LUẬN VĂN: Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự - Pdf 15



LUẬN VĂN:

Chứng cứ và vấn đề chứng minh
trong Bộ luật Tố tụng dân sự
mở đầu

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Năm 1989 ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự; tiếp đến năm 1994 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế; năm 1996 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động. Ba Pháp lệnh trên
đã phần nào đáp ứng đòi hỏi bức thiết trong tố tụng phi hình sự và là cơ sở cho các cơ

01 năm 205 vấn đề chứng minh và chứng cứ mới chỉ có một số bài viết như "Chế định
chứng cứ và chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự" tác giả Thạc sĩ Nguyễn Công
Bình, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 02 năm 2004; "Một vài suy nghĩ về chứng cứ
trong Bộ luật Tố tụng dân sự" tác giả Tưởng Duy Lượng, Tạp chí Tòa án số 20, 21/2004.
Những bài viết trên mới chỉ giải quyết một vài khía cạnh về chứng minh và chứng cứ,
chứ chưa nghiên cứu một cách toàn diện hệ thống.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với phạm vi của một luận văn thạc sĩ luật học tác giả chưa có đủ điều kiện
nghiên cứu hết các vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tất cả các vụ việc dân sự theo
phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng dân sự, vì vậy tác giả chỉ nghiên cứu chuyên sâu
về chứng cứ và chứng minh trong phạm vi các vụ án dân sự truyền thống (dân sự và hôn
nhân gia đình), còn trong các lĩnh vực khác tác giả hy vọng sẽ có cơ hội thực hiện đầy đủ
nội dung của chế định này trong các công trình nghiên cứu sau này.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
một số phương pháp cụ thể như: Lịch sử phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp và
phương pháp xã hội, phương pháp khảo sát thăm dò v.v
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu một cách có hệ thống toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn của
chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự. Từ mục đích này, nhiệm vụ của luận văn
là:
- Nghiên cứu đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản nhất, giúp cho việc nhận thức
một cách rõ nét về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.
- Từ việc nghiên cứu những hạn chế, bất cập, vướng mắc trong thực tiễn đề xuất
những kiến nghị trong việc hoàn thiện các quy định về chứng cứ.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Xây dựng khái niệm khoa học về chứng cứ và khái niệm chứng minh trong tố
tụng dân sự.
- Chỉ ra những đặc trưng của chứng cứ trong tố tụng dân sự.

tình tiết liên quan đến vụ kiện như: Việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự trên cơ sở nào?
Các đương sự đã cung cấp được các chứng cứ gì? Và có khả năng thu thập thêm được
một số chứng cứ gì khác? Từ đó, Tòa án sẽ tiếp nhận vụ việc và thực hiện tất cả các biện
pháp để nhằm thu thập đầy đủ, toàn diện, chính xác, đúng đắn các loại nguồn của chứng
cứ mà pháp luật có quy định để có cơ sở giải quyết khách quan, đúng đắn vụ việc dân sự.

Có nhiều định nghĩa về chứng cứ của một số nước trên thế giới: Trong Bộ luật
Tố tụng dân sự của Liên bang Nga có quy định: "Chứng cứ trong tố tụng dân sự là những
sự thật khách quan và theo đó mà Tòa án có cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án dân sự";
hay Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản định nghĩa: "Chứng cứ là một tư liệu thông qua đó
một tình tiết được Tòa án công nhận và là một tư liệu, cơ sở thông qua đó Tòa án được
thuyết phục là một tình tiết nhất định tồn tại hay không".
Về nội hàm của khái niệm một số nước trên tựu chung là khẳng định: Chứng cứ
là sự thật khách quan.
ở Việt Nam, khái niệm chứng cứ được xây dựng dựa trên cơ sở tiếp thu có chọn
lọc những quan điểm khoa học về chứng cứ trong pháp luật tố tụng dân sự ở các nước, đó
là xuất phát từ thực tế khách quan của bản thân chứng cứ không lệ thuộc vào ý thức con
người; đánh giá chứng cứ trong mối liên hệ biện chứng, mỗi chứng cứ đều có nguồn gốc
dẫn đến sự hình thành nên nó, sự tồn tại của chứng cứ luôn ở dạng động, liên quan đến
nhau. Từ đó Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam định nghĩa về chứng cứ như sau:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và
cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập
được theo trình tự thục tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn
cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp
hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng
đắn vụ việc dân sự (Điều 81 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Có thể hiểu chung: chứng cứ là những gì có thật được thu thập theo đúng quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự dùng để làm căn cứ giải quyết đúng đắn vụ án.
Định nghĩa chứng cứ (tại Điều 81) Bộ luật Tố tụng dân sự nhìn nhận dưới góc độ
khoa học pháp lý thì khái niệm này cần được xem xét kỹ hơn. Qua thực tiễn xét xử và các

thủ tục Bộ luật này quy định mà Tòa án dựa vào đó để giải quyết đúng đắn vụ việc dân
sự.
1.1.2. Đặc điểm của chứng cứ
a) Tính khách quan của chứng cứ

Chứng cứ trước hết là những gì có thật tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý
thức chủ quan của con người. Đương sự và các cơ quan tiến hành tố tụng không được tạo
ra chứng cứ, nếu vậy tính khách quan sẽ không còn; do đó không thể coi là chứng cứ.
Con người phát hiện tìm kiếm và thu thập chứng cứ, con người nghiên cứu và đánh giá
để sử dụng nó.
b) Tính liên quan của chứng cứ
Tính liên quan: Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998: "Tính liên
quan là sự liên hệ, dính dáng nhau ở một hay một số tính chất".
Tính liên quan trong vụ việc dân sự được hiểu là các tình tiết, sự kiện có liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vụ việc dân sự mà Tòa án đâng giải quyết.
Chứng cứ là những sự kiện, tình tiết, tài liệu tồn tại khách quan và có liên quan
đến vụ việc mà Tòa án cần giải quyết. Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam quy định cụ thể
các loại nguồn của chứng cứ, tuy nhiên Tòa án phải chọn lọc và đánh giá những gì có thật
liên quan đến vụ việc mà thôi. Tính liên quan của chứng cứ có thể là trực tiếp hoặc gián
tiếp. Mối quan hệ trực tiếp là mối quan hệ dựa vào đó có thể xác định được ngay những
tình tiết, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự xem đây là tình tiết, sự kiện không cần
phải chứng minh. Mối liên hệ gián tiếp là qua khâu trung gian mới tìm được tình tiết, sự
kiện. Tuy nhiên, cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì cũng phải có mối quan hệ nội tại, có
mối quan hệ nhân quả. Từ việc đánh giá rõ tình tiết liên quan, Tòa án có thể xác định
đúng chứng cứ cần sử dụng để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự mà không để xảy ra
trường hợp thừa, hoặc không đầy đủ chứng cứ.
c) Tính hợp pháp của chứng cứ
Các tình tiết, sự kiện phải được thu thập, bảo quản, xem xét, đánh giá, nghiên
cứu theo thủ tục luật định, có như vậy mới bảo đảm giá trị của chứng cứ. Trước hết,
chứng cứ phải được pháp luật thừa nhận, các tình tiết, sự kiện chỉ được coi là chứng cứ


Nguồn chứng cứ ở trong tố tụng dân sự là nguồn được thu thập, cung cấp theo
trình tự Bộ luật Tố tụng dân sự và được liệt kê tại Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân sự thì
được coi là nguồn. Bởi vậy, nếu không có nguồn chứng cứ sẽ không chứng minh làm
sáng tỏ để giải quyết vụ việc dân sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì nguồn của chứng cứ bao gồm: "Các
tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; các vật chứng; lời khai của đương sự, lời khai của
người làm chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; tập quán; kết
quả định giá tài sản; các nguồn khác mà pháp luật có quy định" (Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân
sự). Có thể hiểu nguồn của chứng cứ là nơi chứa đựng chứng cứ. Nó tồn tại hai loại nguồn
chủ yếu là nguồn vật và tài liệu. Nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh là hai khái
niệm khác nhau; nhưng thực tế là thường được hiểu chung. Vì một số trường hợp các
phương tiện chứng minh cũng chính là cái có thể rút ra các tin tức và vụ việc dân sự như
vật chứng, tài liệu chứa đựng chứng cứ tức cũng là nguồn của chứng cứ.
Tòa án chỉ có thể thu thập các nguồn chứng cứ, từ đó rút ra các chứng cứ. Bất kỳ
loại chứng cứ nào cũng phải nằm trong một loại nguồn chứng cứ nhất định; nhưng không
có nghĩa là khi thu thập một nguồn chứng cứ nào đó thì nhất định trong đó sẽ chứa đựng
chứng cứ, vì vậy sẽ phạm sai lầm trong đánh giá, sử dụng. Ví dụ, vật chứng đương sự
cung cấp cho Tòa án là nguồn nhưng là vật chứng được đương sự làm giả, gian dối thì
không thể coi vật chứng này là nguồn được; hay kết luận giám định là nguồn chứng cứ
nhưng kết luận giám định sai thì không thể coi là nguồn của chứng cứ được.
Theo pháp luật Việt Nam ban hành, có các loại nguồn cụ thể:
- Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được
Các tài liệu đó phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp
pháp hoặc do tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc
hoặc bản được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao. Các tài liệu nghe được, nhìn được phải
xuất trình kèm theo văn bản xác định xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản và sự liên quan
tới cuộc thu âm, thu hình đó. Các tài liệu này có thể là băng ghi âm, đĩa ghi hình, phim
ảnh Nếu đương sự không xuất trình được các văn bản nêu trên thì tài liệu nghe, đọc,
nhìn được mà đương sự giao nộp không thể được coi là chứng cứ.

chuyên môn để làm sáng tỏ một tình tiết, sự kiện nào đó. Theo yêu cầu của một bên
đương sự hoặc theo thỏa thuận của các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu
giám định. Kết luận giám định chính xác có tầm quan trọng rất lớn, thậm chí có nhiều vụ
kiện có thể quyết định toàn bộ vụ án. Ví dụ, vụ kiện tranh chấp về thừa kế. Bản di chúc bị
tố cáo là giả mạo, nếu xác định của cơ quan giám định tư pháp là giả hay không, nó quyết
định toàn bộ vụ án. Bởi vậy, các kết luận giám định có thể được giám định lại, giám định
bổ sung ở các cơ quan có chức năng giám định khác.
- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ
Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng
thủ tục do pháp luật quy định và phải có chữ ký của các thành viên tham gia thẩm định.
Cụ thể, Tòa án đến tận nơi có sự việc để làm việc cùng có đại diện của cơ quan sở tại có
thẩm quyền. Tòa án phải báo cho đương sự biết trước để họ chứng kiến việc xem xét,
thẩm định.
- Tập quán là nguồn của chứng cứ
Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và được
công chúng thừa nhận. Đối với một tập quán được coi là chứng cứ trong một vụ án cụ thể
thì Thẩm phán phải yêu cầu đương sự trình bày rõ nguồn gốc của tập quán đó và chứng
minh tập quán đó bằng cách ghi nhận nó bằng văn bản thể hiện việc cả cộng đồng dân cư
nơi có tập quán đó thừa nhận, như xác nhận vào văn bản cả cộng đồng dân cư và được
chứng thực cũng như xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tập quán đó được thừa
nhận.
Thực chất, phong tục, tập quán chỉ là cơ sở để đánh giá chứng cứ. Bởi lẽ, nó
không có giới hạn cụ thể, rạch ròi, ở một mức độ nào đó nó có tính ước lệ và suy đoán. Ví
dụ, ở một cộng đồng dân cư, tính cục bộ tại địa phương đó dẫn đến vì giúp cho một cá nhân
nào đó mà cộng đồng dân cư có thể ký và xác thực vào văn bản mà việc này vẫn không trái
với đạo đức xã hội. Tóm lại, về cơ bản, tập quán không được trái với các nguyên tắc của
pháp luật và đạo đức xã hội và đương nhiên tập quán đó chưa được khái quát để cụ thể
hóa trong luật.

- Kết quả định giá tài sản

thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại phiên tòa của các chủ thể là chủ yếu và mang
tính quyết định:
- Cung cấp chúng cứ: Là nghĩa vụ chủ yếu là do đương sự giao nộp cho Tòa án,
đương sự muốn làm rõ được yêu cầu hay phản đối yêu cầu của họ là có căn cứ hợp pháp
thì trách nhiệm của họ là phải cung cấp, giao nộp chứng cứ cho Tòa án để chứng minh.
Việc cung cấp chứng cứ còn có thể do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp.
- Thu thập chứng cứ là trách nhiệm của các đương sự, hoặc một số trường hợp Tòa
án thu thập. Việc thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ để chứng minh trong giải
quyết vụ việc dân sự phải đúng hạn, nhanh chóng và kịp thời.
- Nghiên cứu và đánh giá là giai đoạn cuối cùng của hoạt động chứng minh. Nó
là một quá trình lôgíc nhằm xác định giá trị chứng minh và sự phù hợp của các chứng cứ
- sự phù hợp của chứng cứ ở đây là sự phù hợp giữa những tình tiết, sự kiện đã thu thập
được với thực tế khách quan. Thông qua nghiên cứu và đánh giá chứng cứ, Tòa án hình
thành các đối tượng chứng minh và sắp xếp các sự kiện theo một trình tự nhất định. Việc
suy đoán chứng cứ có thể được sử dụng trong quá trình đánh giá chứng cứ, nhưng việc
suy đoán này phải dựa trên các chứng cứ khác hoặc trên tổng thể các chứng cứ có trong
hồ sơ chứ không được theo nhận thức chủ quan của người đánh giá.
Chứng minh trong tố tụng dân sự có ý nghĩa làm rõ, xác định các sự kiện, tình
tiết của vụ việc dân sự, đảm bảo việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Chứng minh là
biện pháp duy nhất để xác định các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự.
Thông qua hoạt động chứng minh, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và các chủ thể
khác thấy rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự được giải quyết. Đối với các đương
sự, chứng minh là vấn đề rất quan trọng để các đương sự làm rõ quyền, lợi ích hợp pháp
của họ, trên cơ sở đó thuyết phục Tòa bảo vệ. Trước Tòa án, nếu đương sự không chứng
minh được sự tồn tại quyền, lợi ích hợp pháp của họ thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ
có thể sẽ không được Tòa án bảo vệ. Trên thực tế, Tòa án có thể sai lầm trong việc xác

định, đánh giá chứng cứ, không làm sáng tỏ được các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân
sự. Điều đó dẫn đếu việc giải quyết vụ việc dân sự không đúng với sự thật và làm cho
đương sự không được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Chứng minh không chỉ có ý

Chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự gồm đương sự, ngưòi đại diện cho
đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ
chức khác và Tòa án. Trong đó, đương sự có vai trò chủ yếu để chứng minh cho yêu
cầu hay phản đối yêu cầu của mình theo trình tự thủ tục quy định trong Bộ luật Tố
tụng dân sự.
Theo quy định tại các điều 06, 58, 63 64, 74, 79, 117, 118, 165, 230 của Bộ luật
Tố tụng dân sự, chủ thể của hoạt động chứng minh bao gồm đương sự và Tòa án cũng
như cá nhân, cơ quan, tổ chức, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, người đại diện hợp
pháp của đương sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, việc cung cấp chứng cứ và chứng
minh cho yêu cầu của mình thuộc về đương sự. Đây là một trong những nguyên tắc xuất
phát từ quyền tự định đoạt của đương sự đối với việc khởi kiện. Đương sự có yêu cầu bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh yêu cầu
đó là hợp pháp. Ngược lại, nếu đương sự phản đối yêu cầu của người khác thì phải đưa ra
chứng cứ để phản đối. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh
đặt ra cho cả hai bên đương sự, bên khởi kiện, bị kiện và người có quyền và nghĩa vụ liên
quan.
Bộ luật Tố tụng dân sự đề cao vai trò, trách nhiệm chứng minh của đương sự.
Mỗi bên đương sự tham gia tố tụng đều phải chứng minh tất cả các tình tiết, sự kiện của
vụ việc dân sự mà trên cơ sở đó họ đưa ra yêu cầu hay phản đối yêu cầu cầu của người
khác. Trước hết, nguyên đơn phải chứng minh trước, nghĩa là bên có yêu cầu phải đưa ra
các chứng cứ để được Tòa án xem xét chấp thuận thụ lý vụ việc dân sự. Sau đó bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới phải chứng minh bằng việc đưa ra chứng cứ
phải đối lại yêu cầu của nguyên đơn (khoản 1, 2 Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Ngoài các đương sự, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định các cá nhân, cơ quan, tổ
chức khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng

phải chứng minh (khoản 3 Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự). Tuy không có quyền và lợi
ích gắn liền với vụ việc dân sự như đương sự, nhưng các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi
kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước hoặc quyền và lợi ích hợp

chứng minh của họ.
1.2.3. Quá trình chứng minh
Chứng minh được diễn ra suốt trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Như
hoạt động cung cấp, thu thập, xác định, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại Tòa án.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các chủ thể phải thực hiện đúng quyền và
nghĩa vụ của mình mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định trong quá trình tố tụng. Kết quả
giải quyết vụ việc dân sự phụ thuộc phần lớn vào việc chứng minh; vì vậy, trong quá
trình này đòi hỏi phải thận trọng, tỷ mỷ và có đủ thời gian để đạt kết quả tốt nhất.
Theo quy định tại Điều 165, 175 Bộ luật Tố tụng dân sự thì ngay khi khởi kiện
thụ lý vụ án, đương sự đã thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh bằng việc nguyên đơn
gửi kèm theo đơn khởi kiện là các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của
mình; bị đơn, người có nghĩa vụ liên quan nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án phải
gửi cho Tòa án văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện và chứng cứ kèm theo.
Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao
nộp chứng cứ cho Tòa án (Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự). Tại phiên tòa, các bên đương
sự tham gia tranh luận để chứng minh bảo vệ quyền lợi của mình, thời gian tranh luận
của họ không hạn chế (Điều 233 Bộ luật Tố tụng dân sự). Khi có kháng cáo, người kháng
cáo phải gửi cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) để chứng minh cho
kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp (khoản 3 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Theo Điều 83 Bộ luật Tố tụng dân sự, trong trường hợp đương sự không thể tự
mình thu thập chứng cứ và họ có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một
số biện pháp thu thập chứng cứ. Khi áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ, Thẩm
phán phải ra quyết định bằng văn bản, trừ việc lấy lời khai của đương sự, người làm chứng
theo quy định của Điều 95, Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc đánh giá chứng cứ phải
khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác; Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ; mọi
chứng cứ phải được công bố và sử dụng công khai như nhau, trừ trường hợp có liên quan

đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu
cầu chính đáng của đương sự (Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự).
1.2.4. Đối tượng chứng minh trong tố tụng dân sự

chứng thực hợp pháp. Đối với những tình tiết, sự kiện mọi người đều biết thì không
phải chứng minh. Tuy nhiên, tất cả các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh phải
được Tòa án thừa nhận. Do đó, khi giải quyết các vụ việc dân sự, trách nhiệm của Tòa
án phải xem xét từng tình tiết, sự kiện trong các trường hợp cụ thể và trên cơ sở yêu cầu
phải công khai, minh bạch trong các hoạt động xét xử mà đồng ý, thừa nhận hay không
về các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh. Ví dụ, sự thừa nhận của đương sự phía
bên này đối với các chứng cứ mà đương sự phía bên kia có yêu cầu đưa ra xem như có
giá trị miễn nghĩa vụ chứng minh đối với bên có yêu cầu. Một trong vấn đề thuộc bản
chất của chứng minh là làm cho đương sự bên kia thấy được sự tồn tại của tình tiết, sự
kiện liên quan đến vụ việc dân sự để họ thừa nhận hay không thừa nhận; quyết thừa
nhận còn là quyết tự định đoạt của đương sự.
1.2.5. Các phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, tr. 610, phương tiện được
hiểu: "cái dùng để tiến hành công việc gì". Mỗi vụ việc dân sự đều có đối tượng chứng
minh riêng. Việt sử dụng phương tiện chứng minh nào trong vụ việc dân sự là tùy thuộc
vào những tình tiết, sự kiện thuộc đối tượng chứng minh của vụ việc dân sự cần giải
quyết. Một số công cụ thường được thực hiện như lấy lời khai của đương sự, lời khai của
người làm chứng, kết luện của cơ quan giám định gọi là phương tiện chứng minh.
Phương tiện chứng minh là những công cụ được sử dụng để làm rõ các tình tiết,
sự kiện của vụ việc dân sự thông qua các chủ thể chứng minh thực hiện theo quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự.
Hoạt động chứng minh có quyết định đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Để
đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định những
phương tiện chứng minh cụ thể để các chủ thể lấy đó làm công cụ chứng minh cho mình:
Các tài liệu đọc được phải là bản chính, các tài liệu nghe được, nhìn được phải có văn

bản xác định xuất xứ; các vật chứng, lời khai của đương sự; người làm chứng phải được
ghi lại dưới một hình thức nhất định theo luật định.
Trong một vụ việc dân sự cụ thể, các đương sự có thể dùng nhiều phương tiện
chứng minh trong đó được làm rõ các sự kiện, tình tiết phải được xác định đúng, rõ ràng

phương quy định cụ thể về nghĩa vụ chứng minh của đương sự: "Trong các vụ kiện về
dân sự, các bên đương sự có trách nhiệm chứng minh các yêu cầu của mình và đề xuất
chứng cứ. Nếu các chứng cứ do các bên đương sự xuất trình chưa đầy đủ thì Tòa án sẽ
yêu cầu họ xuất trình các chứng cứ bổ sung ".
Thông tư số 3-NCPL ngày 03-3-1966 của Tòa án nhân dân tối cao về trình tự giải
quyết việc ly hôn thì căn cứ để Tòa án xét công nhân cho đôi vợ chồng được thuận tình ly
hôn là sự tự nguyện thật sự ly hôn của cả đôi bên, vì họ không còn có thể sống chung với
nhau được nữa và họ đã thỏa thuận với nhau hợp pháp về các vấn đề về con cái và tài
sản. Đơn thuận tình ly hôn phải do cả hai vợ chồng ký.
Thông tư số 06/TĐ-TC ngày 25-2-1974 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
việc điều tra trong tố tụng dân sự có quy định rõ hơn:
Các đương sự (nguyên đơn, bị đơn và người dự sự) có quyền đề xuất
những yêu cầu và có nhiệm vụ trình bày những chứng cứ, lý lẽ để chứng minh
những yêu cầu và bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của mình
Trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân khởi tố vụ kiện về dân sự để
bảo vệ những quyền lợi của Nhà nước, của tập thể và của nhân dân, Tòa án
nhân dân cũng phải yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân cung cấp những tài liệu
căn cứ cần thiết
Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là phải kiểm tra kỹ lưỡng những chứng
cứ mà các đương sự đã đề xuất cần thiết để làm sáng tỏ sự thật.
Thông tư số 25-TATC ngày 20-11-1974 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
việc hòa giải trong tố tụng dân sự nêu rõ: Tòa án nhân dân không hòa giải đối với việc
thuận tình ly hôn. Tuy nhiên, cần chú ý phân biệt những trường hợp sau đây:
a)

b) Nếu điều ta thấy một bên kiên quyết muốn ly hôn, còn bên kia thị không thực
sự tự nguyên, nhưng do là tự ái, nông nổi, hoặc đã bị ép buộc mà thuận tình ly hôn, thì
Tòa án nhân dân có thể:
- Hoặc coi là một việc thuận tình ly hôn chưa tự nguyên và sẽ ra quyết định bác
đơn xin thuận tình ly hôn.

ý kiến của người chưa thành niên
Khoản 3 Điều 21 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ghi:
Nếu đương sự là người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần
không thể tham gia tố tụng được thì phải có người đại diện tham gia tố tụng.
Nếu không có ai đại diện cho người chưa thành niên, người có nhược
điểm về thể chất hoặc tâm thần, người vắng mặt không có tin tực thì Tòa án cử
một người thân thích của đương sự hoặc một thành viên của một tổ chức xã
hội làm người đại diện cho họ.
Quyền và nghĩa vụ của người đại diện được ủy quyền được quy định tại Điều 23
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự: "Người đại diện được ủy quyền thực hiện
quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong phạm vi được ủy quyền"; khoản 3 Điều 25
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định: "Người bảo vệ quyền lợi của
đương sự có nghĩa vụ sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm sáng
tỏ sự thật của vụ án; giúp đương sự về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
họ".
Tại Điều 29 ghi nhận quyền và nghĩa vụ tố tụng của tổ chức xã hội: "Tổ chức xã
hội khởi kiện vì lợi ích chung có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn, trừ quyền
hòa giải".
Khoản 3 Điều 28 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định trường
hợp Viện kiểm sát khởi kiện vì lợi ích chung: "Nếu Viện kiểm sát khởi tố vụ án thì Viện
kiểm sát có nhiệm vụ cung cấp chứng cứ".
- Giai đoạn từ 1990 đến 2004

Theo Thông tư liên ngành số 09/TT-LN ngày 01-10-1990 của Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, hướng dẫn thi hành một số quy định
của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự:
1. Khi Viện kiểm sát khởi tố vụ án thì Viện kiểm sát có trách nhiệm
cung cấp các tài liệu cần thiết đối với việc giải quyết vụ án cho Tòa án có thẩm
quyền giải quyết vụ án.
Trong trường hợp Viện kiểm sát khởi tố vụ án, nếu thấy cần thiết thì


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status