Nghiên cứu khoa học " Lâm nghiệp cộng đồng ở Việt Nam Tiềm năng, cơ hội và thách thức " potx - Pdf 14

Lâm nghiệp cộng đồng ở Việt Nam -
Tiềm năng, cơ hội và thách thức
Nguyễn Hồng Quân – Phạm Xuân Phương
Việt Nam với 2/3 diện tích là vùng đồi núi, đây là nơi sinh sống của hơn 24 triệu
đồng bào thuộc 54 dân tộc, đặc biệt là cộng đồng các dân tộc ít người mà cuộc
sống của họ luôn gắn bó mật thiết với đất đai, rừng núi, đây cũng là nơi hoạt động
chủ yếu của ngành lâm nghiệp, vì vậy, việc xã hội hoá ngành lâm nghiệp không
chỉ là một yêu cầu thực tế khách quan của Việt Nam mà nó còn phù hợp với xu thế
phát triển nghề rừng trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Quá trình chuyển hướng mang tính chiến lược của ngành lâm nghiệp từ lâm
nghiệp thuần tuý nhà nước sang lâm nghiệp nhân dân - lâm nghiệp xã hội (xã hội
hoá ngành lâm nghiệp) được thực hiện từ hơn 15 năm trở lại đây, đã tạo ra nhiều
nhân tố tích cực mới, đa dạng hoá các hình thức quản lý và phương thức tiếp cận
mới đối với quản lý tài nguyên rừng. Qua đó, ngoài lâm nghiệp quốc doanh còn
phát huy được vai trò của các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là cộng đồng và hộ
gia đình tham gia quản lý bảo vệ và phát triển vốn rừng.
Tuy nhiên trong quá trình chuyển hướng này, lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ) mới
chỉ dừng ở bước thí điểm và chưa được pháp lý công nhận, cho đến ngày 3 tháng
12 năm 2004, Luật bảo vệ và phát triển rừng được Quốc hội chính thức thông qua,
mới công nhận cộng đồng là một chủ thể được giao rừng với các quyền và nghĩa
vụ được quy định cụ thể tại các điều 29 và 30. Đây là một chủ trương đúng đắn,
tăng cường xã hội hoá nghề rừng, tạo thêm sức mạnh cho việc quản lý và phát
triển vốn rừng, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của đồng bào dân tộc thiểu
số ở vùng núi, bảo đảm an ninh chính trị và quốc phòng.
Để đạt được kết quả trên, thời gian qua, ngành và các dự án quốc tế đã tiến hành
rất nhiều công trình nghiên cứu, xây dựng nhiều mô hình thí điểm, tổ chức nhiều
cuộc hội thảo, thông tin quảng bá về lâm nghiệp cộng đồng. Tuy nhiên, nay luật đã
ra đời, để lâm nghiệp cộng đồng phát triển có hiệu quả, đóng góp nhiều cho sự
nghiệp bảo vệ và phát triển rừng thì những nghiên cứu trước đây, những thông tin
của các hội thảo trước đây là chưa đủ. Nhiều vấn đề cần được đánh giá, xem xét,
thống nhất lại, từ khái niệm đến đánh giá hiện trạng, những ưu điểm, những tồn tại,

Đây là hình thức mà mọi thành viên của cộng đồng tham gia quản lý và ăn chia
sản phẩm hoặc hưởng lợi từ những khu rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu
của cộng đồng hoặc thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng.
Rừng của cộng đồng là rừng của làng bản đã được quản lý theo truyền thống lâu
đời (rừng thiêng, rừng ma, rừng mó nước…quản lý theo các luật tục truyền thống
với tinh thần tự nguyện cao); rừng trồng của các hợp tác xã, rừng tự nhiên đuợc
giao cho các hợp tác xã trước đây, nay hợp tác xã giao lại cho các xã, hoặc các
thôn quản lý; rừng được chính quyền địa phương giao cho cộng đồng với tính chất
thí điểm trong thời gian gần đây.
- Thứ hai làquản lý rừng dựa vào cộng đồng.
Đây là hình thức cộng đồng tham gia quản lý các khu rừng không thuộc quyền
quản lý, sử dụng, sở hữu chung của họ mà thuộc quyền quản lý, sử dụng sở hữu
của các thành phần kinh tế khác nhưng có quan hệ trực tiếp đến đời sống, đến việc
làm, thu hoạch sản phẩm, thu nhập hay các lợi ích khác của cộng đồng (thuỷ lợi
nhỏ, nước sinh hoạt…). Hình thức này bao gồm hai đối tượng:
+ Rừng của hộ gia đình, cá nhân là thành viên trong cộng đồng. Cộng đồng tham
gia quản lý với tính chất hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, chia xẻ lợi ích cùng nhau trên cơ
sở tự nguyện (tạo thêm sức mạnh để báo vệ rừng, hỗ trợ hoặc đổi công cho nhau
trong các hoạt động lâm nghiệp…).
+ Rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của các tổ chức nhà nước (các ban
quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng, các lâm trường, công ty lâm nghiệp nhà nước,
các trạm trại…) và các tổ chức tư nhân khác. Cộng đồng tham gia các hoạt động
lâm nghiệp như bảo vệ, khoanh nuôI xúc tiến tái sinh, phục hồi rừng, trồng rừng
với tư cách là người làm thuê thông qua các hợp đồng khoán và hưởng lợi theo các
cam kết trong hợp đồng.
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, LNCĐ, QLRCĐ là những khái niệm khác nhau.
Thuật ngữ QLRCĐ được sử dụng với ý nghĩa hẹp hơn để chỉ CĐ quản lý những
khu rừng của một cộng đồng dân cư, còn nói đến LNCĐ hay cộng đồng tham gia
quản lý rừng chính là diễn tả hàng loạt các hoạt động gắn người dân trong cộng
đồng dân cư thôn bản với rừng, cây, các sản phẩm của rừng và việc phân chia lợi

cộng đồng dân cư làng bản có nguồn lao động dồi dào, có những kiến thức bản địa
về lâm sinh, nông lâm kết hợp và quản lý rừng. Đây là thế mạnh nếu biết phát huy
sẽ tạo ra nguồn lực để bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng. Mặt khác, Chính phủ
có nhiều chính sách hỗ trợ để tăng cường sự tham gia của người dân vào quản lý
rừng.
d. Quản lý rừng cộng đồng bằng những quy ước/hương ước được xây dựng với sự
tham gia của toàn thể cộng đồng và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp
nhận
Làng bản muốn quản lý được rừng của mình phải dựa vào pháp luật của nhà nước,
vào nhu cầu của cộng đồng, trình độ dân trí để soạn thảo và ban hành quy
ước/hương ước quản lý và bảo vệ rừng. Nội dung quy ước/hương ước quy định
quyền lợi và nghĩa vụ của mọi thành viên cộng đồng trong việc bảo vệ và phát
triển rừng. Đây là một trong những tiêu chí quan trọng để nhận biết địa phương đó
đã có rừng cộng đồng hay chưa.
e. Các hình thức tổ chức quản lý rừng cộng đồng tương đối linh hoạt, mềm dẻo để
thu hút sự tham gia của các thành viên trong cộng đồng
Vì sự tham gia của các thành viên trong cộng đồng mang tính chất tự nguyện, nên
đòi hỏi phải có những hình thức tổ chức và quản lý đa dạng, linh hoạt và mềm dẻo.
Có thể áp dụng các hình thức tổ chức như: thành lập tổ chuyên trách bảo vệ rừng
(huy động các hộ gia đình hay huy động các tổ chức đoàn thể trong cộng đồng
tham gia bảo vệ rừng), các nhóm sở thích. Nếu hình thức tổ chức cứng nhắc, như
tổ chức theo kiểu làm công, thuê khoán thì đó không phải là kiểu tổ chức quản lý
rừng cộng đồng.
Bảng 1. Khái quát các tiêu chí nhận biết về LNCĐ
Các tiêu chí Các chỉ số nhận biết
1 Quyền sử dụng đất
và quyền sử dụng rừ
ng
thuộc về cộng đồng
- Được nhà nước giao đất, giao rừng sử dụng rừng ổn định,

- Hình thức tổ chức và quản lý rừng linh hoạt ( thành lập tổ
chuyên trách bảo vệ rừng, các hộ gia đình trong cộng đồng
luân phiên tuần tra rừng, huy động các tổ chức đoàn thể
cấp cộng đồng tham gia bảo vệ rừng vv).
Tính ưu việt của LNCĐ.
Cộng đồng tham gia quản lý rừng có tính ưu việt sau:
- Cộng đồng đân tộc thiểu số sống gắn bó với rừng, rừng là nơi cung cấp đất canh
tác, cung cấp gỗ củi, lâm sản phụ, lương thực, thực phẩm, dược liệu…vì vậy nếu
phát huy tốt vai trò của họ thì sẽ tạo thêm sức mạnh đối với quản lý bảo vệ, xây
dựng và phát triển rừng, phục vụ trước hết cho lợi ích của cộng đồng, đồng thời
góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, xã hội miền núi, thực hiện các các
chương trình quan trọng của nhà nước (Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, xoá đói
giảm nghèo…), bảo đảm phòng hộ môi trưòng, an ninh chính trị, quốc phòng…
- QLRCD phù hợp với tập quán truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số miền
núi, có tính cộng đồng cao, có nhiều kiến thức bản địa tốt, đặc biệt cộng đồng có
mặt hầu khắp mọi nơi, mọi lúc trong vùng núi, đây là một lợi thế mà các thành
phần kinh tế khác không có. Lợi thế này giúp cho việc quản lý bảo vệ rừng được
thuận lợi hơn.
- Quản lý rừng có hiệu quả, ít tốn kém thông qua trách nhiệm và sự cam kết tự
nguyện của người dân trước cộng đồng.
- Bảo đảm nhu cầu tối thiểu về lâm sản của người dân mà nhà nước không phải
đầu tư quản lý, bảo vệ.
- Bảo đảm tính công bằng trong chia xẻ lợi ích, từ đó bảo đảm sự đoàn kết trong
cộng đồng và giữa các cộng đồng, góp phần ổn định xã hội.
Thực trạng cộng đồng tham gia quản lý rừng.
a- Về quy mô diện tích.
Theo kết quả kiểm kê rừng dến 31/12/2003 thì rừng đã giao cho hộ gia đình và tập
thể là 2.616.931ha/tổng số 12.094.518 ha rừng toàn quốc tương ứng 21,3%, trong
đó rừng tự nhiên 1.758.892ha/tổng số 10.004.709 ha (tương ứng 17,6%), rừng
trồng 858.039ha/tổng số 2.089.809 ha (tưong ứng 41%).

Nhưng trên thực tế, chính quyền địa phương chưa làm thủ tục giao quyền sử dụng
lâu dài cho các cộng đồng.
- Rừng và đất rừng chính quyền địa phương giao cho cộng đồng quản lý, sử dụng
ổn định lâu dài.
+ Tổng diện tích là 1.197.961 ha, bao gồm: đất có rừng 669.750 ha, đất trống đồi
núi trọc 528.211 ha. Thời gian qua, mặc dù pháp luật chưa quy định cộng đồng là
đối tượng giao quyền sử dụng đất, nhưng đã có 18 tỉnh mạnh dạn làm thí điểm
giao đất, giao rừng cho cộng đồng.
+ Rừng giao cho cộng đồng phần lớn là rừng nghèo, phục hồi sau nương rẫy hoặc
sau khai thác kiệt. Một số cộng đồng được giao đất trống đồi trọc để trồng rừng
hoặc khoanh nuôi xúc tiến tái sinh, hiếm có trường hợp cộng đồng được giao
những diện tích rừng giàu để quản lý, bảo vệ và sử dụng ổn định lâu dài.
+ Đối với diện tích đất và rừng giao cho cộng đồng: các thành viên của cộng đồng
cùng đầu tư, quản lý và hưởng lợi, hoàn toàn dựa trên nguyên tắc tự nguyện và
cùng có lợi giữa các thành viên của cộng đồng. Cộng đồng tự thành lập tổ, nhóm
để tiến hành các hoạt động lâm nghiệp nhằm giải quyết các lợi ích cho các thành
viên trong cộng đồng. Nhiều nơi, đất lâm nghiệp giao cho cộng đồng thuộc các
khu vực dự án như Chương trình 327, Dự án 661 và các dự án quốc tế (Thụy Điển,
Đan Mạch, Công Hoà Liên bang Đức, WB).
Tuy nhiên cho đến nay, cộng đồng mới chỉ được nhận quyết định giao đất, giao
rừng mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ngoài nguồn đầu
tư và hỗ trợ từ các chương trình, dự án thì các quyền cơ bản của chủ rừng theo quy
định của pháp luật, cộng đồng vẫn không được hưởng
- Rừng và đất rừng cộng đồng nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng
mới rừng của các tổ chức nhà nước
Tổng diện tích là 936.327 ha, bao gồm đất rừng phòng hộ 494.242 ha, đất rừng
đặc dụng 39.289 ha; đất rừng sản xuất 402.795 ha.
Đây là hình thức cộng đồng nhận khoán theo quy định tại Nghị định 01/CP của
Chính phủ, các tổ chức giao khoán cho cộng đồng chủ yếu là lâm trường quốc
doanh, Ban quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, Ban quản lý các dự án 327,

- Chưa có cơ chế tài chính,
nguồn thu hạn chế
Có khả năng quản lý tất cả các loại
rừng.
- Phụ thuộc vào các cấp chính
quyền cao hơn
Nhóm
hộ/nhóm sở
thích
- Quy mô nhỏ, dễ dàng tổ chức, quả
n
lý thống nhất.
- Phù hợp với trình độ hiện nay của
dân.
- Phù hợp với yêu cầu đầu tư của
dân
- Có tiềm năng trở thành cấp thôn
bản hoặc HTX kiểu mới
- Chi phí phù hợp với quy mô
nhỏ.
- Khó bảo vệ rừng ở các vùng
sâu, vùng xa.
Dòng tộc Thuận lợi tương tự như nhóm hộ - Khó được chấp nhận về mặt
pháp lý.
- Có thể tạo nên mâu thuẫn cục
bộ trong cộng đồng thôn bản
d- Hiệu quả đạt được.
Cho đến nay chưa có đánh giá hiệu quả quản lý rừng cộng đồng ở quy mô toàn
quốc, tuy nhiên, căn cứ vào 3 kết quả Hội thảo quốc gia về quản lý rừng cộng
đồng ở Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội ( tháng 6/2000, tháng 11/2001 và tháng

-Tồn tại:
Mặc dầu đạt được các kết quả trên, song trong thực tế còn một số tồn tại sau:
+ Có nơi người dân không tha thiết với nhận đất, nhận rừng
+ Người dân nhận đất nhận rừng nhưng không hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ của
mình là gì. Việc quản lý, bảo vệ, sử dụng rừng sau khi giao không có tiến bộ gì
hơn trước khi giao ( chủ yếu ở Tây Nguyên).
+ Cộng đồng không đủ quyền và lực để chống lại lâm tặc vì thiếu sự trợ giúp của
chính quyền, của kiểm lâm và công an.
+ Thiếu vốn nên nhiều nơi nhận đất, nhận rừng nhưng không thể đầu tư vào sử
dụng đất và phát triển rừng.
+ Thiếu kiến thức về kỹ thuật lâm nghiệp để quản lý, xây dựng, phát triển và sử
dụng rừng có hiệu quả.
+ Nguồn thu từ rừng chưa chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập của cộng đồng, chưa
thực sự đóng góp vào cải thiện đời sống của người dân.
- Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tồn tại trên là:
+ Thời gian qua, khi Luật bảo và phát triển rừng chưa ra đời, LNCĐ mới chỉ được
làm thí điểm hoặc tự phát ở một số địa phương với sự trợ giúp của các dự án hoặc
chính quyền địa phương. Do chưa có đầy đủ cơ sở pháp lý nên CĐ chưa được
hưởng các quyền như các thành phần kinh tế khác (như các quyền được giao đất
giao rừng, vay vốn tín dụng ưu đãi, chính sách hưởng lợi…) để thực hiện việc
quản lý xây dựng và phát triển rừng.
+ Cộng đồng sống ở vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng yếu
kém, thiếu vốn lại thiếu sự trợ giúp của cơ quan, đoàn thể, chính quyền địa
phương, đặc biệt là công tác khuyến lâm. Nhiều nơi tiến hành giao đất giao rừng
quá ồ ạt, trong khi những điều kiện để tạo hậu thuẫn cho cộng đồng quản lý rừng
chưa được chuẩn bị đầy đủ.
+ Rừng giao cho cộng đồng thường là rừng nghèo, rừng non nên thu nhập của
người dân từ rừng ở nhiều nơi rất thấp, thậm trí không có thu nhập.
+ Cộng đồng ở một số nơi chưa được tổ chức và có cơ chế hoạt động chặt chẽ.
Những Cơ hội :

giải pháp kỹ thuật được xây dựng, các cuộc hội thảo quốc gia, hội thảo vùng được
tổ chức bởi các các tổ chức, các dự án trong nước và quốc tế là vô cùng phong phú
và quý giá, có ý nghĩa khoa học, thực tiễn lớn. áp dụng những thành quả sẵn có
này sẽ tạo thuận lợi cho việc phát triển LNCĐ trong tương lai.
Những thách thức.
a. Về mặt luật pháp lý, tại điểm đ, khoản 2, điều 30, mục 3 có quy định: cộng đồng
không được…, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn kinh doanh bằng giá trị quyền sử dụng
rừng được giao. Cộng đồng không có quyền thế chấp để vay vốn đầu tư bảo vệ và
phát triển rừng như hộ gia đình, trong khi nguồn nội lực của cộng đồng rất hạn chế
nên phải trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước và các dự án quốc tế. Song nguồn
vốn của nhà nước cũng hạn chế, còn các dự án quốc tế thì không phải nơi nào, lúc
nào cũng có.
b. Do Luật bảo vệ và phát triển rừng mới ra đời nên các văn bản dưới luật như
nghị định, thông tư hướng dẫn, các quy chế, các chính sách, các quy trình, quy
phạm còn thiếu hoặc chưa được hoàn chỉnh, gây khó khăn cho việc thi hành luật
cũng như phát triển LNCĐ.
c. LNCĐ phát triển ở vùng sâu, vùng xa, tỷ lệ đói nghèo cao, trình độ dân trí thấp,
cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu vốn, thiếu hiểu biết về kỹ thuật…Đây là trở ngại lớn
đối với phát triển LNCĐ.
d. Nguồn thu từ rừng vốn dĩ đã thấp, trong khi rừng giao cho cộng đồng hầu hết là
rừng nghèo nên nguồn thu lại càng thấp hơn. Điều này dẫn đến một số hậu quả
sau:
- Làm giảm sự quan tâm, sự hấp dẫn của người dân đối với rừng.
- Nguồn thu trước mắt từ rừng thấp, đóng góp vào cải thiện đời sống, xoá đói giảm
nghèo hạn chế
- Không có khả năng lấy rừng nuôi rừng, tái đầu tư xây dựng và phát triển rừng.
Những vấn cần tiến hành để phát triển LNCĐ.
Như trên đã trình bầy, giao rừng cho cộng đồng đã được nhà nước công nhận, đây
là một thuận lợi lớn cho việc phát triển LNCĐ, song để có thể thực hiện tốt chủ
trương này cần giải quyết các vấn đề sau:

QLRCĐ là hết sức cần thiết.
Các hỗ trợ cụ thể là hình thành tổ chức, xây dựng các văn bản; phát triển kỹ thuật
nông, lâm nghiệp để kinh doanh rừng và đất rừng, như tư vấn cho cộng đồng về
nuôi dưỡng, tỉa thưa, làm giàu, trồng rừng, khai thác rừng, chế biến nông, lâm sản;
cung cấp thông tin thị trường sản phẩm rừng; thực hiện các dịch vụ đào tạo, cung
ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm…
c. Xây dựng và ban hành các văn bản quy trình, quy phạm, hướng dẫn kỹ thuật về
điều tra, phân loại tài nguyên rừng, về giao đất giao rừng, về lập kế hoạch quản lý
rừng cộng đồng, kỹ thuật khai thác, kỹ thuật lâm sinh…
d. Đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho cộng đồng thôn bản.
Trong thời gian qua, khi Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 chưa ban hành,
việc giao đất giao rừng chưa được tiến hành đồng đều trên phạm vi toàn quốc, có
tỉnh chưa tiến hành, có tỉnh làm thí điểm trên diện hẹp, có một vài tỉnh lại làm quá
mạnh. Về pháp lý, hầu hết rừng và đất rừng giao cho cộng đồng thông qua một
quyết định của chính quyền địa phương. Vì vậy trong thời gian tới cần đẩy nhanh
việc giao đất giao rừng cho cộng đồng. Để thực hiện chủ trương này, trong quá
trình tiến hành cần thực hiện và lưu ý cá vấn đề sau:
· Xây dựng hướng dẫn về giao đất giao rừng, trong đó bao gồm các nội dung:
+ Những điều kiện để cộng đồng dân cư thôn bản được giao đất giao rừng (Điều
kiện khách quan, điêù kiện chủ quan)
+ Đối tượng rừng và đất rừng ưu tiên được giao cho cộng đồng dân cư thôn, bản:
+ Cơ cấu diện tích rừng và đất rừng cộng đồng thôn, bản.
+ Phương pháp và các bước tiến hành.
+ Tổ chức thực hiện.
- Ưu tiên giao cho cộng đồng dân cư thôn, bản các loại rừng và đất rừng sau:
+ Các khu rừng thiêng gắn liền với tín ngưỡng của đồng bào dân tộc thiểu số, như
rừng thờ thổ thần, rừng thiêng, rừng ma.
+ Các khu rừng mó nước (cốc bó), rừng đầu ngọn suối cung cấp nước sinh, họat
sản xuất cho cộng đồng thôn bản, những khu rừng phòng hộ các khu dân cư, sản
xuất;

Bước 2.Hình thành tổ chức lâm nghiệp trong cộng đồng, xây dựng quy chế hoạt
động, hương ước, chia xẻ lợi ích.
Bước 3. Lập kế hoạch QLRCĐ có sự tham gia của người dân (điều tra, đánh giá,
phân loại rừng và đất rừng; điều tra, đánh gíá nhu cầu sử dụng gỗ củi, lâm sản; cân
đối cung và cầu gỗ, củi lâm sản; dự kiến về tình trạng rừng trong tương lai; lập kế
hoạch quản lý rừng 5 năm và hàng năm (kế hoạch lâm sinh, kế hoạch khai thác, kế
hoạch tài chính).
Bước 4.Thiết lập hệ thống báo cáo và kiểm soát dựa vào cộng đồng.
Bước 5.Tổ chức đào tạo và hỗ trợ thực hiện các nội dung của những bước trên.
Bước 6.Tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý rừng CĐ (kế hoạch bảo vệ rừng, kế
hoạch lâm sinh, kế hoạch khai thác).
Bước 7.Giám sát và đánh giá.
Đề xuất, kiến nghị về quản lý rừng cộng đồng.
- Nhà nước nên coi LNCĐ là một chiến lược để phát triển kinh tế miền núi vì nó
phù hợp với thực tế khách quan, phù hợp với nguyện vọng của người dân. LNCĐ
sẽ có những đóng góp đáng kể, không những vào cải thiện đời sống vật chất mà
còn cải thiện cả đời sống văn hoá, tinh thần của người dân, từ đó góp phần ổn định
xã hội, an ninh chính trị.
- LNCĐ tồn tại và phát triển ở vùng sâu, vùng xa, nơi cơ sở hạ tầng yếu kém, trình
độ dân trí thấp, nghèo đói vì vậy muốn phát triển LNCĐ, trước hết đòi hỏi sự nỗ
lực của bản thân ngành lâm nghiệp, sau nữa là sự hỗ trợ tích cực của nhà nước,
của các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương, của các tổ chức có liên
quan, đặc biệt sự hỗ trợ của các nước và các tổ chức quốc tế. Muốn thực hiện ý đồ
này, nhà cước cần xây dựng một chương trình hay dự án quốc gia về LNCĐ. Tin
rằng dự án này sẽ được các nước, các tổ chức quốc tế ủng hộ.
- Trước mắt, nhà nước cũng như ngành cần chỉ đạo xây dựng và sớm ban hành các
văn bản dưới luật, các quy chế, các quy trình quy phạm…để việc triển khai thực
hiện phát triển LNCĐ được thống nhất trong cả nước.
- Nhà nước cần có một kế hoạch chỉ đạo các địa phương triển khai hợp lý, không
nóng vội, không chạy theo thành tích, nhất là khi tiến hành giao đất giao rừng,


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status