LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước - Pdf 15


LUẬN VĂN:

Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn
thiện pháp luật về trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước


sự giác ngộ về chính trị, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, sự hy sinh phấn đấu vì lý
tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân. Các đồng chí đó phải chịu trách nhiệm
trước khuyết điểm tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong ngành, địa phương, đơn vị
mình. Những cơ quan, đơn vị có sai phạm gây hậu quả nghiêm trọng, thì người đứng
đầu cơ quan, đơn vị đó dù không trực tiếp vi phạm cũng phải chịu trách nhiệm và hình
thức kỷ luật thích hợp”. Văn kiện Đại hội X cũng xác định một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của cải cách hành chính là: "Tiếp tục cải cách mạnh thủ tục hành chính, phân
cấp và làm rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng đơn vị và người
đứng đầu cơ quan"; “Tăng cường trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là thủ trưởng cơ
quan nhà nước. Cơ quan nào vi phạm chính sách, pháp luật, để xảy ra tình trạng tiêu
cực, mất đoàn kết nội bộ thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm”. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khóa X của Đảng về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí tiếp tục nhấn mạnh vai
trò của người đứng đầu: “thực hiện nghiêm quy định về xử lý trách nhiệm người đứng
đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng”. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa X của Đảng về đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước tiếp tục chỉ rõ: “Thủ
trưởng cơ quan hành chính các cấp chịu trách nhiệm kiểm tra, thanh tra việc thực hiện
công vụ và chịu trách nhiệm về những vi phạm trong thực thi công vụ của cán bộ, công
chức thuộc phạm vi mình quản lý”; “Để khắc phục tình trạng quá nhiều cấp phó trong
cơ quan hành chính, trước hết cần tập trung đổi mới phương thức, lề lối làm việc của
các cơ quan; giảm hội họp, phân định rõ trách nhiệm của tập thể và người đứng đầu cơ
quan”.
Thể thể chế hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng về vai trò và trách nhiệm của
người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là NĐĐCCQHCNN, Nhà nước ta đã ban
hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định về nhiệm vụ, quyền hạn; sự phân
công, phân nhiệm, uỷ quyền cũng như trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý,

NĐĐCCQHCNN. Các quy định pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ
quan hành chính được thể hiện ở nhiều văn bản pháp luật có hiệu lực khác nhau, chồng
chéo, nhiều quy định không thống nhất.
- Sự không tương thích giữa quyền hạn và trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN. Về
nguyên tắc thì trách nhiệm của người đứng đầu phải đi đôi với quyền hạn và quyền hạn
phải đủ để thực thi trách nhiệm. Tuy nhiên, theo các quy định hiện nay thì phạm vi thẩm
quyền của người đứng đầu còn hạn chế do còn phụ thuộc vào các nguyên tắc, cơ chế
khác trong tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước (ví dụ như người
đứng đầu chưa có quyền quyết định lựa chọn cấp phó; cấp trên nắm quyền quyết định
về công tác cán bộ tới nhiều chức danh cấp dưới, dẫn tới hạn chế thẩm quyền của cả tập
thể lãnh đạo và người đứng đầu cấp dưới).
- Chưa có sự phân biệt cụ thể về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN so với trách
nhiệm của cán bộ, công chức nói chung và trách nhiệm của người đứng đầu tương ứng
theo từng phạm vi phụ trách với những đặc thù, yêu cầu quản lý khác nhau. Ví dụ như:
trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức, điều hành thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
cơ quan; trách nhiệm trong công tác tổ chức cán bộ; trách nhiệm về các quyết định hành
chính của mình và các quyết định của tập thể; trách nhiệm về quản lý tài sản công; trách
nhiệm trong công tác phòng, chống tham nhũng; trách nhiệm đối với vi phạm pháp luật
xảy ra trong cơ quan, đơn vị thuộc quyền lãnh đạo, quản lý
- Chưa có cơ chế, quy định cụ thể để xác định trách nhiệm và biện pháp xử lý đối
với người đứng đầu khi không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao; thiếu trách
nhiệm trong việc quản lý, điều hành cơ quan Ví dụ như: qua các vụ án tham nhũng được
đưa ra xét xử trong thời gian gần đây, vấn đề xem xét trách nhiệm của người đứng đầu
các cơ quan xảy ra tham nhũng dường như còn mờ nhạt; người đứng đầu dường như vẫn
“đứng ngoài cuộc” hoặc chỉ bị “xử lý nội bộ”, “rút kinh nghiệm nghiêm khắc” do có sự
nể nang, né tránh trong nội bộ cơ quan có vi phạm; do đã uỷ quyền cho cấp phó chịu trách
nhiệm giải quyết, thậm chí có trường hợp do sợ trách nhiệm nên người đứng đầu cố tình

ở nước ta hiện nay, trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước vừa tồn tại cơ chế lãnh đạo tập thể gắn với cá nhân theo hình thức bầu cử và phê
duyệt (UBND và Chủ tịch UBND), vừa có cơ chế thủ trưởng theo hình thức bổ nhiệm
(Bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính Phủ,
giám đốc Sở ở cấp tỉnh). Trên thực tế, trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành
chính nhà nước, cơ chế tập thể và cá nhân cùng chịu trách nhiệm đang bộc lộ nhiều vấn
đề cần được nghiên cứu, mà điểm cần được quan tâm nghiên cứu hiện nay là trách
nhiệm của người đứng đầu và pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN nhằm đảm
bảo hiệu lực hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính và chất lượng của đội ngũ công
chức, trong đó có người đứng đầu đáp ứng yêu cầu đổi mới ở nước ta hiện nay.
Với ý nghĩa quan trọng như vậy, nhưng pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu
các cơ quan hành chính mới được quan tâm và tập trung nghiên cứu trong điều kiện cải
cách hành chính, chuyển từ nền hành chính “ quản lý” sang nền hành chính “phục vụ” ở
nước ta những năm gần đây. Qua các kết quả nghiên cứu cho thấy, phần lớn các công trình
chủ yếu tập trung về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN dưới dạng trách nhiệm pháp lý, các
công trình nghiên cứu về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN trong thực thi nhiệm vụ, công
vụ còn hết sức khiêm tốn. Các công trình khoa học về trách nhiệm của người đứng đầu và
pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN được công bố theo hai nhóm bao gồm các
công trình khoa học trong nước và các công trình khoa học nước ngoài:
a. Các công trình khoa học trong nước
- Các bài báo:
Vấn đề cải cách hành chính trong đó có hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của
NĐĐCCQHCNN đã và đang được các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học và
đông đảo quần chúng nhân dân quan tâm, có nhiều bài báo, diễn đàn về vấn đề này được
đăng tải trên các báo như Tiền phong, Lao Động,Vietnamnet, Tuoitre online, Thanhnien
online, Dantri Online… Cụ thể như sau:
+ Võ Văn Thành: “Cần đề cao trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong giải

của công chức lãnh đạo.
+ Bài “ Về trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà
nước” của Nguyễn Ký, Tạp chí Cộng sản tháng 9 năm 2006 đã đề cập đến vị trí, vai trò
và một số nội dung về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính. Đồng
thời bài viết cũng đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm người
đứng đầu các cơ quan hành chính là một trong những giải pháp đồng bộ trong cải cách
hành chính ở nước ta hiện nay.
+ Bài: “Nghĩ về trách nhiệm của người đứng đầu ” của Diệp Văn Sơn, Tạp chí Tia
sáng tháng 12 năm 2006; bài “ Về trách nhiệm người đứng đầu trong công tác cán bộ”
Tạp chí Xây dựng Đảng;
+ Bài: “Nhân tố quan trọng hàng đầu để ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí
đó là người đứng đầu” của Vũ Ngọc Lân. Website: http:// www.xaydungdang. org.vn;
bài: “ Tập trung dân chủ trong công tác cán bộ - Nhận thức và sự vận dụng” của
Nguyễn Thế Tư, Website: http:// www.thanhtra.gov.vn. Trong đó đề cập: “Nên chăng,
cần có quy định người đứng đầu các tổ chức của HTCT phải chịu trách nhiệm về giới
thiệu cán bộ vào các chức danh chủ chốt, để ràng buộc trách nhiệm về sự giới thiệu của
mình. Nếu cán bộ được đề bạt đó không phát huy được vai trò, thậm chí thoái hóa biến
chất, vi phạm pháp luật thì người giới thiệu phải chịu trách nhiệm liên đới.”
+ Bài: “Thủ tướng trong các chính thể” Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4/2001
của TS Nguyễn Đăng Dung.
+ Bài: “Trách nhiệm cá nhân Thủ tướng, quan hệ Thủ tướng và các thành viên Chính
phủ” Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số1/2003 của TS Phạm Tuấn Khải.
+ Bài: “Xác định chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ khi
sửa đổi Luật tổ chức Chính phủ” Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7/2007 của Nguyễn
Phước Thọ.
+ Kỷ yếu hội thảo quốc tế: “ Quản lý công chức của một số nước trên thế giới xu
hướng và bài học kinh nghiệm” do Bộ Nội Vụ và Ngân hàng Châu á tổ chức tại Hạ
Long ngày 15 -16 tháng 6/2006. Các báo cáo tham luận của các chuyên gia trong nước
và nước ngoài tập trung vào các chủ đề: Các xu hướng quản lý công chức trên thế giới


tham nhũng, các giải pháp thực hiện cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính
trong sạch, trong đó nhấn mạnh yêu cầu phân rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
hành chính nhà nước, đòi hỏi phải phân cấp mạnh hơn, làm rõ trách nhiệm của người
đứng đầu, cán bộ, công chức; công khai thẩm quyền, trách nhiệm cơ quan, thẩm quyền
trách nhiệm của cán bộ, công chức.
- Sách:
Các công trình được biên soạn dưới dạng sách tham khảo trong đó có đề cập tới
trách nhiệm NĐĐCCQHCNN và pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN:
+ Sách: “Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta
hiện nay” do Đào Trí úc, Võ Khánh Vinh đồng chủ biên (Nhà xuất bản Công an nhân
dân, Hà Nội 2003).Cuốn sách đề cập tới những vấn đề chung về giám sát và giám sát bộ
máy nhà nước, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở một số nước trên thế giới.
Trong đó dành một phần về kiểm tra, thanh tra của Chính phủ và các cơ quan hành
chính nhà nước (trang 360 - 386) với các bài viết: “Kiểm soát việc thực hiện thẩm
quyền hành chính nhà nước” của tác giả Đinh Văn Mậu; bài: “Tăng cường hoạt động
kiểm tra, thanh tra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính Phủ” của tác giả Phạm
Tuấn Khải. Các bài viết này đều đề cập tới trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan
hành chính.
+ Sách dịch: “Luật hành chính một số nước trên thế giới” người dịch TS Phạm
Văn Lợi và TS Hoàng Thị Ngân (Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2004). Đây là cuốn
sách giới thiệu về Luật hành chính của Cộng hòa Pháp, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ,
Vương quốc Anh, Italia (299 trang). Trong đó đáng chú ý là dưới góc độ so sánh, cho
thấy điểm chung giữa luật hành chính Việt Nam và các nước là nhấn mạnh đòi hỏi về
tính hợp pháp của hoạt động hành chính; chế độ trách nhiệm của các chủ thể tiến hành
công vụ; đề cao nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động hành chính; tính đơn
giản, dễ dàng truy cập của thủ tục hành chính; bảo đảm các quyền của công dân. Từ đó
vấn đề trách nhiệm của công chức lãnh đạo cũng được đề cập tới trong nội dung cuốn

- Các đề tài khoa học:
Các công trình nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp lý, khoa học quản lý, khoa học
tổ chức, tổ chức nhà nước, khoa học chính trị, khoa học xã hội nhân văn đều có đề cập tới
trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN và pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN có
thể kể đến các đề tài cấp nhà nước, cấp bộ có một số đề tài tiêu biểu như:
+ Đề tài: “Nghiên cứu cơ sở khoa học hoàn thiện chế độ công vụ ở Việt Nam”
đề tài cấp nhà nước do Bộ Nội Vụ chủ trì (Mã số ĐTĐL - 2004/25). Đây là đề tài
phục vụ cho việc xây dựng Dự án Luật Cán bộ, công chức, nghiên cứu chế độ công
vụ một số nước trên thế giới và có báo cáo đánh giá thể chế quản lý cán bộ, công
chức Việt Nam. Dự án Luật có một số quy định riêng về trách nhiệm người đứng
đầu cơ quan tổ chức.
+ Đề tài: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân” thuộc chương trình cấp nhà nước KX - 04"
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân” do Viện Khoa học xã
hội Việt Nam chủ trì, nghiệm thu năm 2005.
+ Đề tài: “Lý thuyết về khoa học và nghệ thuật lãnh đạo” Do Bộ Nội Vụ chủ trì, TS
Chu Văn Thành làm chủ nhiệm nghiệm thu năm 2004. Trong báo cáo tổng hợp nghiên cứu
312 trang, 10 chương, trong đó chương 2 từ trang 33- trang 64 và một số chương khác đề
cập tới thể chế lãnh đạo trong lịch sử và đương đại.
+ Đề tài: “Trách nhiệm bồi thường nhà nước” Do Bộ Tư Pháp chủ trì, nghiệm thu
2007 trong đó có các công trình, bài viết, báo cáo tổng kết thi hành pháp luật về BTTH
do cán bộ, công chức gây ra khi thi hành nhiệm vụ, công vụ; báo cáo tổng hợp kinh
nghiệm nước ngoài về pháp luật bồi thường nhà nước.
b. Các công trình khoa học nước ngoài
Bên cạnh các bài viết của Việt Nam có nhiều công trình của các nhà khoa học
nước ngoài nghiên cứu có liên quan tới trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN và pháp luật
về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN:

Công trình này sẽ là đề tài khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách cơ bản về hoàn
thiện pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN từ thực tiễn Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Cung cấp những luận chứng, luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về
trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng, tìm ra nguyên nhân về hạn chế, bất cập của pháp luật về trách
nhiệm của NĐĐCCQHCNN Việt Nam.
- Luận chứng định hướng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách
nhiệm của NĐĐCCQHCNN Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử, để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu đề tài, đề tài sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, lôgic, lịch sử: Phương pháp này cho phép đi
sâu phân tích các loại hình trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà
nước; tiêu chí hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan này;
thậm chí là cả hệ thống các quy định pháp luật trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN
hiện nay.
- Phương pháp so sánh: So sánh mô hình, nội dung pháp luật; các giải pháp
hoàn thiện và thực hiện pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN của một số
nước trong khu vực, thế giới Từ đó, tìm kiếm những giá trị tham khảo cho nghiên
cứu xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN ở Việt
Nam.
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này cho phép nhận rõ kết quả ban hành và
những nội dung điều chỉnh của pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN. Từ đó
tìm ra được những "lỗ hổng" của pháp luật trong lĩnh vực này.
Một số phương pháp liên ngành và chuyên ngành khác: khoa học quản lý, khoa

Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước và
những vấn đề đặt ra.
Nội dung phần này gồm:
- Nghiên cứu đánh giá hệ thống pháp luật về trách nhiệm người đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước qua các giai đoạn.
- Nghiên cứu thực trạng điều chỉnh pháp luật về trách nhiệm người đứng đầu cơ
quan hành chính nhà nước theo pháp luật hiện hành.
- Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân ưu điểm hạn chế của pháp luật hiện
hành về trách nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước. Từ đó xác định
những vấn đề đặt ra cần tiếp tục hoàn thiện bổ sung.
Phần thứ ba
Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật trách nhiệm của người đứng đầu cơ
quan hành chính nhà nước Việt Nam hiện nay.
Nội dung phần này gồm:
- Nghiên cứu đề xuất các quan điểm hoàn thiện pháp luật và trách nhiệm người
đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước.
- Nghiên cứu đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm người
đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước gồm có:
+ Nhóm giải pháp hoàn thiện về pháp luật
+ Nhóm giải pháp về hình thức
+ Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện.
5.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
+ Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu trách nhiệm của người đứng đầu và pháp luật về
trách nhiệm người đứng đầu trong các cơ quan hành chính nhà nước gồm Chính phủ và
cơ quan hành chính nhà nước ở chính quyền địa phương.
+ Đánh giá pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu chủ yếu tập trung giai
đoạn từ sau khi ban hành Hiến pháp năm 1992 đến nay.

Phần thứ nhất


Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, trách nhiệm của người đứng đầu
các cơ quan hành chính được đề cao. Tính chủ đạo của NĐĐCCQHCNN thể hiện ở vai
trò chi phối, vai trò chủ đạo của NĐĐCCQHCNN trong hoạt động quản lý điều hành cơ
quan, đơn vị thực hiện chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định. Tính chủ đạo của
người đứng đầu thể hiện ở hai góc độ cơ bản sau:
Trước hết, người đứng đầu các cơ quan hành chính là người ra các quyết định và
chịu trách nhiệm về các quyết định quản lý của mình. Ra quyết định là chức năng cơ
bản nhất trong hoạt động quản lý, chỉ khi người đứng đầu đưa ra được những quyết định
khoa học thì mới có thể triển khai hoạt động quản lý có hiệu quả.
Tiếp đến, NĐĐCCQHCNN là người tổ chức và là người chỉ huy việc thực thi các
quyết định quản lý. NĐĐCCQHCNN chỉ đạo và lựa chọn những biện pháp và phương
pháp quản lý chính xác mới làm cho những quyết định quản lý của tập thể lãnh đạo và
của cá nhân người đứng đầu cơ quan hành chính được thực hiện một cách có hiệu quả
trên thực tế. Xuất phát từ chức năng quản lý hành chính nhà nước, có thể thấy người
đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước có vai trò chủ đạo - “nhạc trưởng” trong hoạt
động quản lý hành chính nhà nước.
Ba là, tính phân cấp, thứ bậc của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước.
Để thực hiện được chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội, hệ thống hành chính nhà nước của hầu hết các nước trên thế giới đều
mang tính thứ bậc, cấp trên cấp dưới và có sự phân công phân cấp phù hợp với yêu cầu
quản lý hành chính nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Vì vậy đặc trưng
tính phân cấp của người đứng đầu cơ quan hành chính được biểu hiện thông qua hệ
thống các cấp độ trong hoạt động lãnh đạo quản lý. Ví dụ ở Việt Nam Thủ tướng là
người đứng đầu Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc Hội, Chủ tịch nước, ủy ban
Thường vụ Quốc hội về nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp, Luật tổ chức Chính phủ
quy định. Bộ trưởng là người đứng đầu cơ quan Bộ, chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt
động của Bộ, ngành được phân công phụ trách.

máy nhà nước mỗi một quốc gia.
Bộ máy hành chính Nhà nước ở mọi quốc gia nói chung bao gồm các cơ quan, ở
trung ương là Chính phủ, các Bộ và các cơ cấu khác thuộc Chính phủ; ở địa phương là
ủy ban (hội đồng) hành chính các cấp và các cơ quan chuyên môn trực thuộc. Việc tổ
chức bộ máy hành chính nhà nước và lựa chọn chế độ lãnh đạo tập thể hay cá nhân,
hoặc cả hai ở từng cấp hành chính tùy thuộc vào việc xác định chức năng, nhiệm vụ
của bộ máy hành chính nhà nước trong mối quan hệ với các yếu tố như: kinh tế thị
trường, nhà nước pháp quyền, dân chủ, hệ tư tưởng, lý thuyết, khoa học về quản lý
Bộ máy hành chính ở các nước dù được tổ chức như thế nào thì vẫn có điểm chung
đó là một hệ thống với thứ bậc chặt chẽ, những cũng rất đa dạng. Khi nói tới mô hình tổ
chức bộ máy hành chính nhà nước, người ta thường nói tới cách thức tổ chức chính
phủ
1
. Từ đó, cùng với chính phủ, các cơ quan hành chính nhà nước ở các đơn vị hành
chính được hình thành và tạo thành một hệ thống chặt chẽ, thứ bậc từ trung ương đến
địa phương theo các nguyên tắc nhất định như: nguyên tắc tập quyền, nguyên tắc phân
quyền.
Tùy thuộc vào mô hình tổ chức hành chính với những đặc thù riêng, chế độ trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính cũng có những khác biệt; tuy nhiên, theo
xu thế hiện nay, các nước có nền hành chính phát triển đều đề cao trách nhiệm của
NĐĐCCQHCNN.
ở Việt Nam, vị trí của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cũng có
những bước phát triển phù hợp với từng giai đoạn lịch sử của đất nước. Bộ máy nhà
nước ta được tổ chức và hoạt động dựa trên nguyên tắc: Quyền lực nhà nước thống nhất
thuộc về nhân dân, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Tổ chức hoạt động của bộ máy hành chính cũng bảo đảm
tuân thủ nguyên tắc đó. Vị trí của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước được

Nghiên cứu vai trò NĐĐCCQHCNN, trước hết hàm chứa đầy đủ vai trò của người
quản lý nói chung. Vai trò này thường được thể hiện:
Một là, nhóm vai trò quan hệ với con người:
Nhóm vai trò quan hệ với con người bao gồm:
- Khả năng phát triển và duy trì mối quan hệ với người khác một cách hiệu quả;
- Vai trò đại diện gắn liền với vị trí trong sự phân cấp quản trị;
- Vai trò lãnh đạo đòi hỏi việc xây dựng mối quan hệ với cộng sự, tiếp xúc và thúc
đẩy họ làm việc;
- Vai trò liên hệ tập trung vào việc duy trì mối quan hệ cả bên trong và bên ngoài
tổ chức;
- Vai trò quan hệ với con người giúp các nhà quản trị xây dựng mạng lưới làm việc
cần thiết để thực hiện các vai trò quan trọng khác.
Hai là, nhóm vai trò thông tin:
- Vai trò thông tin gắn liền với việc tiếp nhận thông tin và truyền đạt thông tin sao
cho nhà quản trị thể hiện là trung tâm đầu não của tổ chức.
- Vai trò thu thập thông tin là nắm bắt thông tin cả bên trong và bên ngoài doanh
nghiệp.
- Vai trò truyền đạt hoạt động theo 2 cách:
+ Thứ nhất, nhà quản lý truyền đạt những thông tin tiếp nhận được từ bên ngoài
đến các thành viên trong nội bộ doanh nghiệp, những người có thể sử dụng những thông
tin này;
+ Thứ hai, nhà quản lý giúp truyền đạt những thông tin từ cấp dưới này đến cấp
thấp hơn hoặc đến các thành viên khác trong tổ chức, những người có thể sử dụng thông
tin một cách hiệu quả nhất.
Trong khi vai trò truyền đạt cung cấp thông tin cho nội bộ thì vai trò phát ngôn phổ
biến thông tin cho bên ngoài về những vấn đề như kế hoạch, chính sách, kết quả hoạt
động của tổ chức. Do đó, nhà quản lý tìm kiếm thông tin trong vai trò giám sát, truyền

trong khi đó lại quên mất vai trò chính là việc tổ chức, điều hành thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan.
Chúng ta cũng thấy, hiện nay ở một số bộ, người đứng đầu đang làm chưa đúng
việc của mình. Bộ trưởng - nhà chính trị, lãnh đạo cao nhất của một bộ, đáng lẽ phải tập
trung làm cho tốt việc tạo lập và chia sẻ tầm nhìn, đề ra phương hướng hoạt động, phát
triển chiến lược, đảm bảo sự tương thích giữa các vai trò và nguồn lực, tạo động lực và
khuyến khích cấp dưới, song dường như lại đầu tư nhiều tâm sức vào quản lý như xây
dựng chương trình, lập kế hoạch, dự toán ngân sách Đây là nhiệm vụ của cấp thứ
trưởng - nhà hành chính, để bộ trưởng toàn tâm cho vai trò lãnh đạo.
- Vai trò ra các quyết định hành chính và chịu trách nhiệm về các quyết định
hành chính của mình và các quyết định của tập thể lãnh đạo.
Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước bất kỳ theo cơ chế bầu cử hoặc bổ
nhiệm, bất kỳ ở trung ương hoặc địa phương cũng đều có thẩm quyền đưa ra những
quyết định hành chính để thực hiện nhiệm vụ được giao. ở nước ta các cơ quan hành
chính nhà nước bao gồm: các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương (Chính phủ,
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ) và các cơ quan hành chính nhà nước
ở địa phương (UBND các cấp, Sở, Phòng, Ban). Các cơ quan Chính phủ, UBND các
cấp hoạt động theo nguyên tắc kết hợp chế độ tập thể và cá nhân người đứng đầu. Luật
tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức HĐND, UBND đã quy định những nhiệm vụ phải được
thảo luận tập thể, và khi đã nói đến quyết định tập thể có nghĩa là quyết định đó đúng,
sai thì cả tập thể phải chịu trách nhiệm, nhưng người đứng đầu vẫn phải chịu trách
nhiệm chính và trước hết. Điều này thể hiện: nội dung và chất lượng các nghị quyết của
tập thể lệ thuộc vào mấy yếu tố: có được thông tin đầy đủ, chính xác về các vấn đề cần
bàn và quyết định; có đủ thời gian thảo luận và gợi ý tranh luận những vấn đề trọng tâm,
những vấn đề còn có ý kiến khác nhau; thái độ người chủ trì có thực sự tôn trọng, lắng
nghe và tạo không khí cởi mở để mọi người nói hết ý kiến của mình, nhất là những ý
kiến không đồng nhất với ý kiến người đứng đầu; phân tích và gợi mở những vấn đề cần

giao phó.
Trong khoa học pháp lý, trách nhiệm pháp lý cũng được hiểu dưới hai góc độ:
Trách nhiệm theo nghĩa tích cực thể hiện trong việc thực hiện đúng, đầy đủ quyền và
nghĩa vụ được pháp luật quy định; chủ thể trách nhiệm thực hiện chức trách, công việc
được giao với thái độ tích cực thực hiện nhiệm vụ công vụ được giao phó. Theo nghĩa
tiêu cực là hậu quả bất lợi mà cá nhân hoặc tổ chức phải gánh chịu khi không thực hiện
đúng quyền và nghĩa vụ được giao phó, tức là khi vi phạm “trách nhiệm” theo nghĩa tích
cực, thực hiện vi phạm pháp luật.
Từ quan niệm chung về trách nhiệm như trên, trách nhiệm của người đứng đầu cơ
quan hành chính nhà nước được hiểu theo cả hai giác độ: tích cực và tiêu cực. Người
đứng đầu cơ quan hành chính là người được giao nhiệm vụ quản lý về mọi mặt công tác
của cơ quan, đơn vị được thể hiện trong các quy định về nhiệm vụ quyền hạn do pháp
luật quy định đối với từng cấp, từng ngành, lĩnh vực được phân công quản lý vì vậy
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính là toàn bộ các quy định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà nhà nước giao cho người đứng đầu các cơ quan đó.
Trường hợp vi phạm - không thực hiện hoặc thực hiện không đúng chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn được giao sẽ bị xử lý tùy theo tính chất, mức độ vi phạm (hiểu theo nghĩa
tiêu cực)
Bộ máy hành chính nhà nước ở mọi quốc gia nói chung không thể vận hành, nếu
thiếu những người điều khiển của nó là đội ngũ công chức. Thông qua hoạt động công
vụ của đội ngũ công chức, chức năng quản lý nhà nước được thực hiện. Công chức hành
chính nhà nước là lực lượng chủ yếu, trực tiếp và có tính chất quyết định trong việc vận
hành nền hành chính nhà nước cũng như thúc đẩy sự phát triển các mặt của đời sống xã
hội. Chính vì vậy hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều chú trọng đến việc xây
dựng đội ngũ công chức hành chính có đủ năng lực và hoạt động chuyên nghiệp, đặc
biệt là công chức lãnh đạo - người đứng đầu các cơ quan hành chính. Các quốc gia trên
thế giới đều quy định rõ trách nhiệm của công chức trong thực thi công vụ, trong đó có
trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN theo nghĩa đầy đủ đó là toàn bộ các quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của người đứng đầu cơ quan hành chính; trường hợp vi


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status