LUẬN VĂN: Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại của các ngân hàng thương mại Việt Nam potx - Pdf 15



LUẬN VĂN: Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng hiện
đại của các ngân hàng thương mại Việt Nam Lời mở đầu
Trước tác động của toàn cầu hoá và xu thế nhất thể hoá thị trường tài chính tiền tệ
đang diễn ra nhanh chóng, Việt Nam đang từng bước mở cửa tiến tới hội nhập khu vực
và Quốc tế. Trong xu thế đó Việt Nam đã kí kết không ít các hiệp định song phương và
đa phương liên quan tới hoạt động tài chính ngân hàng. Đặc biệt Hiệp định thương mại
Việt - Mỹ cũng như cam kết chuẩn bị gia nhập tổ chức Thương mại thế giới( WTO) đã
buộc chúng ta phải đổi mới và phát triển hệ thống Ngân hàng. Để giành thế chủ động
trong tiến trình hội nhập Việt Nam cần xây dựng một hệ thống Ngân hàng đa dạng về
hình thức, có uy tín với khách hàng, hoạt động có hiệu quả, an toàn, nâng cao năng lực
cạnh tranh và mở rộng đầu tư đáp ứng nhu cầu CNH- HĐH đất nước
Cùng với xu thế đó là sự phát triển không ngừng và ngày càng mạnh mẽ của khoa
học kĩ thuật và thông tin. Cũng cùng với thế giới Việt Nam đang dần hình thành một
nền thương mại điện tử trong đó các nghiệp vụ về thanh toán và chuyển tiền đều được

tế
Chương II: Thực trạng dịch vụ ngân hàng hiện đại tại các NHTM Việt Nam và Sở
giao dịch I- NHĐT&PTVN
Chương III: Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại của các NHTM Việt
Nam ( Nghiên cứu tại Sở giao dịch I- NHĐT&PTVN) Chương I
Tổng quan về dịch vụ ngân hàng hiện đại của các ngân hàng thương mại trong nền
kinh tế.
I. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1. Khái niệm về ngân hàng
Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với kinh tế. Các NHTM được
định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ và vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế.
Với mỗi cách tiếp cận khác nhau ta sẽ có khái niệm ngân hàng khác nhau.

Luật ngân hàng Pháp 1941 định nghĩa NHTM căn cứ vào mục đích và tính chất hoạt
động. Ngân hàng được coi là “những xí nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuyên nhận
của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho
chính họ vào các nghiệp vụ chứng khoán, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Nếu xét trên phương diện những loại hình dịch vụ cung cấp có thể hiểu: “Ngân hàng
là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc
biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính
nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Xem xét trên các hoạt động chủ yếu Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và
dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Với nội dung của đề tài nghiên cứu, chuyên đề sẽ đi theo khái niệm về NHTM dựa
trên những loại hình dịch vụ cung cấp và trên các hoạt động chủ yếu của nó.

xã hội, làm nguồn vốn tín dụng để cho vay đối với nền kinh tế. Kết quả của hoạt động
huy động vốn là tạo ra nguồn vốn để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế.
-Hoạt động sử dụng vốn: Là việc ngân hàng sử dụng nguồn vốn của mình và các
nguồn vốn ổn định khác để cho vay đối với các chủ thể kinh tế và thực hiện đầu tư. Đây
là hoạt động quan trọng nhất quyết định đến khả năng tồn tại và phát triển của NHTM.
- Ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng : Những dịch vụ
ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ trợ đáng kể cho nghiệp vụ khai thác
nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa tạo ra thu nhập cho ngân hàng bằng các
khoản tiền hoa hồng, lệ phí. Các hoạt động này gồm: Các dịch vụ thanh toán; thu, chi
hộ khách hàng; Nhận bảo quản các tài sản giấy tờ có giá; Kinh doanh mua bán ngoại tệ ,
vàng bạc, đá quý; Tư vấn tài chính …
II. Tổng quan về dịch vụ ngân hàng hiện đại
1. Khái niệm về dịch vụ ngân hàng hiện đại (DVNHHĐ)
Dịch vụ là hoạt động bao gồm các nhân tố không hiện hữu, giải quyết các mối quan
hệ giữa khách hàng và tài sản mà khách hàng sở hữu với người cung cấp mà không có
sự chuyển giao quyền sở hữu. Sản phẩm của dịch vụ có thể trong phạm vi và vượt quá
phạm vi của sản phẩm vật chất.

Ngành ngân hàng là ngành không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần
cho xã hội nên được xếp vào ngành dịch vụ.
Xét trên giác độ Marketing: Dịch vụ ngân hàng là những đặc điểm, tính năng, công
dụng do ngân hàng tạo ra nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn nhận được của khách
hàng, tổ chức tài chính.
Theo tác giả Võ Kim Thanh trong bài báo “Đa dạng hoá nghiệp vụ dịch vụ ngân
hàng- xu thế phát triển tất yếu của các NHTM Việt Nam”(Tạp chí ngân hàng số 3/2001)
viết: “Dịch vụ ngân hàng là những dịch vụ thuộc lĩnh vực tài chính, do ngân hàng cung
cấp cho khách hàng của mình”.
Còn theo tác giả Đỗ Xuân Hồng trong bài báo “Dịch vụ ngân hàng trong thời đại
công nghệ thông tin và hội nhập kinh tế” (tạp chí ngân hàng số 8/03) viết: “Dịch vụ
ngân hàng là các phương tiện, công cụ vô hình dùng để chuyển tải các loại hình hoạt

thể giao dịch với ngân hàng tại bất cứ nơi đâu, bất cứ thời điểm nào, chỉ cần khách hàng
đáp ứng đủ các điều kiện do ngân hàng đưa ra
Căn cứ vào các tiêu chí trên và căn cứ vào phạm vi chuyên đề nghiên cứu bài viết sẽ
tập trung đi sâu nghiên cứu dịch vụ thanh toán trong nước( chủ yếu là các công cụ và
phương thức thanh toán hiện đại) và các dịch vụ ngân hàng điện tử
2. Sự phân biệt giữa dịch vụ ngân hàng truyền thống và dịch vụ ngân hàng hiện
đại
DVNHTT và DVNHHĐ đều là những sản phẩm dịch vụ tài chính do ngân hàng cung
ứng cho khách hàng của mình, vì vậy chúng đều có đặc điểm chung sau:
*Thứ nhất: Dịch vụ ngân hàng mang tính vô hình: Do dịch vụ của ngân hàng không
tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể vì vậy khi khách hàng muâ dịch vụ không thể sờ nắm
đựơc vật mình mua. Vì vậy khách hàng thường gặp khó khăn trong việc đưa ra các
quyết định lựa chọn, họ chỉ có thể kiểm tra và xác định chất lượng sản phẩm dịch vụ
trong khi sử dụng. Do đặc tính vô hình nên trong kinh doanh ngân hàng phải lựa chọn
trên cơ sở lòng tin. Do đó để tăng lòng tin tưởng của khách hàng ngân hàng phải tạo và
củng cố niềm tin đối với khách hàng: cách nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng, tăng
tính hữu hình của sản phẩm, khuyếch trương hình ảnh uy tín tạo điều kiện để khách
hàng tham gia vào hoạt động tuyên tryền cho ngân hàng

* Thứ 2: Tính không thể tách biệt: Do quá trình cung cấp và quá trình tiêu dùng sản
phẩm, dịch vụ ngân hàng xảy ra đồng thời, đặc biệt có sự tham gia trực tiếp của khách
hàng vào quá trình cung ứng sản phảm. Mặt khác, quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ
ngân hàng thường đựoc tiến hành theo quy trình nhất định không thể chia cắt ra thành
các thành phẩm khác nhau Điều đó làm cho ngân hàng không có sản phẩm dở dang, dự
trữ lưu kho, mà sản phẩm được cung ứng trực tiếp cho người tiêu dùng khi và chỉ khi
khách hàng có nhu cầu. Quá trình cung ứng diễn ra đồng thời với quá trình sử dụng sản
phẩm dịch vụ của ngân hàng.
* Thứ 3: Tính không ổn định và khó xác định: Sản phẩm dịch vụ ngân hàng được cấu
thành bởi nhiều yếu tố khác nhau như trình độ đội ngũ nhân viên, kỹ thuật công nghệ và
khoa học. Đồng thời sản phẩm dịch vụ ngân hàng còn được thực hiện ở không gian và

hỏi phải có sự phát triển của công nghệ
thông tin một cách tương ứng. Cần
phải có máy móc thiết bị hiện đại hỗ
trợ.Lao động thủ công giảm bớt
-Hầu hết khách hàng muốn sử dụng
dịch vụ ngân hàng phải đến giao dịch
trực tiếp với ngân hàng.

-Rút ngắn thời gian giao dịch, thu
hẹp khoảng cách không gian, khách
hàng có thể không phải đến ngân hàng.

-Những dịch vụ này mang tính rủi ro
cao, ngân hàng phụ thuộc nhiều vào
khách hàng, nhất là sau khi cho vay.

-Những dịch vụ này đa dạng, phân
tán rủi ro, tăng cưòng khả năng cạnh
tranh của ngân hàng trên thị trường.

-Dịch vụ ngân hàng hiện đại có tính
tập trung hoá cao thể hiện ở việc tập
trung hoá các tài khoản. Để sử dụng
đựơc nhiều dịch vụ ngân hàng khách
hàng chỉ phải mở một tài khoản tại
ngân hàng. Việc tập trung hoá tài
khoản giúp khách hàng sử dụng dịch

Hiện nay phần lớn các NHTM Việt Nam hoạt động chủ yếu dựa trện các nghiệp vụ
tín dụng là chính, điều đó khiến cho hoạt động ngân hàng gặp nhiều rủi ro, bị động phụ
thuộc vào khách hàng Với xu hướng ngày nay việc phát triển dịchvụ ngân hàng hiện
đại khiến cho danh mục dịch vụ của ngân hàng trở nên đa dạng, thu hút được nhiều
khách hàng, đem lại cho ngân hàng một khoản thu lớn từ chi phí dịch vụ và hoa
hồng từ đó giúp cho ngân hàng phân tán đựơc rủi ro, tăng khả năng cạnh tranh trên thị
trường.
3.2 Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại là một xu thế tất yếu bởi quá trình hội
nhập kinh tế khu vực và toàn cầu hoá cũng như sự tăng giảm môi truờng cạnh tranh
của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay
Cuối thập kỷ 90 của thế kỷ 20 và những năm đầu của thế kỷ 21, kinh tế Việt Nam có
sự chuyển biến sâu sắc, đặc biệt được đánh dấu bởi sự gia nhập kinh tế khu vực và toàn
cầu: đó là việc gia nhập khối ASEAN, APEC, kí kết hiệp định thương mại Việt Mĩ và

sắp tới là tổ chức thương mại thế giới WTO. Các cam kết trong quá trình hội nhập có
ảnh hưởng và tác động tới mọi ngành, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt
là lĩnh vực tài chính ngân hàng, một lĩnh vực nhạy cảm nhất.
Xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập đòi hỏi đáp ứng nhu
cầu về các dịch vụ ngân hàng tài chính ngày càng phong phú hơn, yêu cầu ngân hàng
ngày càng phải cung cấp dịch vụ ngân hàng hiện đại mới có thể đáp ứng được nhu cầu
vê tài chính của cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước trong quá trình phát triển
kinh tế. Mặt khác hiện nay hầu như ngân hàng nào cũng cung cấp các DVNHTT với
những tiện ích khá giống nhau và sự chênh lệch giá cả là không đáng kể, hơn nữa mức
độ rủi ro ở lĩnh vực DVNHTT là rất cao. Vì vậy để tạo vị thế cạnh tranh trên thị trường,
phân tán rủi ro, tăng thu nhập trong hoàn cảnh hiện nay là rất khó khăn. Với các
DVNHHĐ của mình các ngân hàng có thể tạo ra được sự khác biệt với đối thủ cạnh
tranh từ đó có thể thu hút nhiều khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Hơn nữa cùng với quá trình hội nhập là sự tham gia ngày càng nhiều của các tổ chức
tài chính, ngân hàng nước ngoài. Trước đối thủ cạnh tranh vừa mạnh vừa nhiều các
ngân hàng thương mại Việt Nam buộc phải xác định được chỗ đứng của mình đối với

4.1 Nhóm dịch vụ thanh toán
Thanh toán là một khâu trong quá trình chu chuyển vốn . Thanh toán nhanh chóng,
chính xác, an toàn sẽ tạo điều kiện thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn tăng vòng quay
của vốn, giảm lượng tiền cần thiết trong lưu thông, tiết kiệm chi phí cho xã hội …Xét
trên giác độ là khách hàng thì khách hàng chỉ cần quan tâm đến việc ngân hàng cung
cấp những dịch vụ thanh toán gì? Các công cụ thanh toán nào? Chi phí cho một món
thanh toán cao hay thấp hoặc thời gian thanh toán nhanh hay chậm? Còn xét trên giác
độ là ngân hàng thì ngân hàng không chỉ quan tâm đến các vấn đề trên mà còn phải
quan tâm đến việc sẽ thực hiện thanh toán như thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất.
Do đó khi xem xét các dịch vụ thanh toán hiện đại chúng ta sẽ xem xét trên cả
phương diện là các công cụ thanh toán và các phương thức thanh toán .Hiện nay một
điều dễ nhận thấy là cùng với sự bùng nổ của cách mạng khoa học kĩ thuật- công nghệ
và việc ứng dụng các thành tựu kĩ thuật hiện đại vào lĩnh vực thanh toán mà giờ đây bên
cạnh các công cụ,phương thức thanh toán truyền thống đã xuất hiện thêm các công cụ
và phương thức mới hiện đại, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tiết kiệm thời gian và chi phí
cho cả khách hàng lẫn ngân hàng

4.1.1 Các công cụ thanh toán
4.1.1.1 Các công cụ thanh toán truyền thống
Đây là các công cụ thanh toán đã ra đời từ rất lâu, việc sử dụng các công cụ này
mang tính chất thủ công là chính, khách hàng khi muốn sử dụng công cụ thanh toán nào
đều phải đảm bảo những điều kiện do ngân hàng đặt ra, đồng thời phải đến ngân hàng
nơi khách hàng mở tài khoản giao dịch để trực tiếp thực hiện giao dịch với ngân hàng .
Các công cụ thanh toán truyền thống có thể kể đến là:
Thanh toán bằng séc: Là lệnh của chủ tài khoản yêu cầu ngân hàng trích một số tiền
nhất định trên tài khoản của mình để trả cho người thị hưởng có tên trên séc hay ngươì
cầm tờ séc đó. Séc là hình thức lâu đời và được sử dụng rất phổ biến
Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi: Là lệnh chi của chủ tài khoản được lập theo mẫu in
sẵn của ngân hàng , yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tài khoản để trả cho người
thụ hưởng có tài khoản ở cùng một ngân hàng hay khác ngân hàng

*) Thẻ kí quỹ thanh toán: Là loại thẻ áp dụng rộng rãi cho khách hàng . Khách hàng
phải kí gửi tiền vào một tài khoản riêng tại ngân hàng và được sử dụng thẻ có giá trị
thanh toán bằng số tiền kí quỹ ghi trong thẻ đã lưu ký.
*) Thẻ tín dụng: Là loại thẻ vừa được dùng để thanh toán vừa cho vay trong phạm vi
giới hạn thoả thuận giữa bên phát hành thẻ và bên sử dụng thẻ. Đây là hình thức thanh
toán hiện đại, thể hiện sự phát triển của 1 nền khoa học tiên tiến. Vì vậy các loại thẻ
phải được kí hiệu mật mã cẩn thận và khi thanh toán cũng đòi hỏi kiểm tra mật mã và
quy định về an toàn kĩ thuật của ngân hàng
Hiện nay ở Việt Nam đáng chú ý là thẻ ATM, một loại thẻ được sử dụng để rút tiền
tự động và thực hiện một số giao dịch khác tại các máy ATM. Trên thẻ có ghi tên khách
hàng, số hiệu thẻ và một bộ nhớ vi điện tử. Khách hàng được cung cấp một số PIN
riêng. Đây là một công cụ thanh toán hiện đại đem lại rất nhiều lợi ích cho khách hàng
và ngân hàng
Sử dụng các loại thẻ trong thanh toán vừa tiết giảm chi phí, công sức thời gian cho
người bán, người mua, giảm được tỉ lệ thanh toán bằng tiền mặt trong dân cư, đồng thời
nó cũng đòi hỏi công nghệ ngân hàng phải luôn hoàn thiện, trình độ quản lý cao hơn và

phức tạp hơn cũng như quản lý phải chặt chẽ linh hoạt vừa đảm bảo cho ngân hàng vừa
đảm bảo cho khách hàng.
4.1.2. Các phương thức thanh toán
Cùng với sự ra đời của các công cụ thanh toán và trình độ phát triển công nghệ tin
học hiện đại mà các phương thức thanh toán cũng ngày càng trở nên hiện đại và hoàn
thiện hơn, làm tăng quy mô thanh toán và phạm vi thanh toán giữa các ngân hàng
Tuỳ theo trình độ phát triển và đặc điểm tổ chức của các ngân hàng trong từng thời
kỳ mà người tăng quy định và thực hiện các phương thức thanh toán khác nhau. Hiện
nay có các phương thức sau:
1) Thanh toán liên hàng tại các ngân hàng thương mại
2) Thanh toán bù trừ
3) Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nuớc
4) Hai chi nhánh mở tài khoản tiền gửi cho nhau để thanh toán

hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và phát triển( ở
NHĐT&PT gọi là thanh toán tập trung)…Thanh toán liên hàng điện tử đáp ứng yêu cầu
thanh toán nhanh giữa các Ngân hàng trong cùng hệ thống ở các địa phương khác nhau
Thanh toán liên hàng điện tử khác so với thanh toán liên hàng truyền thống ở chỗ:
+ Về tài khoản sử dụng: ở thanh toán liên hàng truyền thống mở nhiều tài khoản
dùng trong thanh toán , nhưng ở thanh toán liên hàng điện tử chỉ mở một tài khoản hạch
toán cả bảng kê đi và bảng kê đến
+ Về phương thức kiểm soát đối chiếu: Liên hàng truyền thống thực hiện kiểm soát
tập trung đối chiếu phân tán, phản ánh và thực hiện quyết toán liên hàng hàng năm. Còn
ở thanh toán liên hàng điện tử như thanh toán tập trung ở ngân hàng ĐT&PT thì tổ
chức kiểm soát tập trung, đối chiếu tập trung và đối chiếu đúng tất cả các bảng kê đi và
đến trong ngày
Thanh toán tập trung qua ngân hàng trung ương thực chất là chuyển tiền điện tử qua
tài khoản tiền gửi của chi nhánh tại trung tâm thanh toán. Trình tự thủ tục hạch toán kế
toán trong thanh toán điện tử giao dịch qua mạng vi tính. Các chi nhánh tham gia thanh

toán phải mở tài khoản tiền gửi tại trung ương để phản ánh các khỏn chuyển tiền đi và
nhận đến qua thanh toán
Chứng từ gốc làm căn cứ để chuyển đổi sang chứng từ điện tử như uỷ nhiệm chi, uỷ
nhiệm thu được lưu lại ngân hàng gửi lệnh. Chứng từ hạch toán trong thanh toán tập
trung được lập bằng máy theo mẫu thống nhất phải có đủ 2 điều kiện là có tính kí hiệu
mật hoặc kiểm tra ký hiệu mật và được mã hoá hoặc giải mã qua đường truyền.
Muốn thực hiện được thanh toán điện tử đòi hỏi chi nhánh tham gia phải có đầy đủ
các điều kiện về kỹ thuật nghiệp vụ như mạng máy vi tính cục bộ, điện dự phòng, khả
năng truyền thông, cán bộ kĩ thuật, cán bộ nghiệp vụ thì qua trình thanh toán mới được
thực hiện
Phương thức này có nhiều ưu điểm là nhanh chóng chính xác, tài khoản hạch toán
giản đơn, quy trình thanh toán chặt chẽ . Mọi khoản chuyển tiền được thực hiện và đối
chiếu ngay trong ngày nên hạn chế tối đa những sai sót xảy ra
b) Thanh toán điện tử liên ngân hàng( TTĐTLNH)

toán giá trị thấp( dưới 500 triệu đồng và lệnh thanh toán thường) và được thực hiện theo
phương thức quyết toán bù trừ theo phiên.Mỗi đơn vị thanh toán phải có đủ số dư trên
tài khoản tiền gửi thanh toán hoặc phải đảm bảo hạn mức nợ ròng theo quy định của
Ngân hàng Nhà nuớc . Những lệnh thanh toán có đủ số dư hoặc đủ hạn mức nợ ròng
được thực hiện và chuyển ngay cho đơn vị thụ hưởng. Việc quyết toán vốn giữa các
ngân hàng thành viên không diễn ra đồng thời cùng lúc lệnh thanh toán, mà nó được
thực hiện vào những thời điểm nhất định bằng phương thức bù trừ để tổng hợp số phải
thu hoặc phải trả cho từng thành viên. Kết quả bù trừ sẽ được hạch toán vào tài khoản
tiền gửi thanh toán của các thành viên tương ứng mở tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà
nuớc
Như vậy với sự ra đời của TTĐTLNH thời gian thanh toán được rút ngắn gấp trăm
lần so với thanh toán thủ công. Về phía khách hàng được hưởng rất nhiều lợi ích từ dịch
vụ này, trong đó có phí dịch vụ thanh toán .Tuy nhiên để cung cấp cho khách hàng
nhiều tiện ích hơn nữa từ dịch vụ thanh toán thì vẫn còn rất nhiều vấn đề đặt ra đối với
ngành ngân hàng và các ngành hữu quan cần giải quyết: đầu tư cơ sở vật chất đồng bộ,
hoàn thiện cơ chế chính sách trong thanh toán ….
4.2 Nhóm dịch vụ ngân hàng điện tử( DVNHĐT)

Ngân hàng điện tử được hiểu là mô hình cho phép khách hàng truy cập từ xa đến
ngân hàng nhằm thu thập thông tin; thực hiện các giao dịch thanh toán, sử dụng các dịch
vụ dựa trên các tài khoản lưu kí tại ngân hàng thông qua các phương tiện điện tử và kĩ
thuật số. Ngân hàng điện tử là dịch vụ ngân hàng dựa trên cơ sở ứng dụng công nghệ
thông tin hiện đại vào tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng . Cơ chế hoạt động của ngân
hàng điện tử mang tính độc lập . ở Việt Nam hiện nay các dịch vụ ngân hàng điện tử
mới xuất hiện đang trong giai đoạn thử nghiệm, tuy nhiên cũng đã có một số những kết
quả nhất định, cho thấy xu hướng phát triển rộng rãi dịch vụ ngân hàng điện tử trong
tương lai. Có thể kể đến 1 số dịch vụ ngân hàng điện tử sau:
4.2.1 DVNHĐT qua hệ thống máy rút tiền tự động( ATM- Automatic Teller Machine)
Đối với các nước phát triển đây không còn là dịch vụ mới nhưng ở Việt Nam dịch vụ
này vẫn còn rất xa lạ với công chúng. Có thể hiểu dịch vụ ATM là các dịch vụ ngân

giữa khách hàng và ngân
hàng bị hạn chế
Các
nhà
bán lẻ
-Tăng cường mối quan hệ với ngân hàng
- Giảm thời gian kiểm tra đối chiếu
- Lưu trữ thông tin về tài khoản nhanh hơn
- Tăng hình ảnh của nhà bán lẻ Các
khách
hàng
-An toàn
- Tiết kiệm thời gian, chi phí
- Thuận tiện
- Các lỗi kĩ thuật có
thể gặp phải
Dịch vụ ATM đã được hầu hết các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam triển khai, và
đã khai thác được một số tiện ích nhất định của dịch vụ này. Từ dịch vụ ATM các ngân
hàng còn triển khai thêm dịch vụ trả lương tự động cho công nhân. Tức là ngân hàng sẽ
thực hiện hợp đồng với các công ty, mở tài khoản cho mỗi công nhân, cung cấp cho mỗi
công nhân một thẻ ATM. Khi đến kì hạch toán lương, các doanh nghiệp sẽ hạch toán rồi
gửi cho ngân hàng . Ngân hàng dựa trên đó, đến ngày sẽ trích tài khoản của công ty rồi
tự động đổ lương vào tài khoản của từng công nhân. Đây là dịch vụ rất thuận tiện cho
doanh nghiệp, như thế doanh nghiệp sẽ tiết kiệm rất nhiều thời gian, chi phí trong việc
trả lương, kiểm đếm, bảo quản tiền mặt mỗi công nhân được giữ bí mật về lương và
thưởng của mình, dộ an toàn cũng cao…
4.2.2 DVNHĐT qua điện thoại( Telephone banking)

bảo mật cao, nếu bảo mật không tốt sẽ tổn hại lớn đối với cả khách hàng và ngân hàng .
5. Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại:
Việc xác địng các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng phát triển dịch vụ ngân hàng hiện
đại là việc rất quan trọng, nó giúp cho các ngân hàng xây dựng đựoc một chính sách
Marketing phù hợp để phát triển các sản phẩm dịch vụ của mình, đặc biệt là các sản
phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại. Các nhân tố có thể kể đến là:

5.1 Nhóm nhân tố ngoài ngân hàng thương mại
Đây là các nhân tố thuộc về môi trường vĩ mô và các nhân tố khác ngoài NHTM

5.1.1. Môi trường kinh tế:
Môi truờng kinh tế trước hết phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế nói chung về cơ cấu
ngành kinh tế, cơ cấu vùng Môi trường kinh tế luôn có tác động mạnh mẽ đến nhu cầu
và cách thức sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng của khách hàng. Tình hình và sự
thay đổi của các yếu tố thuộc môi trường kinh tế có tác động to lớn đến sự thay đổi kinh
tế nói chung và các hoạt động kinh doanh ngân hàng nói riêng, đặc biệt là sự phát triển
của các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Hơn nữa với xu thế quốc tế hoá hiện nay khi tình
hình kinh tế thế giới biến động càng có ảnh hưởng tới hoạt động ngân hàng của từng
quốc gia. Một môi trưòng kinh tế thuận lợi, đang tăng trưởng, các biến số vĩ mô đều có
dấu hiệu tốt sẽ khiến cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng phát triển, từ đó khuyến
khích các ngân hàng thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, cung ứng ngày càng nhiều sản
phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại cho khách hàng. Và sẽ ngược lại đối với một nền kinh
tế kém phát triển, không ổn định.
5.1.2. Môi trưòng khoa học, kỹ thuật công nghệ
Đối với việc phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại thì đây là một yếu tố
rất quan trọng. Bởi lẽ các dịch vụ ngân hàng hiện đại phát triển dựa trên cơ sở trình độ
khoa học công nghệ. Ngân hàng là một ngành rất quan tâm đến việc ứng dụng công
nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh. Ngày nay hoạt động của ngân hàng không thể
tách rời khỏi sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Thực tế công nghệ thông
tin ngày càng phát triển, điều đó cho phép ngân hàng đổi mới không chỉ quy trình
5.1.4. Nhân tố khác
Có thể nói 3 nhân tố trên là những nhân tố vĩ mô có ảnh hưởng quan trọng nhất đến
việc phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại. Tuy nhiên bên cạnh đó khi phát triển dịch vụ
ngân hàng hiện đại các ngân hàng cũng phải chú ý đến các nhân tố khác như: môi
trường dân số, môi trường địa lý, môi trường văn hoá-xã hội,đối thủ cạnh tranh, khách
hàng của ngân hàng , các đơn vị hỗ trợ kinh doanh những nhân tố này cũng có tác
động không nhỏ tới hoạt động cung ứng và phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại của
các ngân hàng thương mại Việt Nam. Bởi lẽ các nhân tố trên cũng có ảnh hưởng to lớn

tới việc hình thành phát triển các kênh phân phối sản phẩm dịch vụ và tác động tới nhu
cầu, tâm lý thói quen của người sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng.
Các nhân tố từ phía khách hàng của ngân hàng: Hoạt động của ngân hàng luôn
theo phương châm “Ngân hàng chỉ cung ứng, chỉ bán, chỉ phục vụ cái mà khách hàng
cần” Vì vậy sự thay đổi nhu cầu của khách hàng là yếu tố quyết định đến sự thay đổi
của chính sách cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng, nhất là trong thời đại ngày nay,
khách hàng là người quyết định đến danh mục các sản phẩm dịch vụ hiện đại mà ngân
hàng cung ứng.
ở Việt Nam nền kinh tế đang trong đà tăng trưởng, phát triển, đời sống người dân
ngày càng được cải thiện nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra sôi nổi. Vì
vậy nhu cầu sử dụng các dịch vụ tài chính ngày càng tăng. Đặc biệt là vào cuối thế kỉ
20, những năm đầu thế kỉ 21 cùng với sự thay đổi của công nghệ ngân hàng mà nhiều
sản phẩm dịch vụ mới với công nghệ hiện đại đã ra đờiđáp ứng nhu cầu của khách
hàng. Ví dụ: Ngân hàng thương mại cổ phần Đông á vừa triển khai hệ thống xếp hàng
điện tử Queue Management System (QMS). Đây là hệ thống xếp hàng tự động và sử
dụng đơn giản mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng; hay các NHTM cùng đồng loại
triển khai hệ thống rút tiền tự động ATM….
Sự gia tăng đối thủ cạnh tranh: Trong hoàn cảnh môi trường cạnh tranh ngày càng
găy gắt đối thủ cạnh tranh ngày càng nhiều ( không chỉ có đối thủ cạnh tranh ở trong


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status