Đề cương ôn tập cơ sở văn hóa Việt Nam k30 - Pdf 15

Câu 1
1. Khái niệm
- Thuật ngữ “giao lưu và tiếp biến văn hoá” được sử dụng khá rộng rãi trong
nhiều ngành khoa học xã hội như dân tộc học, xã hội học, văn hoá học.v.v ở phương
Tây, khái niệm này được dùng bởi những từ khác nhau. Người Anh dùng Cultural
Change (trao đổi văn hoá). Khái niệm Acculturation của người Hoa Kỳ được các nhà
nghiên cứu ở Việt Nam dịch với những nét nghĩa khác nhau: đan xen văn hoá, hỗn
dung văn hoá, giao thoa văn hoá. Cách dịch được nhiều người chấp nhận là giao lưu
và tiếp biến văn hoá.
- Nếu quy luật kế thừa là sự khái quát hoá quá trình phát triển văn hoá diễn ra
theo trục thời gian thì giao lưu và tiếp biến văn hoá nhìn nhận sự phát triển văn hoá
trong mối quan hệ không gian với nhiều phạm vi rộng hẹp khác nhau, tuỳ trình độ phát
triển và đặc điểm riêng của mỗi dân tộc.
- Khái niệm: Giao lưu và tiếp biến văn hoá là sự gặp gỡ, thâm nhập và học
hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa. Trong quá trình này, các nền văn hoá bổ sung,
tiếp nhận và làm giàu cho nhau, dẫn đến sự biến đổi, phát triển và tiến bộ văn hoá.
- Giao lưu văn hoá thực chất là sự gặp gỡ, đối thoại giữa các nền văn hoá. Quá
trình này đòi hỏi mỗi nền văn hoá phải biết dựa trên cái nội sinh để lựa chọn tiếp nhận
cái ngoại sinh, từng bước bản địa hoá nó để làm giàu, phát triển văn hoá dân tộc.
Trong tiếp nhận các yếu tố văn hoá ngoại sinh, hệ giá trị xã hội và tâm thức dân tộc có
vai trò rất quan trọng. Nó là "màng lọc" để tiếp nhận những yếu tố văn hoá của các
dân tộc khác, giúp cho văn hoá dân tộc phát triển mà vẫn giữ được sắc thái riêng của
mình.
- Quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hoá thường diễn ra theo hai hình thức:
+ Hình thức tự nguyện: Thông qua các hoạt động như buôn bán, thăm hỏi, du
lịch, hôn nhân, quà tặng…mà văn hoá được trao đổi trên tinh thần tự nguyện.
+ Còn hình thức cưỡng bức: thường gắn liền với các cuộc chiến tranh xâm lược
thôn tính đất đai và đồng hoá văn hoá của một quốc gia này đối với một quốc gia khác.
Tuy nhiên, trên thực tế, các hình thức này lắm khi không thuần nhất. Có khi trong cái
vẻ tự nguyện, có những yếu tố mang tính cưỡng bức. Hoặc trong quá trình bị cưỡng
bức văn hoá, vẫn có những yếu tố tiếp nhận mang tính tự nguyện.

riêng của văn hóa Đông Nam Á so với các quốc gia trong khu vực văn hóa phương
Đông và phương Tây.
+ Thứ tư: Về mặt văn hóa tinh thần, ngay từ buổi đầu cư dân Đông Nam Á đã
hình thành cho mình một diện mạo văn hóa tinh thần khá phong phú và phát triển ở
trình độ cao. Điều đó thể hiện ở sự phát triển của tư duy nhận thức về xã hội và thế
giới, quan niệm về tính chất lưỡng phân, lưỡng hợp của thế giới .v.v Tín ngưỡng
Đông Nam Á buổi đầu là bái vật giáo với việc thờ các thần: thần đất, thần mưa, thần
lúa, thờ mặt trời, thờ cây, thờ đá, thờ cá sấu, đặc biệt là tín ngưỡng phồn thực và thờ
cúng tổ tiên.
- Giai đoạn thứ hai, vào thời kỳ Đông Sơn- thời kỳ kết tinh tinh thần dân tộc, kết
tinh văn hoá. Không chỉ giữa các nền văn hoá Đông Sơn, văn hoá Sa Huỳnh và văn
hoá Đồng Nai có sự trao đổi, tiếp xúc lẫn nhau, mà các nền văn hoá này đã có trao đổi
tiếp xúc khá mạnh mẽ với văn hoá Đông Nam Á. Chứng cứ là, người ta tìm thấy khá
nhiều trống đồng Đông Sơn ở Thái Lan, Ma Lai, Inđônêxia, và miền nam Trung Quốc
(thuộc khu vực văn hoá Đông Nam Á). Nhiều trống đồng có hoa văn, hình người,
hình chim tìm thấy ở Tấn Ninh (Nam Trung Quốc) mang phong cách Đông Sơn. Rất
nhiều rìu đồng đuôi én tìm thấy ở Inđônêxia được sản xuất theo phong cách Đông Sơn
(kiểu rìu làng Vạc- Nghệ An). Các đồ đồng này hoặc bằng con đường buôn bán mà có
mặt ở các nước trong khu vực, hoặc được chế tạo tại chỗ theo phong cách Đông Sơn
mà họ chịu ảnh hưởng.
- Nằm trong khu vực Đông Nam Á, văn hóa Việt Nam ngay từ thời kỳ tiền sử
và sơ sử đã mang những sắc thái của văn hóa Đông Nam Á.Tuy nhiên, trong quá trình
phát triển của lịch sử, giao lưu với văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, những ảnh hưởng
mạnh mẽ của chúng đã khiến cho văn hóa cổ Đông Nam Á bị giải thể về mặt cấu trúc.
Những yếu tố, những mảnh vụn của chúng trở thành cơ tầng sâu văn hóa Đông Nam Á
trong các nền văn hóa của mọi quốc gia trong khu vực và được bảo lưu như các yếu tố,
các giá trị chung tạo nên những nét tương đồng văn hóa.
- Vào thời kỳ sơ sử, người Việt Nam đã tạo dựng cho mình một nền văn hóa bản
địa rực rỡ: văn hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh, văn hoá Đồng Nai. Trước khi tiếp
xúc và giao lưu với văn hoá Trung Hoa và Ấn Độ, Việt Nam đã hình thành một nền

Bắc trong đại lục Châu Á và miền bình nguyên Âu - Á, nên văn hóa Trung Hoa vừa
mang những đặc điểm văn hóa du mục của các cư dân phương Bắc và Tây Bắc, vừa
thâu hóa nhiều tinh hoa của văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước của các cư dân
phương Nam. Lịch sử hình thành và phát triển của văn hóa Trung Hoa gắn liền với
lịch sử mở rộng lãnh thổ bằng các cuộc chinh phạt về mặt quân sự và truyền bá văn
hóa của tổ tiên người Trung Hoa từ phía Tây lưu vực sông Hoàng Hà theo hướng từ
Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam. Cùng với sự bành trướng về phương Nam của các
triều đại phong kiến Trung Hoa, đã diễn ra quá trình Trung Hoa thâu hóa văn hóa
phương Nam, Hán hóa các nền văn hóa phương Nam. Vị trí địa lý và những diễn biến
của lịch sử đã tạo các điều kiện gặp gỡ và tiếp xúc thường xuyên giữa văn hóa Việt
Nam và văn hóa Trung Hoa. Ngày nay, không thể phủ nhận ảnh hưởng của văn hóa
Trung Hoa đối với văn hóa Việt Nam là rất lớn. Vấn đề đặt ra là trong cuộc tiếp xúc
không cân sức này, người Việt làm thế nào để văn hóa dân tộc vẫn tồn tại và phát
triển, vẫn khẳng định được bản sắc văn hóa của mình?
- Quá trình giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa
diễn ra với hai hình thức: giao lưu cưỡng bức và giao lưu tự nguyện.
+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến
thế kỷ X và từ 1.407 đến 1.427. Suốt thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên, các đế
chế phương Bắc ra sức thực hiện các chính sách đồng hoá về phương diện văn hoá
nhằm biến nước ta trở thành một quận, huyện của Trung Hoa. Từ 1.407 đến 1.427 là
giai đoạn nhà Minh xâm lược Đại Việt. Trong số các kẻ thù từ phương Bắc, giặc Minh
là kẻ thù tàn bạo nhất đối với văn hóa Đại Việt. Minh Thành tổ ban lệnh cho viên
tướng Trương Phụ chỉ huy binh lính vào xâm lược Việt Nam: "Binh lính vào Việt
Nam, trừ sách vở và bản in đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu hủy, ngoài ra hết thảy
mọi sách vở khác, văn tự cho đến ca lý dân gian hay sách dạy trẻ nhỏ một mảnh,
một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước, phàm những bia do người Trung Quốc
dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá
hủy tất cả, một chữ chớ để còn".
+ Giao lưu tiếp biến văn hóa một cách tự nguyện là dạng thức thứ hai của quan
hệ giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa. Trước thời kỳ Bắc thuộc đã từng

+ Về văn hóa phi vật thể: Việt Nam tiếp nhận ngôn ngữ của người Trung Hoa
(cả từ vựng và chữ viết), tiếp thu hệ tư tưởng Trung Hoa cổ đại (Nho gia, Đạo gia) trên
tinh thần hỗn dung, hòa hợp với tín ngưỡng bản địa và các hệ tư tưởng khác, mô
phỏng hệ thống giáo dục theo tinh thần Nho giáo, tiếp nhận một số phong tục lễ Tết, lễ
hội .v.v
c Giao lưu tiếp biến với văn hóa Ấn Độ
Ấn Độ là một trung tâm văn hóa văn minh lớn của khu vực phương Đông và thế
giới. Văn minh Ấn Độ lan tỏa khắp khu vực Đông Nam Á và trên nhiều bình diện có
ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam bằng nhiều hình thức.
Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Ấn Độ diễn ra bằng con đường hòa bình. Các
thương gia, các nhà sư Ấn Độ đến Việt Nam với mục đích thương mại, truyền bá, văn
hóa, tôn giáo.
- Giao lưu với văn hóa Ấn Độ ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, không gian
văn hóa khác nhau thì nội dung giao lưu cũng khác nhau. Ở thiên niên kỷ đầu Công
nguyên, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay có ba nền văn hóa: Văn hóa cùng châu thổ
Bắc bộ, văn hóa Chăm Pa và văn hóa Óc Eo. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến ba
vùng văn hóa này có khác nhau. Văn hóa Óc Eo chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ
khá toàn diện. Trên nền tảng cơ tầng văn hóa bản địa, các đạo sĩ Bà la môn đến từ Ấn
Độ đã tổ chức, xây dựng một quốc gia mô phỏng mô hình của Ấn Độ ở tất cả các mặt:
tổ chức chính trị, thiết chế xã hội, đô thị, giao thông cùng với việc truyền bá các thành
tố văn hóa tinh thần như chữ viết, tôn giáo .v.v
- Văn hóa Ấn Độ đã góp phần quan trọng vào quá trình hình thành vương quốc
Chăm Pa và một nền văn hóa Chăm Pa phát triển rực rỡ. Người Chăm đã tiếp nhận mô
hình văn hóa Ấn Độ từ việc tổ chức nhà nước cho đến việc tạo dựng và phát triển các
thành tố văn hóa. Họ đã rất linh hoạt trong tiếp biến văn hóa Ấn Độ để tạo dựng nên
nền văn hóa Chăm Pa với những sắc thái văn hóa đan xen giữa Ấn Độ, Đông Nam Á
và văn hóa bản địa Chăm đặc sắc. Điều này thể hiện trên các lĩnh vực, đặc biệt là chữ
viết, tôn giáo, kiến trúc và nghệ thuật.
- Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Ấn Độ của người Việt ở vùng châu thổ Bắc
bộ lại diễn ra trong đặc điểm hoàn cảnh lịch sử riêng. Trước khi tiếp xúc với văn hóa

các cư dân La Mã cổ đại, chứng tỏ đã có những quan hệ thương mại quốc tế rộng rãi.
Thế kỷ XVI, các linh mục phương Tây đã vào truyền giáo ở vùng Hải Hậu (nay thuộc
tỉnh Nam Định) và chúa Trịnh vua Lê ở Đàng Ngoài cũng như các chúa Nguyễn ở
Đàng Trong, rồi nhà Tây Sơn đều có quan hệ với phương Tây. Tuy nhiên, giao lưu
văn hóa toàn diện thực sự diễn ra khi Pháp xâm lược Việt Nam.
- Về phía người Pháp, sau khi đã lập được ách đô hộ ở Việt Nam, họ rất có ý
thức dùng văn hóa như một công cụ để cai trị. Víi tinh thần yêu nước và lòng tự trọng
dân tộc, thái độ trước hết của người Việt Nam là chống trả quyết liệt cả về phương
diện chính trị và văn hóa. Có thể thấy thái độ ấy ở các nhà nho yêu nước ở Nam Bộ
cuối thế kỷ XIX như Nguyễn Đình Chiểu, Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực
Trong hoàn cảnh mất nước, người Việt có ý thức chống lại văn hóa mà đội quân xâm
lược định áp đặt cho họ: thái độ không học tiếng Tây, không mặc đồ Tây, không dùng
hàng Tây Tuy nhiên, bằng thái độ mềm dẻo, cởi mở, dần dần họ đã tiếp nhận những
giá trị văn hóa mới để phát triển văn hóa dân tộc, sử dụng chúng trong công cuộc đấu
tranh chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc.
- Trong lịch sử mấy ngàn năm, các cuộc giao lưu và tiếp biến với các nền văn
hóa trong khu vực chỉ làm đổi thay về phương diện yếu tố của văn hóa Việt Nam. Lần
đầu tiên trong lịch sử, quá trình tiếp xúc toàn diện với văn hóa phương Tây giai đoạn
1858 - 1945 đã khiến người Việt cấu trúc lại nền văn hóa của mình, đi vào vòng quay
của văn minh công nghiệp phương Tây. Diện mạo văn hóa Việt Nam thay đổi trên các
phương diện: Thứ nhất là chữ Quốc ngữ, từ chỗ là loại chữ viết dùng trong nội bộ một
tôn giáo được dùng như chữ viết của một nền văn hóa. Thứ hai là sự xuất hiện của các
phương tiện văn hóa như nhà in, máy in ở Việt Nam Thứ ba là sự xuất hiện của báo
chí, nhà xuất bản. Thứ tư là sự xuất hiện của một loạt các thể loại, loại hình văn nghệ
mới như tiểu thuyết, thơ mới, điện ảnh, kịch nói, hội họa
Như vậy, với lối ứng xử thông minh, mềm dẻo, qua mỗi chặng đường thử thách,
văn hóa dân tộc lại trưởng thành và phát triển lên một bước mới. Cuộc hội nhập lần
thứ nhất, tiếp biến với văn hóa Ấn Độ và văn hóa Hán đã làm giàu cho văn hóa Việt
Nam, khiến cho dân tộc đủ mạnh, tạo cơ sở cho sự phát triển trong kỷ nguyên Đại
Việt. Hội nhập lần thứ hai, tiếp biến với văn hóa phương Tây đã góp phần hiện đại hóa

hoá nông nghiệp lúa nước đang bị mất dần.
+ Một hệ tư tưởng đạo đức không phù hợp với thuần phong mỹ tục, với các giá
trị đạo đức nhân văn truyền thống đang từng ngày thâm nhập vào đời sống văn hoá
của nhân dân ta.
+ Môt bộ phận dân chúng, nhất là thanh thiếu niên đang chạy theo lối sống
hưởng thụ, trong quan hệ ứng xử phai nhạt nghĩa tình, tất cả đều nhuốm màu thương
mại, tiếp thu văn hoá ngoại lai một cách thái quá, phủ nhận các giá trị truyền thống.
+ Một số cấp lãnh đạo quản lý cũng còn chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của
văn hoá đối với đời sống xã hội
+ Hoàn cảnh lịch sử => giao lưu tiếp biến VH thay đổi trên nhiều phương diện:
+ Giao lưu TBVH trong thời đại tin học, kinh tế tri thức=> GLTBVH trở lên đa
dang và phức tạp cả về nội dung, loại hình lẫn phương thức
+ Các thế lực thù địch, phản động quốc tế không ngừng tìm cách chống phá
chúng ta về mọi mặt thông qua con đường giao lưu tiếp biến văn hoá, nhằm từng bước
chuyển hoá về tư tưởng ý thức hệ, đạo đức lối sống của nhân dân ta.
Câu 2:
. Môi trường tự nhiên tác động đến văn hoá Việt Nam
Có 3 đặc điểm cơ bản của môi trường tự nhiên Việt Nam đã tác động và ảnh
hưởng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển nền văn hoá dân tộc:
- Nước ta nằm ở vị trí địa lý là trung tâm điểm của các trục đường giao lưu
quốc tế. Các nước từ phương Bắc muốn tiến xuống phương Nam, các nước từ phương
Tây sang phương Đông, và ngược lại, đều đi qua Việt Nam hoặc lấy Việt Nam làm
một vị trí trung chuyển đều rất thuận lợi. Trước đây, nhiều triều đại phong kiến Trung
Hoa đã tiến đánh xâm chiếm Việt Nam, và từ Việt Nam thực hiện ý đồ mở rộng về
phía Nam và Đông Nam á. Từ cuối thế kỷ XVI một số nhà buôn phương Tây đã đi
theo đường biển vào Việt Nam để buôn bán, và từ Việt Nam, mở rộng buôn bán với
các nước khác trong khu vực. Sau này thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã xâm lược
nước ta cũng thực hiện mưu đồ làm chủ Đông Nam Á Việt Nam đã trở thành vị trí
có ý nghĩa chiến lược trên bản đồ thế giới. Điều này tạo thuận lợi cho nước ta có ưu
thế giao lưu văn hoá, thương mại, du lịch Nhưng nó cũng cắt nghĩa một điều là tại

còn có nghề “Thương hồ”- người buôn bán trên sông nước; hình thức chợ nổi trên
sông
+ Cư dân Bắc và Trung bộ phải thường xuyên đối mặt với nạn lũ lụt. Ngay từ
thời xa xưa, công cuộc chinh phục lũ lụt đã đi vào huyền thoại “Sơn Tinh Thuỷ Tinh”.
Chưa bao giờ các triều đại và người dân Việt Nam dám coi nhẹ việc đắp đê chống lụt.
Công cuộc đắp đê trị thuỷ là một kỳ tích vĩ đại của người Việt.
+ Tín ngưỡng thờ sông nước: Thần sông thần suối, “Đất có thổ công, sông có
Hà Bá”. Nhân dân miền duyên hải còn thờ “cá Ông” như một con vật thiêng phù trợ
cho cuộc sống của những người làm nghề đánh cá
+ Từ đặc điểm sông nước này mà nhà học giả Cao Xuân Huy nói tới “tính thuỷ”
trong tính cách người Việt, rộng ra là trong văn hoá Việt.
Ngoài 3 đặc điểm chính trên, có nhà nghiên cứu còn nhắc đến đặc điểm địa
hình của nước ta rất đa dạng bao gồm cả miền núi, đồng bằng và biển cả, giữa chúng
có vùng trung chuyển. Đặc điểm này khiến cảm thụ về thiên nhiên của người Việt khá
phong phú. Trong các địa hình đó không thể không nhắc đến hang động vùng rừng núi
và cảng vịnh dưới biển. Hệ thống hang động Việt Nam kỳ vĩ, phong phú trải dài từ
Bắc vào Nam, trong đó Phong Nha (Quảng Bình) đã trở thành Di sản thiên nhiên thế
giới. Người Việt đến với hang động không chỉ để thưởng thức mà con thiêng liêng hoá
chúng, biến thành nơi cầu nguyện, đáp ứng nhu cầu tâm linh. Các cảng vịnh cũng dồi
dào, đa dạng, trải dài từ Móng Cái đến Hà Tiên. Vịnh Hạ Long và Nha Trang đã mang
đẳng cấp quốc tế. Hang động và cảng vịnh thực sự là những món quà vô giá của tạo
hoá ban tặng cho nước Việt chúng ta. Cũng cần lưu ý, nhìn trên tổng thể thì như vậy,
nhưng đi vào mỗi vùng miền Tổ quốc lại thấy có những điều kiện tự nhiên cụ thể khác
nhau, do đó diện mạo văn hoá ở mỗi vùng cũng có những nét độc đáo khác biệt. Đến
lượt người nghiên cứu văn hoá, trên mẫu số chung đó, phải chỉ ra được những nét độc
đáo khác nhau của mỗi vùng văn hoá.
Câu 5
. Nho giáo Trung Quốc ảnh hưởng đến gia đình Việt Nam, tạo cho gia đình Việt
Nam mang tính chất phụ quyền, tư tưởng trọng nam khinh nữ. Nhưng nhiều khi ảnh
hưởng của Nho giáo đến gia đình truyền thống của người Việt chỉ mang tính hình thức

+ Có mặt trong mọi lúc buồn vui của chồng, trong mọi lúc thành công hay thất
bại. “Đằng sau mọi thành công của đàn ông bao giờ cũng có bóng dáng của người
phụ nữ”…
+ Hi sinh hết lòng vì chồng, ngay cả từ những điều nhỏ nhất. Không chỉ gắn
bó với chồng bằng tình mà còn gắn bó với nhau bằng nghĩa.
Ví dụ: Bữa ăn trong gia đình, người phụ nữ bao giờ cũng ngồi ở đầu nồi, hạnh
phúc của họ là được chăm chút cho chồng con, được nhìn thấy chồng con khỏe mạnh,
hạnh phúc. Vì chàng thiếp phải ăn mâm – Như thiếp ăn đứng ăn nằm cũng nên…
Văn hóa Việt Nam và tư duy người Việt đặc biệt đề cao sự đồng thuận của tình
nghĩa vợ chồng trong quan hệ hai giới nam – nữ: Thuận vợ thuận chồng tát bể đông
cũng cạn; Râu tôm nấu với ruột bầu – Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon…
- Với con:
+ Yêu thương, lo lắng và chăm sóc cho con từ khi con còn trong bụng mẹ đến
khi con sinh ra, khôn lớn, trưởng thành.
+ Là chỗ dựa bình yên và vững chắc nhất của con người: “trên thế giới có
nhiều kỳ quan nhưng kỳ quan đẹp nhất là tấm lòng người mẹ”…
+ Vai trò quan trọng trong việc giáo dục, hình thành tính cách và nhân cách
cho con, trao cho con những giá trị văn hóa từ đời này sang đời khác. => người Việt
đúc kết: Phúc đức tại mẫu; Con dại cái mang; Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà…
Liên hệ mở rộng: Ngày nay, vi trò, vị trí của người phụ nữ trong gia đình vẫn
được đề cao, coi trọng. Người phụ nữ vẫn được xem là người giữ lửa trong gia đình, vẫn
là người giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì cuộc sống hạnh phúc gia đình. Tuy
nhiên, cũng có một số luồng ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề này: nhiều người phụ
nữ đòi hỏi được giải phóng mình, không muốn bị rằng buộc bởi những lời ngợi ca, bởi sự
tôn vinh trách nhiệm. Họ muốn được sống thoải mái là chính mình, muốn thoát khỏi
những công việc nội trợ hàng ngày, giảm bớt thời gian chăm sóc chồng con để phấn đấu
có vị trí trong xã hội …
* Về kinh tế, lao động sản xuất:
- Trong lao động sản xuất, người phụ nữ là bạn của đàn ông, cùng bình đẳng
như đàn ông: Trên đồng cạn dưới đồng sâu – Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa…

nước, ruộng đồng, sông ngòi, đê điều, bãi cỏ…
+ Làng có chung một tổ chức xã hội nông nghiệp vì cư dân sống chủ yếu ở làng
là cư dân nông nghiệp, nền kinh tế chủ yếu ở làng là nền kinh tế nông nghiệp. Và tổ
chức xã hội nông nghiệp ấy phải thích ứng với sản xuất tiểu nông, với gia đình, với
dòng họ.
Khái niệm này chủ yếu gắn với làng quê truyền thống ở Bắc Bộ và Bắc Trung
Bộ, với khoảng thời gian hình thành hàng nghìn năm; còn ở Nam Bộ chưa hẳn đã vậy.
+ Làng được hình thành, tổ chức dựa vào hai nguyên lý cơ bản:
- Nguyên lý cùng huyết thống:
- Nguyên lý cùng nơi chốn
Người trong làng đều có họ, đều có quan hệ máu mủ, huyết thống với nhau.
Nguyên lý cùng huyết thống này xuất hiện chủ yếu ở thời công xã thị tộc. Lúc đầu
làng là nơi ở của 1 họ, về sau có nhiều dòng họ cùng cư trú, trong đó thường có 2-3
dòng họ lớn. Có nhiều làng là nơi ở của một họ mà cho đến nay người ta vẫn còn tìm
thấy dấu vết qua hệ thống các tên gọi của làng như: Làng Đặng Xá, Ngô Xá, Nguyễn
Xá, Lê Xá… Vì thế dân gian có câu Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
Khi công xã thị tộc tan rã, công xã nông thôn xuất hiện, các thành viên trong
làng còn gắn bó với nhau bằng quan hệ sản xuất để đối phó với môi trường tự nhiên,
môi trường xã hội. Vì thế, bên cạnh câu Một giọt máu đào hơn ao nước lã còn có câu
Bán anh em xa mua láng giềng gần. Hai câu tục ngữ, hai cách ứng xử tưởng như mâu
thuẫn nhưng thực chất lại là một cách kết hợp độc đáo cùa làng Việt Nam.
Cơ cấu dân cư và tổ chức hành chính
- Kỳ mục (Hội đồng kỳ mục. Miền Nam gọi là Hội tề): Gồm Tiên chỉ, Thứ
chỉ… có trách nhiệm bàn bạc tập thể và quyết định các công việc của làng xã. (cơ
quan lập pháp).
- Kỳ dịch (Lý dịch): Gồm Lý trưởng, xã trưởng, Hương trưởng, Trương tuần,
Cai lệ Do Hội đồng kỳ mục cử ra, trực tiếp thi hành các quyết định của Kỳ mục, trực
tiếp tổ chức, quản lý đời sống của dân làng. (cơ quan hành pháp).
- Cộng đồng dân cư: Chiếm số lượng đông đảo nhất, góp phần tạo nên diện
mạo văn hoá của mỗi làng. Gồm có: Dân chính cư (dân gốc ở làng); Dân ngụ cư (dân

Cách quản lý và phân chia đất của làng xã rất đa dạng, làng nào quản lý đất của
làng đó. Trước khi phân chia ruộng đất, làng thường dành một phần đất công để dùng
vào việc công cộng. Số đất còn lại được phân chia theo nhiều loại người khác nhau
(gồm 3 hạng: nhất đẳng, nhị đẳng, tam đẳng) để người dân cày cấy, hưởng hoa lợi và
nộp thuế. Đất ở làng cũng gồm nhiều loại khác nhau (như: Thượng đẳng điền, Trung
đẳng điền, Hạ đẳng điền). Việc phân chia đất phải diễn ra đồng đều, tốt – xấu cùng san
sẻ.
Ví dụ: Bộ luật Hồng Đức quy định 3 hoặc 5 năm chia đất 1 lần theo suất đinh, và
chỉ có con trai mới được chia đất.
- Làng có vai trò bảo vệ môi trường sinh thái; bảo vệ, quản lý tài nguyên của địa
phương. Điều này được thể hiện rõ qua hệ thống các hương ước của làng với những
quy định về thưởng - phạt rõ ràng.
+ Nghề thủ công nghiệp
- Ngoài ra, còn có một số làng nghề thủ công (người dân tranh thủ lúc nông
nhàn để làm nghề). Hệ thống các làng nghề nước ta khá phong phú, đa dạng. VD:
Làng gốm Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội), Làng Đồ gỗ Đồng Kỵ (Từ Sơn, Bắc Ninh),
Làng tranh Đông Hồ (Thuận Thành, Bắc Ninh), Làng Chiếu (Nga Sơn, Thanh Hoá).
Làng Lụa (Vạn Phúc, Hà Đông)… Một số làng nghề nổi tiếng, một số làng nghề mai
một theo thời gian, một số làng nghề có khuynh hướng tiến ra đô thị để lập nghiệp, sản
xuất, buôn bán các mặt hàng thủ công.
- Nói về chức năng kinh tế của làng, chúng ta cần chú ý một hiện tượng đáng
đặc biệt, đó là: Các phiên chợ quê.
+ Chợ quê chủ yếu buôn bán các mặt hàng nông sản, hoạt động buôn bán diễn
ra khiêm tốn, chưa đủ mạnh để biến thành hoạt động thương mại.
+ Chợ quê thể hiện rõ chức năng văn hoá của làng, đặc biệt là qua các phiên chợ
tết. Chợ không chỉ diễn ra hoạt động mua bán mà còn chứa đựng tình làng nghĩa xóm.
Nếu như không gian hàng ngày ở các làng quê là không gian khép kín, thì chợ chính là
không gian mở, là nơi tiếp thu, kiểm chứng và phát tán các giá trị văn hóa. Đặc biệt rõ
nét qua các phiên chợ tết, bày bán các mặt hàng đặc trưng của mỗi vùng và bày bán
các vật phẩm văn hoá: cho chữ, bán chữ, bán câu đối, tranh dân gian. Đến chợ người

triển, nhiều loại hình nghệ thuật dân gian có giá trị đã xuất hiện trong không gian này
*** Không gian văn hoá tinh thần:
Ngoài không gian đình làng, trong mỗi làng còn có những nơi thờ cúng khác ở
các miếu, am, điếm (chưa kể đền thờ thánh hoặc chùa thờ Phật có làng có, có làng
không). Những nơi thờ tế đó chủ yếu nhằm vào các thần thánh dân gian, do quan niệm
đa thần giáo mà thành. Ví dụ thờ thần sông, thần núi, thần cây đa, thần trăn tinh, thần
hổ, thờ người chết trôi
+ Biểu hiện rõ nhất là làng đã tạo ra cảm quan tinh thần phong phú, giầu tình
cảm, mang đậm tính nhân văn.
+ Làng là nơi tiếp nhận kiểm chứng sự tồn tại của các ý thức hệ, các quan điểm ,
quan niệm về nhân sinh quan, thế giới quan, tôn giáo, tín ngưỡng.
- Hai đặc trưng tổng quát của làng Việt truyền thống: tính cộng đồng và tính tự
trị tự quản.
+ Trước hết nói về tính cộng đồng, nó được thể hiện qua tính cộng cư, cộng
cảm, cộng mệnh, cộng sản (cùng chung một số tài sản như công điền công thổ, công
quỹ ). Nó có những mặt tích cực như tinh thần tương thân tương ái, tinh thần đoàn
kết gắn bó, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với cộng đồng. Nhất là trong những lúc lâm
nguy, tinh thần cộng đồng phát huy cao độ sức mạnh của nó. Tuy nhiên, cũng phải
thấy những biểu hiện cực đoan của nó như: Tư tưởng bình quân chủ nghĩa, cào bằng,
“Hoà cả làng”; tư tưởng dựa dẫm, ỷ lại, thiếu trách nhiệm cá nhân, “Cha chung không
ai khóc”; tư tưởng bầy đàn, a dua, ăn theo nói leo, không dám sống đúng là mình,
+ Tính tự trị tự quản trước hết được biểu hiện bằng hình thức hương ước của
làng do những chức sắc và những người đàn ông trong làng bàn soạn. Nội dung hương
ước tuy mỗi làng có những điểm khác biệt, nhưng tựu trung lại bao gồm mấy nội dung
sau:
1. Những điều khoản quy định về sản xuất, kinh tế liên quan đến ruộng đất, sức
kéo trâu bò, đường xá ;
2. Những điều khoản về phong hoá, đạo lý;
3. Những điều khoản về an ninh;
4. Những điều khoản về tế tự;

những ngày hội làng, ngoài việc làm cỗ, ăn uống còn diễn ra các nghi thức khác như:
tế lễ, rước kiệu hay các trò vui dân gian… Bàn thờ Thành hoàng làng bao giờ cũng
được đặt trang trọng, linh thiêng, trên bệ thờ thường có lư hương, đèn, lọ hoa và trên
vách có một chữ Thần bằng chữ Hán. Có nơi thờ áo mũ của thành hoàng. Hai bên có
Tả Ban, Hữu Ban
Thành Hoàng là biểu hiện của lịch sử, phong tục đạo đức, pháp luật cũng hy
vọng của cả làng. Thờ Thành hoàng làng, cũng chính là sự thờ phụng luật lệ làng xã,
lề thói gia phong của làng, thờ Thành hoàng làng để bảo vệ và phát triển cộng đồng
làng, để xóm làng phát triển thành một cộng đồng có tổ chức chặt chẽ. Dân làng đối
với thành hoàng cũng kính cẩn như con cháu đối với tổ tiên vậy.
Câu 8.
1. Tính cộng đồng:
- Là đặc trưng số một của làng truyền thống Việt Nam. Cuộc sống nông nghiệp
phụ thuộc vào thiên nhiên, vì vậy người dân phải liên kết với nhau, dưa vào nhau mà
sống. Chính điều đó đã tạo nên tính cộng đồng.
- Biểu hiện của tính cộng đồng
Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất, tạo nên những tính cách tốt đẹp
của người Việt Nam.
+ Luôn sẵn sàng đoàn kết, giúp đỡ nhau, coi mọi người như anh em trong
nhà: Lá lành đùm lá rách; Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; Thương người như thể
thương thân…
VD: Một người đi xa lâu ngày trở về làng, cả làng đến hỏi thăm; có ấm nước
chè tươi, ngon, cả làng đến uống; một người lên đường nhập ngũ, cả làng đến hỏi
thăm, chia tay, động viên…
+ Tạo nên tính tập thể cao, mang đến sức mạnh to lớn cho dân tộc, đặc
biệt là trong những trường hợp cần thiết như chống thiên tai, lũ lụt, chống giặc ngoại
xâm
+ Ý thức cá nhân bị thủ tiêu, hoà tan vào các mối quan hệ xã hội, giải
quyết xung đột theo lối “hoà cả làng” (khác phương Tây: Con người được rèn luyện ý
thức cá nhân ngay từ nhỏ).

vun vén cho địa phương mình: Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy
thờ… Đặc điểm này còn lan truyền đến cả tính cách của mỗi cá nhân: ích kỷ, khôn lỏi,
chỉ biết nghĩ đến mình, cho được việc mình: Ai có thân người ấy lo, ai có bò người ấy
liệu; Thân trâu trâu lo, thân bò bò liệu
+Lòng tự tôn thái quá nhiều khi trở thành tự thị, gia trưởng, áp đặt ý muốn
của mình cho người khác, tạo nên tư tưởng thứ bậc vô lý: Sống lâu lên lão làng; Áo
mặc không qua khỏi đầu…

Trích đoạn Tín ngưỡng
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status