tìm hiểu quy trình kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cua xanh (scylla paramamosain estampador, 1949) tại khu sản xuất giống thủy sản bình kiến thuộc sở nông nghiệp và ptnt phú yên - Pdf 15



i
LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực tập ngoài sự nỗ lực bản thân tôi đã nhận được sự giúp đỡ
tận tình của các cá nhân và cơ quan đoàn thể. Qua đây tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
chân thành tới:
Ths.Trương Thị Bích Hồng và Th.s Nguyễn Minh Phát đã giúp tôi định hướng
nghiên cứu và hướng dẫn tôi trong quá trình thực tập.
Cảm ơn K.s Nguyễn Thanh Tùng, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ để tôi
thực hiện đề tài và hoàn thành bài luận văn này.
Xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trong khoa Nuôi trồng thủy
sản, trường Đại Học Nha Trang đã dạy dỗ và giúp đỡ tôi trong những năm học vừa
qua. Xin cảm ơn thư viện trường Đại Học Nha Trang đã tạo điều kiện cho tôi mượn
tài liệu tham khảo.
Tôi xin cảm ơn đến bạn bè, các anh chị, những người đã luôn bên cạnh tôi,
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn tốt nghiệp nay.
Cuối cùng, tôi xin dành sự biết ơn đặc biệt đến gia đình và người thân đã luôn
động viên cổ vũ cho tôi vượt qua mọi khó khăn trong suốt quá trình học tập.

Nha trang, tháng 6 năm 2012
Sinh viên: Trần Thị Lưu

1

MỞ ĐẦU
Nuôi trồng thủy sản đã và đang được xem là một trong những ngành kinh tế
mũi nhọn để phát triển nền kinh tế đất nước. Với tiềm năng lớn về đất đai, diện tích
mặt nước và lao động, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy
sản đặc biệt là hải sản. Trong những năm gần đây do nguồn lợi thủy sản ngày càng
cạn kiệt do đánh bắt. Do đó việc mở rộng phát triển nuôi trồng thủy sản là một trong
những hướng phát triển để nâng cao chất lượng thực phẩm cho con người.
Với chiều dài bờ biển 189 km và nhiều đầm, vịnh, vùng cửa sông nên nuôi
trồng thuỷ sản tỉnh Phú Yên đã xác định một trong những ngành kinh tế mũi nhọn,
mang lại thu nhập đáng kể cho nông - ngư dân vùng ven biển, góp phần xoá được
đói, giảm được nghèo và nhiều hộ vươn lên làm giàu.
Để duy trì sự phát triển một cách bền vững, bên cạnh những chính sách phát
triển nhằm đa dạng hoá đối tượng nuôi, trong đó có sản xuất cua giống với mục
đích nhằm làm giảm gánh nặng về sản xuất giống và nuôi tôm sú nhiều năm thua lỗ.
Cua biển là loại hải sản có kích thước lớn, hàm lượng đạm rất cao, nhu cầu
xuất khẩu và tiêu thụ nội địa ngày càng nhiều. Chúng sống ở vùng cửa sông, rừng
ngập mặn và phân bố ở biển Ấn Độ - Thái Bình Dương là đối tượng nuôi có giá trị
kinh tế cao ở nhiều nước. Ở Việt Nam trong những năm qua nghề nuôi cua thương
phẩm phát triển rất mạnh nhưng chủ yếu các tỉnh Nam bộ. Khó khăn của nghề nuôi
cua hiện nay là vấn đề giải quyết con giống. Nguồn cua giống cung cấp cho các mô
hình nuôi cua từ trước đến nay chủ yếu khai thác từ tự nhiên. Tuy nhiên, nguồn
giống từ tự nhiên biến động theo mùa vụ, kích thước không đồng đều, trộn lẫn
nhiều loại với nhau nên khó đáp ứng được yêu về chất lượng cho các mô hình nuôi
cua thương phẩm. Mặt khác do bị khai thác quá mức nên nguồn lợi cua tự nhiên
đang có chiều hướng suy giảm.
Để giải quyết vấn đề cua giống cung cấp cho nghề nuôi, năm 1998 Trung tâm
Nghiên cứu Thủy sản III (nay là Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III) và một

3

PHẦN 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm sinh học cua xanh
1.1.1. Đặc điểm phân loại
Theo Bowman và Abele, 1982, cua xanh (Scylla) có 4 loài: S. serrata, S.
tranquebarica, S. olivacea, S. paramamosain có hệ thống phân loại như sau:
Ngành: Athropoda (Chân khớp)
Phụ ngành: Crustacea (Giáp xác)
Lớp: Malacostraca
Bộ: Decapoda Latreille 1803
Họ cua bơi: Portunidae Rafinesque 1815
Giống: Scylla de Haan 1833
Loài: S. paramamosain (Estampador 1949)

Các loài cua Scylla còn được gọi là cua bùn, cua xanh và cua sú, đây là các
loài giáp xác sống ở vùng cửa sông hoặc vùng biển. Cua xanh phân bố ở các vùng
biển nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới như: Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore,
Philippin, Nam Phi, Ấn Độ [2],[4],[13].
1.1.2. Đặc điểm hình thái cấu tạo Hình 1.1: Hình thái cua biển (scylla paramamosain) 4

Loài cua biển Scylla paramamosain có kích thước tương đối lớn có thể
đạt được trọng lượng 2kg. Cua có màu xanh lục hoặc màu vàng sẫm, mặt bụng
thường có màu sáng hơn mặt lưng, cơ thể cua dẹp theo hướng lưng bụng và

Vòng đời cua xanh trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có tập tính sống
khác nhau. Giai đoạn phôi được cua mẹ mang trứng, phôi phát triển ở vùng ven bờ.
Ấu trùng Zoea và Megalop sống trôi nổi nhờ dòng nước đưa vào ven bờ, ấu trùng
Zoea nở ra là bơi lội và có tính hướng quang mạnh, ấu trùng Megalope bơi lội
nhanh nhẹn, trước khi biến thái thành cua bột (khoảng 2 ngày) thường sống bám
trên những giá thể hoặc những chất nền như tảo ở đáy biển. Cua con bắt đầu sống
bò trên đáy và lớn dần có tập tính đào hang hay chui rúc vào các gốc cây, bụi rậm
đồng thời với việc chuyển từ đời sống ở môi trường nước mặn sang nước lợ, thường
ở các rừng ngập mặn, vùng cửa sông hay tập trung ở các bãi trung triều
[2],[3],[8],[13]. Với tập tính sống như vậy là một trong những điều kiện để nghiên
cứu về giá thể bám cho ấu trùng trong điều kiện sản xuất nhân tạo. Cua sắp trưởng
thành di cư vào vùng trung triều để kiếm mồi lúc triều cao và trở lại vùng hạ triều
khi triều thấp, tuy nhiên cua trưởng thành hầu như chỉ thấy ở vùng hạ triều
[4],[8],[11]. Đến giai đoạn thành thục sinh dục cua di cư ra vùng gần bờ để sinh sản
rồi tiếp tục lặp lại vòng đời. 6

Ấu trùng Zoea thích hợp với nồng độ muối từ 25 - 30‰, cua con và cua
trưởng thành thích nghi và phát triển tốt trong phạm vi 2 - 38‰, tuy nhiên trong
thời kỳ đẻ trứng đòi hỏi độ mặn từ 22 - 32‰ [2],[3],[5],[8]. Những đặc tính sinh
học cua xanh rất phù hợp với điều kiện lý tưởng ở khu vực miền Trung.
Cua sống ở vùng nước lợ có độ pH trong khoảng 7,5 - 9,2, thích hợp nhất là
từ 7,5 - 8,8, tuy nhiên cua có thể chịu đựng được trong nước có độ pH thấp hơn 6,5.
Cua có khả năng thích ứng cao với sự thay đổi độ mặn trong môi trường nước, cũng
có thể sống trong vùng gần như ngọt cho đến độ mặn trên 33‰ [6], [8].
Ở Việt Nam cua biển Scylla paramamosain phân bố rất rộng và ở những
vùng vĩ tuyến cao, cua chịu đựng nhiệt độ nước thấp rất tốt. Ở vùng biển phía Nam
nước ta cua biển thích nghi với nhiệt độ nước từ 25 - 29

vết nứt lớn ra, khối đầu ngực lộ ra ngoài, bụng co lại phía sau, các chân cử động
co về giữa, đôi chân bơi thoát ra ngoài, sau đến phần bụng và chân càng được lột
ra sau cùng. Cua không chỉ lột vỏ ngoài mà vỏ cũ của dạ dày, mang, ruột…cũng
được lột đi [11].
Sự lột xác diễn ra trong khoảng 30 - 60 phút, lớp vỏ trong biến thành lớp vỏ
ngoài còn nhăn nheo sau đó mới dần dần căng ra. Cua mới lột xác yếu không ăn,
không có khả năng tự vệ, nằm ở đáy 2 - 3 giờ mới trở lại bình thường và sau 1 - 2
ngày vỏ mới cứng lại. Trong thời gian lột xác, cua thường bị kẻ thù tấn công rất dễ
tử vong, sau mỗi lần lột xác cua tăng trọng lượng từ 40 - 80% [3],[11].
1.1.6. Đặc điểm sinh sản
1.1.6.1. Di cư sinh sản và mùa vụ sinh sản
 Di cư sinh sản
Cua sống và sinh trưởng ở các vùng rừng ngập nước lợ, trước mùa sinh sản
di cư ra vùng biển ven bờ, lột xác tiền giao vĩ. Cua cái tiến hành giao vĩ sau đó
tuyến sinh dục tiếp tục phát triển cho đến lúc trứng chín, đẻ trứng, ấp phôi, ấu trùng
nở ra khỏi vỏ trứng rời cua mẹ kết thúc quá trình sinh sản.
Ở những vùng khác nhau có điều kiện môi trường khác nhau thì mùa di cư
khác nhau. Vùng biển phía Bắc thì gặp cua ôm trứng nhiều vào tháng 4, 5, 6, 7, các
tỉnh duyên hải Nam Trung bộ thường bắt gặp cua ôm trứng từ tháng 4 đến tháng 10.
Ở vùng biển phía Nam nước ta cua thường bắt đầu di cư vào tháng 7, 8 và mùa sinh
sản thường bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 1, 2 năm sau. Tuy vậy, cũng có thể bắt
gặp cua ôm trứng sớm hơn [6]. 8

 Mùa vụ sinh sản
Tại Việt Nam, thời gian sinh sản khác nhau tùy vào từng vùng khác nhau.
Ở vùng biển phía Bắc Việt Nam, mùa đẻ trứng của cua xanh tập trung từ tháng 4
đến tháng 7. Khu vực các tỉnh Nam Trung Bộ Việt Nam, nhiệt độ trung bình

Philippine
Thái Lan
Việt Nam
India
South Africa
9,2
9,0
8,5
9,3
10,0
9,7
13,7
5
o
N
6
o
S
8
o
N
12
o
N
22
o
N – 8
o
S
13

Cua cái sau khi nhận túi tinh, tế bào trứng tiếp tục sinh trưởng khi chín muồi
tuyến sinh dục, bắt đầu đẻ trứng và thụ tinh. Khi đẻ trứng cua cái nằm ở đáy, trứng đẻ 10
ra được chứa trong phần bụng con cái, trứng có 2 lớp màng: Màng ngoài hút nước
trương lên, giữa 2 lớp màng có niêm dịch, nhờ cử động của phần bụng, trứng bám trên
lông tơ của chân bụng, kéo dài ra thành “cuống trứng”, làm cho trứng tuy dính vào
lông tơ của chân bụng nhưng vẫn “tự do” mà trứng không dính lại với nhau [5],[13].
Số lượng trứng của cua cái đẻ rất lớn, một con cái có trọng lượng 300 gram có
thể đẻ và mang trên 1 triệu trứng. Trứng được cua mẹ ôm và ấp cho đến lúc thành ấu
trùng Zoea. Trứng mới đẻ ra có màu vàng tươi, sau khi đẻ 1 giờ tất cả trứng được thụ
tinh sẽ bắt đầu phân cắt. Ở điều kiện nhiệt độ nước 28 – 30
o
C, độ mặn 28 – 33 ppt, pH
từ 7 – 8,5 thì quá trình phát triển diễn ra bình thường. Sự phân cắt diễn ra như sau:
Sự phân cắt và phôi vị hoá đều xảy ra trong 5 ngày đầu, khi trứng ngã sang màu
xám thì bắt đầu xuất hiện mầm chân mắt. Lúc đầu mắt có dạng mảnh dài, màu sáng,
đối xứng hai bên, xung quanh xuất hiện các đốm hình sao và cuối cùng hình thành đôi
mắt kép màu đen [7],[8].
Ấu trùng phá màng vỏ chui ra ngoài bước vào thời kỳ ấu trùng Zoea, gặp điều
kiện thuận lợi cua ấp trứng tốt, phôi phát triển đồng đều ấu trùng nở ra đồng loạt và
thường từ 3 - 6 giờ ấu trùng nở xong thì kết thúc quá trình sinh sản.
Bảng 1.2 : Tóm tắt quá trình phát triển phôi cua biển [1],[3]
Quá trình phát triển Màu sắc – kích thước
Sau 1 giờ trứng bắt đầu phân cắt Vàng da cam (270µm )
Quá trình phôi vị sau 5 – 7 ngày Vàng xám (320µm)
Xuất hiện điểm mắt sau 7 ngày Xám vàng nâu (390µm)
Xuất hiện nhịp tim sau 10 ngày Xám đen (480µm)
Xuất hiện đày đủ các phần phụ, nhịp tim

1 - 4 lông ngắn, nhánh ngoài của chân hàm II
mang 12 lông dài và 2 - 3 lông ngắn, chân bụng
trên đốt bụng 2 - 6 rất phát triển, nhánh ngoài
của chân bụng có thể mang 1 - 2 lông tơ.
Megalop 15 – 23 4,01 Mất gai lưng, gai trán rất ngắn, mắt to Telson
không còn chẻ 2 mà dạng bầu dục và có nhiều
lông trên chân đuôi, chân bụng rất phát triển và
có nhiều lông trên các nhánh, ấu trùng mang 2 càng.
Cua con
(Cua 1)
23 – 30 2-3 CW Cua có hình dạng như cua trưởng thành mặc dù
carapace hơi tròn. 12
1.2. Hiện trạng nghề sản xuất giống cua xanh
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Cua biển là đối tượng nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao ở nhiều nước trên thế
giới. Vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu về đối tượng này.
Ong (1964) lần đầu tiên đã mô tả các giai đoạn của ấu trùng cua. Ấu trùng
cua sau khi nở là Zoea 1, trải qua 4 lần lột xác trở thành Zoea 5, trong khoảng 17 -
20 ngày. Zoea 5 biến thái thành Megalop và giai đoạn này kéo dài 8 - 11 ngày, sau
đó ấu trùng trở thành cua con. Cua con trải qua 16 - 18 lần lột xác nữa trước khi
thành thục, thời gian này ít nhất khoảng 338 - 523 ngày, nhìn chung chu kỳ sống
của cua được chia làm 4 giai đoạn chính: Giai đoạn ấu trùng, cua con, tiền trưởng
thành và trưởng thành. Trong quá trình phát triển cùng với sự lột xác các loài cua
nói chung có khả năng tái sinh những phần đã bị mất của cơ thể [2].
Năm 1983, Heasman, MP & Fielder, D.R đã thử nghiệm cho cua đẻ ở phòng
thí nghiệm và nuôi đại trà cua biển từ giai đoạn zoea đến cua bột. Kết quả nghiên
cứu cho thấy: Cần duy trì chất lượng nước bằng hệ thống lọc nước tuần hoàn, với

C, nhưng chúng sẽ trở nên bất động ở
dưới 10
o
C. Ông còn cho rằng cua cái sẽ không di cư ra vùng biển có nhiệt độ dưới
12
o
C để đẻ trứng. Tuy nhiên, Heasman và ctv (1983) lại nhận thấy tần số bắt mồi
của ấu trùng cua tăng lên khi nhiệt độ tăng trên khoảng 20 – 27
o
C và chậm lại khi
nhiệt độ thấp dưới 20
o
C. Một số thí nghiệm khác cũng cho thấy ương ấu trùng cua
đạt kết quả tốt hơn ở nhiệt độ 27 – 30
o
C và độ mặn khoảng 35 ppt so với các điều
kiện nhiệt độ và độ mặn khác (Marichamy và Rajackiam, 1991) [6].
Ong (1964) nhận thấy rằng giai đoạn Megalop lớn nhanh hơn khi độ mặn giảm
xuống còn 21 - 27 ppt và chúng có khuynh hướng di chuyển vào vùng nước lợ.
Mặc dù kỹ thuật sinh sản nhân tạo cua biển luôn được cải tiến nhằm hoàn
thiện nhưng đến nay kết quả vẫn chưa được như mong muốn, còn gặp nhiều trở
ngại, tỷ lệ sống ấu trùng còn thấp và không ổn định.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Việt Nam có nguồn lợi cua biển rất phong phú, điều kiện tự nhiên thuận lợi
cho nghề nuôi cua biển phát triển. Vì vậy ở nước ta có rất nhiều tác giả nghiên cứu
về đối tượng này.
Nghiên cứu của Hải (1997) khi nuôi vỗ cua cắt mắt trong bể 1m
3
, cua có thể
đẻ trong vòng 5 ngày sau khi cắt mắt và thả nuôi. Tuy nhiên, cũng có trường hợp

Diễu làm chủ nhiệm dự án. Kết quả đạt được qua các đợt sản xuất tại hai tỉnh với tỷ
lệ sống từ 13 – 15% [4].
15
PHẦN 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2. 1. Thời gian, địa điểm và đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Thời gian nghiên cứu:
Từ ngày 22/2/2012 đến ngày 5/5/2012
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu:
Khu sản xuất giống thủy sản Bình Kiến – Tp. Tuy Hòa thuộc Sở Nông nghiệp
và PTNT tỉnh Phú Yên.
2.1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Cua xanh, loài Scylla paramamosain Estampador, 1949
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu


điều kiện
tự nhiên và
hệ thống
công trình
phục vụ
Kỹ thuật
cho sinh
sản nhân
tạo cua
xanh
Kết luận và đề xuất ý kiến
Kỹ thuật
ương ấu
trùng lên
cua bột
Kỹ
thuật
ương
từ Z1
đến Z5
Kỹ thuật
ương từ
Z5 đến
cua bột
Kỹ
thuật ấp
trứng và
thu ấu
trùng
Kỹ

 Xác định các yếu tố môi trường: Hàng ngày theo dõi các yếu tố môi trường
trong bể ương 2 lần, vào lúc 6 giờ và 14 giờ.
Bảng 2.1: Dụng cụ đo yếu tố môi trường và chỉ tiêu trong sản xuất
STT Yếu tố cần đo Dụng cụ Sai số
1 pH Test pH 0.1
2 Nhiệt độ Nhiệt kế 1
o
C
3 Độ mặn Tỷ trọng kế 1ppt
4 Kích thước bể Đo bằng thước dây 1 cm
5 Trọng lượng cua mẹ Cân bằng cân đĩa
6 Kích thước cua mẹ Đo bằng thước dây 1cm

 Phương pháp định lượng ấu trùng
Ấu trùng Zoea1 lúc mới nở: Sau khi ấu trùng zoae vừa mới nở ta thu toàn bộ
ấu trùng vào thùng nhựa, dùng ống đong 100 mL lấy đầy mẫu nước có ấu trùng vào
ống đong. Đếm số lượng ấu trùng trong ống đong, làm như vậy 3 lần và lấy số trung
bình của 3 lần đếm. Biết được thể tích nước chứa ấu trùng trong thùng nhựa suy ra
số ấu trùng thu được.
Ấu trùng ở giai đoạn sống trôi nổi: Dùng cốc đong 1L nước và lấy 4 điểm
trong bể ương ấu trùng sau đó cho vào xô rồi đếm số lượng ấu trùng trong xô. 18
 Cách tính tỷ lệ thụ tinh
Lấy 100 trứng ở những điểm khác nhau trên buồng trứng. Sau đó đếm số lượng
trứng thụ tinh và không thụ tinh.
c. Một số công thức tính toán các thông số kỹ thuật
- Tỷ lệ thụ tinh :
TLTT = a/b * 100%

20
PHẦN 3 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Điều kiện tự nhiên và hệ thống công trình phục vụ sản xuất giống
3.1.1. Điều kiện tự nhiên tỉnh Phú Yên
a. Vị trí địa lý
Phú Yên là một tỉnh duyên hải miền Trung. Phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía
Nam giáp tỉnh Khánh Hoà, phía Tây giáp tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Gia Lai, phía Đông
giáp biển Đông. Phú Yên có lực lượng lao động tại chỗ dồi dào, cần cù lao động, có
học vấn khá và được đào tạo tốt.
Phú Yên có đường quốc lộ 1A và quốc lộ 25 đi qua. Thị xã Tuy Hoà nằm cách
Thủ đô Hà Nội 1.160 km, cách thành phố Hồ Chí Minh 561 km, cách khu du lịch quốc
tế Văn Phong (Khánh Hoà) 40 km. Từ các thành phố của Việt Nam có thể đến Phú
Yên thuận tiện bằng đường sắt, đường bộ, đường hàng không và đường biển [14].
b. Đặc điểm địa hình
Địa hình tỉnh thấp dần từ Tây sang Đông với những dạng địa hình núi, đồi xen

 Hệ thống lắng, lọc cơ học
- Bể lắng, lọc: Bể làm bằng xi măng dạng hình chữ nhật (2 bể), có thể tích 30 m
3
,
mặt trong trơn nhẵn, hơi dốc về lỗ thoát nước. Bể được xây dựng trong nhà.
- Vật liệu lọc cát thô, cát mịn, than hoạt tính, đá nhỏ (1x2cm), đá lớn (3x4cm),
giữa các vật liệu được ngăn bởi các lớp lưới và lớp vải. Bể lọc được xây dựng theo
phương pháp lọc ngược.
- Ngoài ra, trong trại sản xuất còn có các túi lọc bằng vải chuyên dùng có kích
thước 1 - 5µm để lọc lại nước trước khi sử dụng.
 Bể chứa nước 22


4
5 23
3.1.2.3. Hệ thống công trình sản xuất giống
 Bể nuôi vỗ cua mẹ
- Bể nuôi vỗ: Bể xi măng có kích thước (2,1x2x0,8m) gồm 3 bể,có thể tích 3 m
3
, 1/3
bể được đổ một lớp cát dày 10 – 15 cm làm bãi đẻ cho cua. Đáy bể hơi nghiêng về
cống xả, bể xây dựng trong nhà và có bạt đen che kín.
 Bể và xô nhựa nuôi cua mẹ ôm trứng
Cua mẹ ôm trứng được nuôi trong xô nhựa có thể tích V = 50L, số lượng 4 xô.
Ngoài ra khi trứng gần nở ta chuyển sang nuôi ở bể. Bể làm bằng xi măng, có thể
tích V = 1m
3
, xây dựng trong nhà và có bạt đen phủ kín.
 Bể cho cua mẹ đẻ
Bể làm bằng xi măng, dạng hình vuông, có thể tích 1m
3
, số lượng bể là 2 bể,
được bố trí trong nhà và có bạt đen phủ kín.
 Bể ương ấu trùng
Bể ương Z1 – Z5: sử dụng bể chứa nước mặn, mỗi bể chỉ dùng một viên đá sục khí
ở giữa. Mặt trong thành bể có màu xanh nhạt.
Bể ương Z5 – cua: Bể làm bằng xi măng, gồm 4 bể, V = 20m
3
/bể (kích thước
5x4x1m) được xây dựng trong nhà, đáy hơi nghiêng về cống thoát nước. Mỗi bể


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status