát huy ở các trường phổ thông.
1.2.6. Tự học qua mạng và lợi ích của nó
1.2.6.1. Tự học qua mạng
Tự học qua mạng là một hình thức của tự học trong đó thay vì dùng lời nói trực tiếp để giao lưu
với nhau, mà dùng các phương tiện khác đó là máy tính có kết nối mạng internet. Người học chủ động
tìm kiếm tri thức để thỏa mãn những nhu cầu hiểu biết của mình, tự củng cố, tự phân tích, tự đào sâu,
tự đánh giá, tự rút kinh nghiệm…với sự hỗ trợ của m
áy tính, các công nghệ tin học và mạng internet.
1.2.6.2. Lợi ích của tự học qu
a mạng
- Tính linh hoạt: người học có thể tự lựa chọn kiến thức tùy theo nhu cầu của bản thân.
- Tự học qua mạng có thể làm biến đổi cách học cũng như vai trò của người học. Người học đóng
vai trò trung tâm và chủ động của quá trình đào tạo, có thể học mọi lúc, mọi nơi, miễn rằng nơi đó có

dẫn, chỉ dạy của người thầy. Chính vì vậy, “trong nhà trường điều chủ yếu không phải là nhồi nhét cho
học trò một mớ kiến thức hỗn độn
… mà là giáo dục cho học trò phương pháp suy nghĩ, phương pháp
nghiên cứu, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề” (Thủ tướng Phạm Văn Đồng -
1969). GV cần giúp cho HS tìm ra phương pháp tự học thích hợp và cung cấp cho HS những phương
tiện tự học có hiệu quả. Dạy cho HS biết cách tự học qua mạng chính là một trong những cách giúp HS
tìm ra chiếc chìa khóa vàng để mở kho tàng kiến thức vô tận của nhân loại.
1.3. Sách giáo khoa điện tử (e-book)

1.3.1. Khái niệm e-book
Theo trang web www.thuvien-ebook.com [83] “E-book là từ viết tắt của electronic book (sách điện
tử). Hiểu theo cách đơn giản nhất, sách điện tử (e-books hay digital books) là phiên bản dạng số (hay

điện tử) của sách. Nội dung của sách số có thể lấy từ sách giấy hoặc mang tính độc lập tùy thuộc vào
người xuất bản. Một số người thường sử dụng thuật ngữ này để chỉ luôn cả thiết bị dùng để đọc sách
dạng số (còn gọi là book – reading appliances hay e-book readers)”.
Trong luận văn này, có thể hiểu sách giáo khoa điện tử thực chất giống như một cuốn sách giáo
khoa bình thường nhưng có bổ sung nhiều hình ảnh, phim thí nghiệm, nhiều bài tập hoá học… và được
sử dụng thông qua hệ thống máy tính.
 Những tính năng ưu việt của e-book

E-book có những lợi thế mà sách in thông thường không có được:
- Rất gọn nhẹ, giá thành rẻ.
- Có thể điều chỉnh về cỡ chữ, màu sắc, và các thao tác cá nhân hoá tuỳ theo sở thích của người
đọc.
- Nhiều hình ảnh, phim minh họa rõ nét, hấp dẫn.
- Khả năng lưu trữ lớn, có thể chứa rất nhiều thông tin, hình ảnh, phim…
Cùng với sự phát triển vượt bậc của mạng internet và kết hợp với các thiết bị kỹ thuật cao cấp, hầu
hết các sách in giấy thông thường đều có thể được làm thành sách điện tử. C
hính vì vậy mà ngày nay,

3. Development (phát triển các quá trình):
- Thiết kế đồ hoạ.
- Phát triển các phương tiện 3D và đa môi trường (multimedia).
- Hình thức và nội dung các trang Web.
- Phương tiện thực tế ảo.
4. Im
plementation (triển khai thực hiện):
Cần tích hợp với chương trình công nghệ thông tin của trường học :

Chuẩn bị cho phù hợp với thực tế các phòng máy tính.

Thủ tục tiến hành với thầy.

Triển khai trong toàn bộ các đối tượng dạy, học và quản lí.

Quản lí tài nguyên (nhân lực và vật lực).
5. Evaluation (lượng giá):
Đánh giá hiệu quả huấn luyện thường sử dụng mô hình bốn bậc do Donald Kirkpatrick phát triển
(1994). Theo mô hình này, quá trình lượng giá luôn được tiến hành theo thứ tự vì thông tin của bậc trước
sẽ làm nền cho việc lượng giá ở bậc kế tiếp:
- Bậc 1: Phản ứng tích cực hay tiêu cực (Reactions).
- Bậc 2: Hiệu quả học tập (Learnings).
- Bậc 3: Khả năng chuyển giao hay chuyển đổi (Transfers).
-
Bậc 4: Kết quả thực tế (Results).

Hình 1.1. Mô hình lượng giá bốn bậc theo Kirkpatrick
1.3.4. Các phần mềm thiết kế e-book
Trong luận văn này, chúng tôi thiết kế e-book dưới dạng một website nên đã sử dụng các phần
mềm dùng xây dựng website.

Số lượng nhà
cung cấp
hosting
Nhiều, dễ lựa chọn.
Không nhiều, vì
vậy khó cho việc
lựa chọn.
Không nhiều, vì
vậy khó cho
việc lựa chọn.
Ít, khó tìm.
Số lượng nhà
cung cấp
website
Nhiều, khả năng
chọn lựa một
trang web phù
hợp tốt hơn.
Nhiều, khả năng
chọn lựa một
trang web phù
hợp tốt hơn.
Ít.
Ít, khả năng
chọn lựa để xây
dựng một trang
web phù hợp rất
khó.
Khả năng mở
rộng và phát

cao, thì việc chọn cho mình ngôn ngữ thiết kế web với HTML là giải pháp tốt nhất, bởi vì ngôn ngữ
HTML dễ học, thiết kế đơn giản, dễ thay đổi cấu trúc web và phát triển website thật dễ dàng, đồng thời
việc kết hợp HTML với các ngôn ngữ thiết kế web khác như CSS, Javascript và đồ họa sẽ làm cho
website đẹp hơn, sinh động hơn.
1.3.4.1. Ngôn ngữ HTML
HTML (hay Hypertext Markup Language - Ngôn ngữ liên kết siêu văn bản) là ngôn ngữ đánh dấu
chuẩn dùng lập trình các tài liệu World Wide Web, tài liệu là các tập tin văn bản đơn giản.
Ngôn ngữ HTML dùng các tag (thẻ) hoặc các đoạn mã lệnh để chỉ cho các trình duyệt (Web
browsers) cách hiển thị các thành phần của trang như text và graghics, và đáp lại những thao tác của
người dùng bởi các thao tác ấn phím
và nhắp chuột. Hầu hết các Web browser, đặc biệt là Microsoft
Internet Explorer và Netscape Navigator, nhận biết các tag của HTML vượt xa những chuẩn HTML
đặt ra.
1.3.4.2. CSS (Cascading Style Sheet)
CSS (cascading style sheet) cho phép chúng ta định dạng (font chữ, kích thước, màu sắc ....) của
các đối tượng sử dụng CSS đó. Ưu điểm của CSS là tách riêng phần định dạng ra riêng khỏi phần nội
dung, do đó rất tiện khi bạn muốn thay đổi giao diện của một website.
1.3.
4.3. Ngôn ngữ Javascript (ngôn ngữ kịch bản)
JavaScript, theo phiên bản hiện hành, là một ngôn ngữ lập trình kịch bản (script) dựa trên đối
tượng đư
ợc phát triển từ các ý niệm nguyên mẫu. Ngôn ngữ này được dùng rộng rãi cho các trang web,
nhưng cũng được dùng để tạo khả năng viết script sử dụng các đối tượng nằm sẵn trong các ứng dụng.
Các đoạn mã script được chèn vào HTML để làm tăng khả năng linh hoạt của thiết kế website động,
tạo ra một số hiệu ứng đặc biệt cho website. 1.3.4.4. Thiết kế web với Dreamweaver
Dreamweaver là một chương trình chuyên nghiệp để tạo và quản lý các trang web. Dreamweaver
cung cấp các công cụ phác thảo trang web cao cấp, hỗ trợ các tính năng DHTML (Dynamic HTML)

- EPS (.eps): Dạng tập tin Encapsulated PostScript là một lựa chọn lý tưởng cho ảnh nét trắng đen.
- GIF (.gif): Dạng thức trao đổi đồ họa (Graphics Interchange Format) là một lựa chọn tuyệt vời
cho Web.
- JPEG (.jpg): Tập tin Joint Photographic Experts Group. Loại định dạng này lưu tập tin mà dữ liệu
hình ảnh sẽ bị loại bỏ bớt nhằm giảm bớt kích thước.

- PCX (.pcx): Dạng thức dược dùng với nền Windows. PDF (.pdf) Portable.
- Documemts Format: Hoạt động kết hợp với phần mềm Acrobat của Adobe, cũng là dạng thức tập
tin dùng để sản xuất trang Web.
- Pixar (.pxr): Dùng với chương trình tạo ảnh ba chiều.
- PNG (.png): Thay thế cho dạng thức gif, rất lý tưởng cho Word Wide Web và đang ngày càng
được ưa chuộng. Nó cho phép chúng ta lưu tập tin sao cho tập tin này được tải xuống theo dạng đan
xen trên Word Wide Web.
- RAW (.raw): Dạng thức này lưu tập tin dưới dạng một luồng byte. Rất tốt để di chuyển qua lại
giữa các ứng dụng.
- Scitex (.sci): Dành cho các hệ thống kỹ thuật cao.
- Targe (.tga): Dùng cho hệ thống sử dụng Card Video.
- TIFF (.tif): Một dạng thức rất phổ biến, Tagged - Image file Format.
Màn hình làm việc
1.3.4.6. Flash
Adobe Flash (Macromedia Flash), hay còn gọi một cách đơn giản là Flash, được dùng để chỉ
chương trình sáng tạo đa phương tiện (multimedia) lẫn phần mềm dùng để hiển thị chúng
Macromedia Flash Player.
Flash là công cụ để phát triển các ứng dụng như thiết kế các phần mềm mô phỏng. Sử dụng ngôn
ngữ lập trình ActionScript để tạo các tương tác, các hoạt cảnh trong phim. Điểm mạnh của Flash là có
thể nhúng các file âm thanh, hình ảnh động. Người lập trình có thể chủ động lập các điều hướng cho
chương trình. Flash cũng có thể xuất bản đa dạng các file kiểu html, exe, jpg, ... để phù hợp với các

loại máy tính xách tay (laptop) giá 100 USD để đổi mới thực sự cách dạy và cách học trong nhà
trường.
- Theo báo cáo của phòng giáo dục huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai năm
2009: sau 3 năm triển
khai, đã có 80% số trường trong huyện được kết nối mạng, ứng dụng hiệu quả nhiều phần mềm trong
quản lý cán bộ, HS cũng như nhiều PMDH. Đặc biệt, việc soạn giảng bằng giáo án điện tử đã thu hút
được đông đảo GV tham gia, tạo hứng thú học tập cho HS. Bên cạnh đó những tiết dạy bằng giáo á
n
điện tử hay còn được tích hợp lên Website của phòng để cho các GV và HS tham khảo.
- Đối với bộ môn hoá học, một môn khoa học thực nghiệm, việc đổi mới PPDH, phương tiện, thiết
bị dạy học càng cần được chú trọng hơn. Hiện nay, hầu hết các GV đã thấy được lợi ích to lớn của
internet. Thông qua internet GV có thể sử dụng các hình động, âm thanh, các văn bản dưới nhiều dạng
khác nhau làm cho bài giảng sinh động và dễ được tiếp thu cũng như có thể tiến hành các bài tập, bài
kiểm tra dưới dạng tương tác.
-
Hiện nay trên thế giới có khá nhiều phần mềm, tư liệu dạy học hoá học phong phú như:
ChemWindow, ChemOffice được dùng để viết và vẽ công thức cấu tạo dạng 2D, 3D; các chương trình
tính toán hóa lượng tử như HyperChem, Gaussian… hoặc các đĩa CD về thí nghiệm hóa học (Cyber
Chem, Crocodile Chemistry 605), các mô hình, các câu hỏi trắc nghiệm tự kiểm tra (Quiz), sách điện
tử về hóa học…
- Việc ứng dụng CNTT vào dạy và học hóa không chỉ bó hẹp trong việc GV dùng CNTT để minh
họa cho các bài dạy, mà theo các nghiên cứu mới nhất của các nhà giáo dục học trên thế giới, các Viện
nghiên cứu Công nghệ giáo dục gắn với các tập đoàn như Intel, IBM, Microsoft đã đề xướng các

PPDH mới nhờ sự hỗ trợ của CNTT, làm rõ PPDH lấy HS làm trung tâm. Đó là các phương pháp đã
được các tập đoàn nói trên tập huấn mạnh cho GV và triển khai bước đầu ở nhiều trường trong cả
nước:
+ Phương pháp dạy và học với máy tính (Teaching and Learning with Computer, viết tắt TLC):
nguyên lí của phương pháp này là dạy học một vấn đề hóa học bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau:
một nhóm HS nghiên cứu qua mô hình, thí nghiệm, một nhóm thực hành trên máy tính với sự hỗ trợ

-
Nhiều GV vẫn còn quen với cách dạy cũ, ngại thay đổi.
- Tâm lí ngại phải hao tốn nhiều thời gian, công sức để đầu tư, soạn lại giáo án của tất cả các bài
giảng cho phù hợp với phương pháp, phương tiện, hình thức dạy học mới. Điều này thể hiện khá rõ nét
ở các GV đã giảng dạy lâu năm.
-
Trình độ tin học và ngoại ngữ của GV còn hạn chế.
- Một số GV chưa thực sự cố gắng tự học, tự nâng cao khả năng ứng dụng CNTT.
-
Nhiều GV chưa sử dụng thành thạo một số phần mềm vi tính. Do đó ngại làm chủ kỹ thuật phức
tạp của máy tính.

- Tâm lí sợ gặp những sự cố về thiết bị kỹ thuật tr
ong khi tiến hành dạy học theo phương pháp
mới. Điều này thường rơi vào các GV đã có tuổi, tư duy kỹ thuật, thao tác kỹ thuật bắt đầu kém nhanh
nhạy.
- Một số GV đã cố gắng ứng dụng CNTT vào dạy học, tuy nhiên trong quá trình giảng dạy vẫn còn
nặng về hình thức, mang nặng tính chất trình diễn. Nhiều GV còn ôm đồm, tham lam nhồi nhét các loại
thông tin, phim, ảnh làm mất thời gian nhưng hiệu quả giờ dạy không cao.
- Ứng dụng CN
TT vào dạy học sẽ làm giảm mạnh sự giao tiếp giữa thầy và trò, giữa trò và trò nếu
GV không sử dụng kết hợp phong phú với các PPDH khác.
- Trong tiến trình lên lớp với bài giảng điện tử, một số GV thao tác quá nhanh, HS không kịp chép
bài, ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và mức độ hiểu bài của các em không cao.
- Một số phần mềm có
bản quyền giá rất cao nên GV chủ yếu sử dụng các bản dùng thử không có
đầy đủ các tính năng như bản chính thức cũng như chỉ dùng trong một thời gian có hạn.
Rõ ràng CNTT đã mở ra một hướng rộng lớn cho việc đổi mới phương pháp dạy và học hóa,
nhưng cốt lõi vấn đề vẫn là sử dụng như thế nào cho có hiệu quả, phát huy hết tính năng vượt trội của
nó. C

- Định nghĩa về dung dịch, các loại dung dịch (lỏng, rắn, keo, huyền phù, nhũ tương, bão hòa…).
-
Sự hòa tan, cơ chế của sự hòa tan.
- Độ tan.
- Các loại nồng độ dung dịch.
- Tính chất vật lí của dung dịch loãng của các chất tan không điện li và không bay hơi.
- Định luật Raoult và định luật Henry.
- Hiện tượng thẩm thấu, áp suất thẩm thấu và ứng dụng.
- Khái niệm về sự điện li và chất điện li.
-
Hiểu nguyên nhân tính dẫn điện của dung dịch chất điện li và cơ chế của quá trình điện li.
- Độ điện li và cân bằng điện li.
- Thế nào là chất điện li mạnh, chất điện li yếu.
- Hằng số điện li.
- Các khái niệm axit, bazơ theo thuyết Ahrrenius, thuyết Bronsted và thuyết Lewis.
- Hằng số axit – bazơ, cặp axit bazơ liên hợp.

- Cân bằng axit – bazơ.
- Dung dịch đệm.
- Sự điện li của nước, tích số ion của nước.
- Khái niệm pH, chỉ thị axit – bazơ.
- Các cân bằng ion trong dung dịch chất điện li: cân bằng axit – bazơ, cân bằng tạo phức trong
dung dịch, cân bằng oxi hóa – khử, cân bằng trong dung dịch chứa hợp chất ít tan.
 Học sinh hiểu:
- Bản chất, điều kiện xảy ra phản ứng trao đổi ion trong dung dịch các chất điện li.
- Các cân bằng diễn ra trong dung dịch.
 Kĩ năng
Rèn luyện kỹ năng:
- Viết phương trình điện li của các axit, bazơ và muối trong nước.
- Giải bài tập hóa học

Luyện tập 2 tiết
Tích số ion của nước, ý nghĩa. Khái niệm pH, chỉ thị axit – bazơ 2 tiết
Muối. Phản ứng trao đổi ion trong dung dịch 2 tiết
Luyện tập 2 tiết
Cân bằng axit – bazơ 2 tiết
Cân bằng tạo phức trong dung dịch 2 tiết
Luyện tập 2 tiết
Cân bằng oxi hóa – khử 4 tiết
Cân bằng trong dung dịch chứa hợp chất ít tan. 3 tiết
Luyện tập 2 tiết

2.1.3. Phương pháp dạy học chương “Dung dịch – sự điện li”
2.1.3.1. Áp dụng phương pháp dạy học các thuyết và định luật
Lý thuyết sự điện li là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu các chất điện li về mặt cơ chế và quy
luật phản ứng. Nó cho phép khám phá bản chất của các chất điện ly, các quá trình điện li, phát triển và
khái quát các kiến thức về các loại chất Axit – Bazơ lưỡng tí
nh và chứng minh tính tương đối của sự
phân loại này. Lý thuyết này đưa ra khả năng giải thích sự phụ thuộc tính chất của các chất điện li vào
thành phần và cấu tạo của chúng theo quan điểm của Ahrrenius, Bronsted, Lewis. Do đó khi dạy phần
này GV cần chú ý các điểm sau:
-
Cần xuất phát từ các sự kiện cụ thể, riêng lẻ có liên quan đến nội dung thuyết điện li để khái
quát hóa, tìm ra bản chất chung hoặc quy luật được nêu ra trong nội dung cơ bản của thuyết này.
 Ví dụ 1: Để nêu định nghĩa axit – bazơ theo thuyết Ahrrenius, GV yêu cầu HS viết phương trình
điện li của các axit và bazơ: HCl, HNO
3
, H
2
SO
4

, HSO
4
-
, NH
3
, HClO
4
. Từ
đó rút ra nhận định: theo Bronsted axit, bazơ có thể là phân tử trung hòa hay ion.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status