Giải pháp xử lý các mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của việt nam hiện nay trên cơ sở phép biện chứng về mâu thuẫn - Pdf 15

Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
LỜI MỞ ĐẦU
Từ năm 1986, Việt Nam chuyển đổi sang mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đã đặt ra cho Việt Nam những thách thức mà mục tiêu cần
vượt qua. Trong đó, hoàn thành quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước
là mục tiêu đầu tiên cần thực hiện. Trải qua hơn 25 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt
được những kết quả vượt bậc trong phát triển kinh tế, có những bước tiến gần hơn
với mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Trong đó, phải kể đến là tốc
độ tăng trưởng kinh tế nhanh với mức trung bình 7% trong cả giai đoạn, xuất khẩu
liên tục tăng trưởng với tốc độ trung bình 25 – 30%. Tuy nhiên, tính ổn định của
quá trình tăng trưởng là không cao, trong những năm qua Việt Nam tăng trưởng
mới chỉ theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào nguồn vốn, lao động giá rẻ và nguồn lực
tự nhiên. Việc tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài bằng các lợi thế về
tài nguyên và con người, sự mở cửa trong môi trường đầu tư, đã dẫn đến việc tiếp
nhận các nguồn vốn đầu tư một cách ồ ạt mà không hiệu quả, gây nên hiện tượng
cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Đặc biệt là giai đoạn hiện
nay, khi mà nền kinh tế Việt Nam đang rơi vào suy thoái do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính từ Mỹ năm 2008 và những biến đổi khó lường của tự nhiên,
gây ra những thiệt hại to lớn về người và tài sản thì vấn đề giữ vững tăng trưởng
kinh tế để hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và bảo vệ
môi trường tự nhiên là một thách thức mà Việt Nam cần giải quyết được. Tuy
nhiên, quá trình thực hiện hai mục tiêu này lại xuất hiện những mâu thuẫn, gây cản
trở cho việc thực hiện chính sách. Nghiên cứu, phân tích các mâu thuẫn tồn tại giữa
tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa – hiện
đại của Việt Nam hiện nay để đưa ra các định hướng giải quyết các mâu thuẫn đó
là một vấn đề cần thiết. Như chúng ta đã biết trong quá trình vận động và phát triển
của mọi sự vật luôn luôn xảy ra mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa các yếu tố trong
Học viên: Đào Thị Hà Phương 1 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh

nhiều nhà triết học quan tâm và nghiên cứu.
Các nhà triết học phương Đông đã khái quát khái niệm về mâu thuẫn trong
thuyết âm dương và ngũ hành. Mâu thuẫn là để nói về tính hai mặt của tất cả các
hiện tượng sự vật: trong âm có dương, trong tốt có xấu, như vậy mọi sự vật đều vận
động theo theo hướng hài hòa. Các nhà triết học này cũng nhận định các nhân tố
âm dương trong một chủ thể luôn vận động và biến đổi luân hồi, âm thịnh thì
dương suy, bĩ cực thái lai, như vậy là khai thác khía cạnh thời gian của việc phát
sinh và giải quyết mâu thuẫn chứ không nhìn vào khía cạnh biến đổi của chủ thể
khi giải quyết mâu thuẫn.
Trong khi đó, các nhà triết học phương Tây kết luận rằng mâu thuẫn là động
lực của sự phát triển bởi vì trong mỗi một sự vật đều có ít nhất hai mặt, hai lập
trường, hai thế lực đối kháng, và các thế lực đó sẽ tìm cách triệt tiêu nhau để chiếm
lĩnh chủ thể, quá trình đó đẩy mâu thuẫn phát triển đến đỉnh điểm và khi mâu thuẫn
phát triển đến đỉnh điểm thì chủ thể sẽ biến đổi cả về lượng và chất sang một hình
thái mới. Mỗi sự vật đều chứa đựng mâu thuẫn bên trong nó bởi vì bản chất của sự
vật là động chứ không tĩnh. Khi sự vật vận động thì mâu thuẫn phát sinh.
Như vậy chúng ta nên hiểu rằng mâu thuẫn là đương nhiên tồn tại và là tốt
chứ không phải là xấu, vì nó giúp cho sự phát triển. Nếu một gia đình không có
mâu thuẫn thì con người sẽ không cần hoàn thiện nữa, dẫn đến không luyện tập,
không tiến hóa. Nếu một xã hội không có mâu thuẫn thì các giai cấp sẽ hòa đồng
như nhau, không còn động lực cạnh tranh, ai nghĩ cũng giống ai, không có bất đồng
chính kiến, khi ấy lại là một tai họa, vì tất cả đều mất phương hướng, không biết đi
3 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
đâu về đâu. Vì thế không thể phủ nhận rằng gia đình nào cũng có mâu thuẫn, xã hội
nào cũng có mâu thuẫn. Vấn đề là tìm ra mâu thuẫn đó như thế nào và giải quyết
mâu thuẫn đó như thế nào. Bài tiểu luận này sẽ đi đến phân tích các mâu thuẫn dưới
góc độ mâu thuẫn biện chứng.
1.2. Mâu thuẫn biện chứng trong triết học Mác – Lênin

Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập, người ta phân loại thành mâu
thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Trong đó, mâu thuẫn bên trong là sự tác
động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật hiện
tượng, mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ với sự vật, hiện
tượng khác. Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định sự vận động, phát triển của
sự vật vì nó là nguyên nhân của sự "tự thân vận động". Nó không tách rời với mâu
thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự vận động, phát triển
của sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài phải thông qua mâu thuẫn bên trong mới phát huy
được tác dụng.
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật hiện
tượng, người ta phân loại thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật hiện tượng, quy định
sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật hiện tượng, nó tồn tại trong suốt quá
trình tồn tại của sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng
cho một phương diện nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển một
mặt nào đó của sự vật. Mâu thuẫn cơ bản xuất phát từ bản chất của sự vật, quy định
sự tồn tại của sự vật và có tác dụng chi phối và làm nảy sinh những mâu thuẫn
không cơ bản. Mâu thuẫn không cơ bản tuy đóng vai trò phụ thuộc nhưng cũng có
ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển của sự vật.
5 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
Căn cứ vào vai trò mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu
thuẫn thứ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu trong một giai
đoạn phát triển nhất định của sự vật hiện tượng, giải quyết nó tạo điều kiện giải
quyết các mâu thuẫn thứ yếu.
Căn cứ vào tính chất các lợi ích đối lập trong xã hội, người ta phân chia
thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Mâu thuẫn đối kháng là
mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có
lợi ích cơ bản đối lập nhau. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những

nhiên là chỉ một bộ phận của giới tự nhiên, bao gồm các nhân tố thiên nhiên tồn tại
ngoài ý muốn của con người và ít nhiều chịu sự tác động của con người như đất,
nước, không khí, động vật, thực vật, nó có quan hệ trực tiếp tới quá trình sản xuất
vật chất và đời sống xã hội của con người.
Theo quan điểm của Liên hợp quốc bảo vệ môi trường là những hành động
thực hiện nhằm bảo vệ môi trường tự nhiên, phòng ngừa hay giảm thiểu những tác
động tiêu cực do các hoạt động kinh tế và xã hội của con người gây ra cho môi
trường.
7 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
2.2. Phân tích các mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước của Việt Nam
Vận dụng phép biện chứng về mâu thuẫn, chúng ta nhận thấy tăng trưởng và
bảo vệ môi trường có mối quan hệ thống nhất. Môi trường tự nhiên là điều kiện cho
tăng trưởng kinh tế và kinh tế tăng trưởng là cơ sở tạo nên các biến đổi của môi
trường tự nhiên theo hướng ngày càng tốt hơn.
Tuy nhiên, trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Việt Nam, để
đạt được mục tiêu tăng trưởng cao, chúng ta đã bỏ qua các các mối liên quan về
môi trường tự nhiên, thiếu sự tôn trọng khi ứng dụng khoa học tự nhiên và khoa
học kỹ thuật. Việc khai thác nguồn tài nguyên này một cách quá mức, dẫn đến hệ
sinh thái bị mất cân đối nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường gia tăng.
Từ đó đã dẫn đến những mâu thuẫn trong nhu cầu tăng trưởng kinh tế cao và
vấn đề bảo vệ môi trường tại Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước.
2.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh đáp ứng sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với hạn chế về điều kiện tài
nguyên thiên nhiên
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã giúp Việt Nam thoát được đói
nghèo và có những bước tiến xa trong phát triển kinh tế, được thể hiện rõ nhất qua

hơn. Kết quả là các tộc người tại khu vực miền núi với trình độ nhận thức kém vẫn
ứng xử theo các tập quán cổ hủ của họ. Việc người dân đặc biệt là tầng lớp thanh
niên thi nhau chặt những loại gỗ lâu năm hoặc tìm cách để giết chết những loài
động vật lớn hoang dã với mục đích thể hiện sức khỏe, sở thích và sự hùng dũng
của mình trước người khác hay quan niệm thuận theo tự nhiên, cứ để mọi cái trôi
9 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
theo dòng nước, nên mọi chất thải đều được đổ thẳng ra sông suối đã gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng. Bên cạnh đó họ cũng dễ bị lợi dụng bởi những người
hoạt động phi pháp, nghe theo lời xúi giục và tham gia vào các hoạt động khai thác
trái phép. Điều này càng làm cho thiên nhiên bị tàn phá và ô nhiễm nặng nề.
2.2.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng kinh tế với việc tạo việc làm cho lao
động trong khu vực di dân
Do nhu cầu tăng trưởng kinh tế và thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước, Việt Nam cần xây dựng một môi trường đầu tư lý tưởng để thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó, cơ sở hạ tầng là điều kiện cần đầu tiên. Để
thu hút được các nhà đầu tư , chúng ta buộc phải xây dựng các khu công nghiệp,
các nhà máy thủy điện, dẫn đến dân cư tại các khu vực này phải chuyển đến những
vùng đất mới. Trong khi đó, những người di dân chủ yếu là lao động tay chân,
không có trình độ. Khi chuyển đến những nơi ở mới họ không có đất đai để trồng
trọt, không có nghề nghiệp để làm, để nuôi sống bản thân. Chính phủ thì không tạo
cho họ nghề nghiệp mới, những công việc kiếm ra thu nhập. Do đó, để nuôi sống
bản thân và gia đình, họ phải dựa vào thiên nhiên. Họ phải khai hoang, chặt cây,
phá rừng để làm nương rẫy, bán những thực động vật quý hiếm để kiếm thu nhập.
Kết quả là hàng nghìn hecta rừng bị phá hủy, hàng trăm loại thực vật, cây gỗ lâu
năm bị tuyệt chủng, nguồn nước bị ô nhiễm nặng nề.
2.2.4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu về cơ sở vật chất kỹ thuật cho bảo vệ môi trường
tự nhiên với hạn chế về điều kiện kinh tế - kỹ thuật đáp ứng yêu cầu này
Để có thể khai thác tối đa, hợp lý, có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên thì vấn

NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Từ thực tế, chúng ta nhận thấy Việt Nam đang trong tình trạng suy thoái kinh
tế kéo dài do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu cùng với những thảm
họa tự nhiên liên tiếp xảy ra do ảnh hưởng của việc tàn phá môi trường. Trong khi
đó, chúng ta vẫn đang trong quá trình thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước. Vì vậy, đảm bảo một sự cân bằng giữa nhu cầu tăng trưởng kinh
tế với đòi hỏi bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và tái tạo môi trường, vừa
đáp ứng được nhu cầu sử dụng của thế hệ hiện tại trong tăng trưởng và phát triển,
vừa không làm phương hại gì đến nhu cầu và khả năng ứng dụng các nguồn tài
nguyên của các thế hệ tương lai là một yêu cầu bức thiết của Việt Nam. Để giải
quyết được vấn đề này, Việt Nam cần phải:
3.1. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu
Chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng theo chiều rộng sang mô hình tăng
trưởng theo chiều sâu. Nghĩa là từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát
triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng chất
lượng hiệu quả. Từ chủ yếu dựa vào vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và sử dụng
lao động giá rẻ sang tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nguồn nhân
lực chất lượng cao, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Từ chủ
yếu là công nghiệp gia công, lắp ráp sang đẩy mạnh công nghiệp chế tạo, chế biến,
công nghiệp phụ trợ. Từ chủ yếu xuất khẩu tài nguyên khoáng sản, nguyên liệu, sản
phẩm thô sang tăng tỷ trọng xuất khẩu sang chế biến, chế tạo. Đẩy mạnh công
nghiệp hóa nông nghiệp, phát triển dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Phát triển và khai
thác tối đa thị trường trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu. Gắn kết chặt chẽ
giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ
12 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Khi chuyển sang mô hình tăng trưởng này,
chúng ta sẽ giảm bớt được áp lực về tài nguyên thiên nhiên trong sản xuất, do đó
hạn chế được tình trạng khai thác trái phép và có thời gian để tái tạo môi trường.

Luật Môi trường ban hành; ưu đãi, đầu tư cho các hoạt động kinh tế thân thiện, cải
thiện với môi trường tự nhiên.
3.4. Áp dụng khoa học kĩ thuật hiện đại
Xây dựng một chiến lược phát triển ngành công nghiệp sạch hơn và thân
thiện với môi trường. Xây dựng, thúc đẩy một thị trường cạnh tranh bình đẳng giữa
các doanh nghiệp, phát triển hệ thống các công cụ nhằm tăng cường năng lực
doanh nghiệp trong việc tiếp cận công nghệ thân thiện môi trường. Tăng cường
công tác truyền thông cơ sở, vận động các doanh nghiệp tham gia tích cực vào công
tác bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Khuyến khích nghiên cứu, sáng tạo
công nghệ trong nước và tăng cường hợp tác quốc tế. Thúc đẩy doanh nghiệp tự đổi
mới, áp dụng các công nghệ thân thiện môi trường vào qui trình sản xuất, tiết kiệm
năng lượng, tài nguyên và hạn chế gây ô nhiễm môi trường
14 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành Triết học) – Nhà xuất bản Chính trị - hành chính - 2010.
2. Hoàng Ngọc Hòa , “Tăng trưởng theo chiều sâu để ngăn chặn suy giảm kinh tế
trong giai đoạn hiện nay” - Tạp chí Cộng sản
3. TS Nguyễn Văn Thanh, “Xây dựng mô hình sinh thái hiện đại trong chiến lược
phát triển đất nước”, Tạp chí Cộng sản
15 MHV:CH220234
Tiểu luận triết học GVHD: PGS.TS. Phạm Văn
Sinh
MỤC LỤC
16 MHV:CH220234


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status