skkn phương pháp khai thác và sử dụng kênh hình trong dạy học lịch sử 12 chương trình chuẩn phần lịch sử thế giới trung học phổ thông tinh gia 2 - Pdf 18

A. Đặt vấn đề.
I. Lời mở đầu
Loài người đã bước vào thế kỉ XXI - thế kỉ của tri thức. Tri thức là nguồn lực
quyết định sự phát triển và tăng trưởng kinh tế. Tri thức đóng một vai trò rất quan
trọng đối với sự tiến bộ cũng như tốc độ phát triển của nền văn minh nhân loại.
Sự bùng nổ của công nghệ thông tin đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển
của tất cả các ngành trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, “nếu muốn việc dạy
học theo kịp cuộc sống, chúng ta nhất thiết phải đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh”.
Việc nâng cao chất lượng giáo dục ở nước ta trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi
phải đổi mới phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy
học lịch sử nói riêng là một cuộc cách mạng, là một vấn đề cấp thiết cần phải tiến
hành mạnh mẽ ở tất cả các trường phổ thông.
Ý thức được điều đó, trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp
dạy học ở nước ta đã được Đảng, Nhà nước cũng như các cấp quản lí giáo dục quan
tâm.
Mặc dù vậy, một thực tế diễn ra mà chúng ta chưa thể khắc phục hết được đó
là các em học sinh không thích học sử. Các em cho rằng lịch sử là môn phụ, không
có tác dụng thiết thực trong cuộc sống; lịch sử là môn khô khan, nhiều số liệu,
nhiều sự kiện. Chính điều đó dẫn đến tình trạng học sinh không nắm vững sự kiện
cơ bản, nhớ sai, nhớ lầm kiến thức lịch sử là khá phổ biến.
Ở đây, yếu tố chính quyết định đến hứng thú học tập lịch sử của các em là
phương pháp dạy học của giáo viên chưa đáp ứng đặc trưng bộ môn. Trong thực tế,
có rất nhiều giáo viên tâm huyết với nghề đã hết sức cố gắng trong việc tìm tòi, đổi
mới phương pháp dạy học, làm cho giờ học lịch sử trở nên sinh động và có kết quả
tốt. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều giáo viên dạy theo kiểu truyền thống,
giáo viên đọc sách giáo khoa cho học sinh chép, học sinh học thuộc lòng, nói lại
1
sách giáo khoa và bài giảng của thầy. Việc dạy học như vậy làm “thui chột” khả
năng sư phạm của giáo viên và khả năng tư duy sáng tạo của học sinh.
Vì vậy, yêu cầu cấp bách của giáo dục hiện nay là phải đổi mới phương pháp

chất minh hoạ.
Xuất phát từ thực tế đó, tôi mạnh dạn trình bày một số biện pháp với mong
muốn góp một chút vốn kiến thức của mình vào công tác giảng dạy, để việc học tập
lịch sử ở trường THPT đạt kết quả cao hơn.
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
1. Thực trạng
Để đáp ứng yêu cầu về nhận thức lý luận nắm vững nội dung khoa học các
loại tài liệu trực quan, phương pháp sử dụng kênh hình trong dạy học lịch sử, cần
thiết phải có một chuyên khảo ngắn gọn, có chất lượng vừa nâng trình độ về lịch sử
và nghiệp vụ cho giáo viên mà lại thiết thực, cụ thể. Đã có một số bài viết, một số tài
liệu cung cấp cho giáo viên và học sinh những hiểu biết cần thiết như vậy, song còn
ít và chưa đủ, chưa có hệ thống.
Đã có nhiều cách giải đáp khác nhau trong việc sử dụng sách giáo khoa trong
dạy học Lịch sử ở trường trung học cơ sở nhằm nâng cao hiệu hiệu quả giờ học. Hầu
hết chúng ta đều thống nhất rằng; chỉ có thể sử dụng sách giáo khoa khi cả giáo viên
và học sinh hiểu sâu sắc bài viết (kênh chữ) cũng như tranh, ảnh, biểu đồ, sơ đồ của
sách giáo khoa. Tuy nhiên, việc khai thác nội dung kênh hình trong sách giáo khoa
là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học lại chưa được quan tâm một
cách đầy đủ. Trong giờ dạy Lịch sử THPT vẫn còn có giáo viên coi việc sử dụng
kênh hình là nhằm minh họa cho giờ dạy thêm sinh động, hoặc nếu có sử dụng khai
thác thì phương pháp và nội dung khai thác chưa phù hợp. Vì vậy việc khai thác
kiến thức trong kênh hình chưa được chú trọng phát huy. Qua các lần dự giờ tại một
số trường tôi thấy nguyên nhân của tình trạng đó có nhiều, song chủ yếu là:
Một là: Giáo viên mới chỉ chú ý đến kênh chữ của sách giáo khoa, coi đây là
nguồn cung cấp kiến thức Lịch sử duy nhất trong dạy học, không thấy rằng kênh
hình, không chỉ là nguồn kiến thức quan trọng, cung cấp một lượng thông tin đáng
3
kể, mà còn là phương tiện trực quan có giá trị giúp bài học Lịch sử trở nên sinh động
hơn, hấp dẫn hơn, gây hứng thú học tập hơn cho học sinh.Bản thân nó cũng là kiến
thức lịch sử.

nêu được nội dung bức tranh phản ánh nội dung gì về Lịch sử. Qua đó thấy rằng đã
đến lúc chúng ta cần phải nghiêm túc xem xét lại việc xác định vị trí, ý kiến, phương
pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay.
Từ thực trạng trên, để công việc sử dụng đồ dùng trực quan tạo hình trong dạy
học Lịch sử 12 THPT đạt hiệu quả tốt hơn, tôi mạnh dạn cải tiến nội dung đưa ra "
Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan tạo hình trong dạy học Lịch sử 12
chương trình chuẩn – phần Lịch sử thế giới "như sau:
B. Giải quyết vấn đề
I. Các giải pháp thực hiện:
Trước hết, giáo viên phải xác định vị trí, ý nghĩa của đồ dùng trực quan nói
chung và đồ dùng trực quan tạo hình nói riêng trong dạy học Lịch sử. Bởi vì nguyên
tắc trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy học, nhằm tạo
cho học sinh những biểu tượng và hình thành khái niệm. Sử dụng đồ dùng trực quan
là góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học sinh, là chỗ dựa để học sinh hiểu biết
sâu sắc bản chất của sách giáo khoa Lịch sử, là phương tiện có hiệu lực để hình
thành khái niệm Lịch sử.
Giáo viên phải phân loại được các nhóm đồ dùng trực quan. Đâu là đồ dùng
trực quan hiện vật, đồ dùng trực quan tạo hình, đồ dùng trực quan quy ước. Bởi có
phân loại được các nhóm đồ dùng trực quan này thì giáo viên mới lựa chọn được các
phương pháp phù hợp để khai thác và khi sử dụng mới linh hoạt và sáng tạo. Đồng
thời để sử dụng tốt, giáo viên phải xác định rõ nội dung lịch sử được phản ánh qua
đồ dùng trực quan. Phải dự kiến và xác định sử dụng chúng trong từng bài cụ thể.
Giáo viên phải tổ chức, hướng dẫn, phát huy tính tích cực, độc lập của học
sinh trong quá trình quan sát, tìm hiểu nội dung lịch sử được phản ánh qua tranh, ảnh
lịch sử. Muốn vậy trong kế hoạch bài giảng của giáo viên phải có sự chuẩn bị chu
5
đáo các thao tác, hệ thống câu hỏi để nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo
của học sinh. Làm sao để học sinh hiểu đồ dùng trực quan nhằm nâng cao chất lượng
dạy học lịch sử, gây hứng thú học tập cho học sinh. Nó là chiếc “cầu nối” giữa quá
khứ với hiện tại.

Nội dung thuyết minh kênh hình phải phong phú, sinh động hấp dẫn, kết hợp
với lời nói truyền cảm sẽ có sức thuyết phục cao đối với học sinh, tạo nên ở các em
cảm xúc thực sự, nội dung bài giảng vì thế cũng sinh động, hấp dẫn hơn, học sinh sẽ
trở nên yêu thích học tập môn Lịch sử hơn.
Thông thường, kênh hình nói chung và hình vẽ, tranh ảnh nói riêng được trình bày
với tư cách là nguồn cung cấp thông tin, kiến thức được in kèm theo câu hỏi để học
sinh tự “làm việc” với sách giáo khoa dưới sự hướng dẫn của giáo viên, nhằm rút ra
những kiến thức Lịch sử nhất định. Để sử dụng tốt trước hết giáo viên phải xác định
rõ được nội dung Lịch sử được phản ánh qua tranh ảnh . Tiếp theo giáo viên phải dự
kiến và xác định phương pháp sẽ sử dụng chúng trong từng bài cụ thể. Phương pháp
sử dụng trong dạy học loại kênh hình này là giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát.
Đầu tiên là quan sát tổng thể rồi mới quan sát chi tiết kết hợp với miêu tả, phân tích,
đàm thoại thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở của giáo viên để học sinh rút ra được
những kết luận. Khi tìm hiểu nội dung kênh hình qua các câu hỏi gợi mở giáo viên
có thể tổ chức cho các em làm việc cá nhân hoặc theo nhóm hoặc toàn lớp.
2. Cách khai thác, tiếp cận Lịch sử qua tranh ảnh:
Trước hết giáo viên phải xác định nguồn gốc và thời điểm xuất hiện tài liệu.
Có nghĩa là nội dung xuất sứ của bức ảnh, bức ảnh phản ánh toàn diện hay một mặt,
một khía cạnh nào đó của Lịch sử. Nội dung của tranh ảnh phản ánh sự kiện, hiện
tượng, tiến trình lịch sử nào, ở khía cạnh nào, trung thành đến đâu. Tranh hay ảnh
gốc bao giờ cũng là loại tài liệu có giá trị bậc nhất.
Sau khi xác định nguồn gốc, thời điểm như trên, ta có thể gợi ý cho học sinh
nội dung và cách thể hiện những nội dung đó của tác giả trên tranh ảnh.
- Những nhân vật chính trong tranh ảnh họ là ai? Họ đại diện cho ai?
- Tiếp theo nhằm giáo dục học sinh đi sâu vào nội dung tranh ảnh.
7
3. Những kỹ năng khi khai thác tranh ảnh:
Hình thành kỹ năng quan sát, nhận xét
Hình thành kỹ năng mô tả tường thuật.
Hình thành kỹ năng phân tích, nhận định, đánh giá.

quốc tế quan trọng nhất trong chiến tranh thế giới thứ hai. Hội nghị được tổ chức
trên bán đảo Crưm trong lâu đài Li va di a gần thành phố Ianta, từ ngày 4 đến
ngày11/2/1945.Tham gia hội nghị có Chủ tịch hội đồng bộ trưởng Liên Xô - Xtalin,
Tổng thống Mĩ Rudơven và thủ tướng Anh – Sớcsin.
Hội nghị Ianta được triệu tập khi chiến sự ở châu Âu sắp kết thúc. Lúc này
công việc trọng tâm mà ba nguyên thủ quốc gia chú ý là tình hình thế giới sẽ được
sắp xếp như thế nào sau chiến tranh.Vì vậy không khí của hội nghị hết sức căng
thẳng thể hiện trên gương mặt của ba nguyên thủ,tổng thống Mĩ Rudơven và thủ
tướng Anh - Sớcsin vẻ mặt tươi cười quay lại với nhau. Còn Xtalin vẽ mặt nghiêm
nghị. Nhưng cuối cùng hội nghị cũng đã nhất trí phân chia phạm vi ảnh hưởng của
các nước và khu vực sau chiến tranh (GV nêu phần chữ nhỏ trong SGK về sự phân
chia khu vực ảnh hưởng).
Như vậy, hội nghị Ianta nhằm giải quyết các vấn đề có liên quan đến quyền
lợi của ba nước Liên Xô, Mĩ, Anh. Hội nghị đã đóng góp một vai trò tích cực trong
việc giải quyết vấn đề nước Đức, Nhật Bản và thành lập một tổ chức quốc tế sau
chiến tranh (Liên hợp quốc). Đồng thời, hội nghị cũng dẫn đến sự hình thành trật tự
hai cực sau chiến tranh:" Trật tự hai cực Ianta " do Mĩ và Liên Xô đứng đầu, sau đó
tiến hành cuộc "Chiến tranh lạnh"( kéo dài từ 1947 đến 1989).
Bài 2: LIÊN XÔ VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU ( 1945- 1991) LIÊN BANG NGA
( 1991- 2000)
Hình 3: Vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Liên Xô, ảnh nhà du hành vũ trụ
Gagarin.
9
* Phương pháp sử dụng:
Đây là bức ảnh chụp vệ tinh nhân tạo đầu tiên của loài người do Liên Xô
phóng lên vũ trụ thành công năm 1957. Giáo viên sử dụng kênh hình này để dạy
mục: I. 1: Liên Xô.
Hoạt động 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát toàn bộ bức tranh gợi ý
bằng một số câu hỏi như sau:
Em biết gì về vệ tinh nhân tạo do Liên Xô phóng lên vũ trụ?

Á trong bài.
Hoạt động 1: Giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát toàn diện bức ảnh một
cách khái quát, rồi đặt câu hỏi gợi mở, kích thích sự suy nghĩ của học sinh.
Nhìn vào bức ảnh, em có nhận xét gì về quang cảnh kí kết Hiệp định này ?
Thành Phố này nằm ở đâu ?
Hiệp định này có ý nghĩa như thế nào đối với Khu vực Đông Bắc Á ?
Hoạt động 2: Giáo viên tập trung sự chú ý của các em vào bức ảnh và tiến
hành miêu tả.
Trong ảnh là một góc nhỏ của thành phố Thượng Hải sau hơn 20 năm Trung
Quốc tiến hành công cuộc cải cách - mở cửa. Thành phố Thượng Hải nằm ở vĩ độ
31
0
14
'
Bắc và kinh độ 121
0
,29
0
Đông đúng điểm giữa tuyến bờ biển của Trung Quốc,
là nơi sông Trường Giang đổ ra biển. Phía đông Thượng Hải giáp với Đông Hải,
phía bắc giáp sông Trường Giang, phía nam giáp vịnh Hàng Châu, phía tây giáp tỉnh
Giang Tô và Chiết Giang. Diện tích toàn thành phố là 6341km
2
, dân số13,04 triệu
người (số liệu thống kê năm 2001). Nhìn vào ảnh ta thấy những tòa nhà lớn, kéo dài
suốt thành phố chính là những trung tâm công nghiệp, thương mại, khu tiền tệ ,văn
hóa mọc lên san sát. Đặc biệt, ở đây có hệ thống giao thông dày đặc với nhiều làn
đường dành cho các loại xe ôtô, xe máy, tất cả đều toát lên sự sầm uất và nhộn
nhịp của thành phố.
11

Sau cuộc bầu cử toàn quốc đa sắc tộc năm 1994, ngày 10/5/1994 Chủ tịch
ANC N. Man-đê-la tuyên bố nhận chức Tổng thống nước Cộng hòa Nam Phi, trở
thành Tổng thống da đen đầu tiên trong lịch sử đấu tranh chống chế độ phân biệt
chủng tộc A-pác-thai ở Nam Phi, N. Man-đê-la là người đấu tranh không mệt mỏi,
góp phần vào thắng lợi của cuộc đấu tranh này. Với những cống hiến của ông vào sự
nghiệp giải phóng con người khỏi sự kì thị, phân biệt chủng tộc N. Man-đê-la đã
được nhận giải thưởng thế giới "Nô ben" về "Hòa bình" (1993)
Bài 6. NƯỚC MĨ
Hình 18. Tàu con thoi của MĨ đang được phóng lên.
* Phương pháp sử dụng.
Đây là bức ảnh chụp tàu con thoi của Mĩ đang được phóng lên vũ trụ. Giáo
viên sử dụng bức ảnh này để minh họa khi giảng dạy mục: I – Nước Mĩ từ 1945
đến 1973
Hoạt động 1: Giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh, gợi mở câu hỏi để phát triển
tư duy, suy nghĩ của các em.
- Nhìn vào bức ảnh tàu con thoi của Mĩ đang được phóng lên, các em biết gì
về lĩnh vực khoa học kỹ thuật của nước Mĩ sau triến tranh thế giới thứ hai ?
- Tàu con thoi được phóng lên vũ trụ vào thời gian nào và trọng lượng của nó là bao
nhiêu?.
Hoạt động 2: Giáo viên tổ chức cho học sinh trả lời những câu hỏi trên bằng
sự hiểu biết của mình.
Hoạt động 3: Giáo viên tập trung sự chú ý của học sinh vào bức ảnh và mưu
tả.
Trong ảnh tàu con thoi của Mĩ được phóng lên vũ trụ năm 1981, khẳng định
sự phát triển trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật của nước Mĩ. Ngày 12/4/1981 đúng
20 năm sau chuyến bay đầu tiên vào vũ trụ, cơ quan nghiên cứu hàng không và vũ
13
trụ của Mĩ (NASA), đã phóng thành công Tàu con thoi mang tên Cô-lum-pi- a cùng
vời hai nhà du hành vũ trụ.
Tàu con thoi là tàu vũ trụ đầu tiên có thể thu hồi và sử dụng lại thiết bị cho các

Cầu Sê-tô-Ô-ha-si là một cây cầu lớn của Nhật Bản vượt biển Sê tô dài 9,4km.
Lòng cầu đôi, dành cho đường ô tô cao tốc và xe lửa. Tuyến đường này có bốn làn
đường cho ô tô và một đường ray cho xe lửa.
Cầu Sê-tô-Ô-ha-si được biết đến với sự thán phục hâm mộ với nhân dân thế
giới. Một loạt tuyến đường cao tốc và đường ray được kết nối với nhau và chạy qua
cây cầu nổi tiếng nối hai đảo chính Sê-tô và Ô-ha-si. Cây cầu có một tầng cao dành
cho tuyến đường cao tốc và tầng thấp hơn dành cho đường ray xe lửa. Được thiết kế
dành cho tương lai. Cấu trúc xây dựng cây cầu này có đủ khả năng hợp nhất mọi
tuyến đường.
Hình 22. Tàu cao tốc ở Nhật Bản
* Phương pháp sử dụng.
Đây là bức ảnh giáo viên sử dụng để dạy mục: III - Nhật Bản từ 1973 đến
1991
Hoạt động 1: Giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát bức ảnh về con tàu, gợi
mở bằng các câu hỏi sau:
- Nhìn bức ảnh các em nhìn thấy hình dáng của con tàu này như thế nào và nó
chạy trên đường bay gì ?
- Nó có thể chạy trên đường bay như các con tàu bình thường khác không ?
- Vì sao người ta gọi con tàu này là " đoàn tàu biết bay".
Hoạt động 3: Giáo viên tập trung sự chú ý của học sinh vào bức ảnh và tiến
hành miêu tả.
15
Đây là hình ảnh tàu chạy trên đệm từ của Nhật bản có tốc độ 400km/giờ, nó
thể hiện thành tựu kì diệu về lĩnh vực khoa học - kỹ thuật mà Nhật Bản đã đạt được
trong những năm cuối thế kỷ XX.
Các em hãy tưởng tượng, nếu chúng ta ngồi trên đoàn tàu này, chỉ cần 1 giờ
có thể đi du lịch ở một thành phố cách điểm xuất phát 400km, nhanh hơn cả máy
bay. Vì vậy người ta gọi đây là " đoàn tàu biết bay".
Tàu chạy bằng đệm từ lợi dụng từ lực làm cho thân tàu lướt trên đường bay,
không những tốc độ nhanh hơn, mà do thân tàu nổi, nên độ lắc và tiếng ồn giảm đến

Sau khi tiến hành thực nghiệm, thu được kết quả như sau:
Lớp
Số học sinh
kiểm tra
Số lượng học sinh đạt điểm tại giá trị X và Y
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Thực nghiệm (X) 50 0 0 1 1 2 3 19 10 4 4
Đối chứng (Y) 50 2 0 3 3 5 6 12 8 4 1
* Để kiểm định tính khả thi của đề tài, tôi tiến hành xử lí số liệu thu được ở
trên theo ba bước:
- Bước 1: Tính giá trị t = (
X
-
Y
)
Từ kết qủa thu được ở bảng trên ta tính được:
Điểm trung bình lớp thực nghiệm:
X
= 7,5
Điểm trung bình lớp đối chứng:
Y
= 6,3
Số học sinh kiểm tra: 100
Phương sai lớp thực nghiệm: S
2
x = 0,98
Phương sai lớp đối chứng: S
2
y = 2,5
n

1. Đề xuất
Trong sự phát triển của khoa học ngày nay, giáo dục đang phải chịu hai sức ép
lớn của việc truyền thụ và tiếp thu kiến thức. Đó cũng là vấn đề số lượng và chất
lượng. Không thể cung cấp và học thuộc khối lượng kiến thức ngày một chồng chất,
càng không thể chấp nhận những kiến thức quá cũ, lạc hậu, chưa phản ánh được
những thành tựu khoa học hiện đại. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học theo
18
hướng phát huy tính tích cực của học sinh là một vấn đề bức thiết. Tuy nhiên, một
điều cần chú ý là sự đổi mới này phải được tiến hành một cách thiết thực, toàn diện.
Trong giờ lên lớp, cần nhanh chóng xoá bỏ lối dạy độc thoại của giáo viên, tăng
cường làm và sử dụng các đồ dùng dạy học, tiến hành các loại bài tập thực hành
trong quá trình cung cấp kiến thức mới.
Đổi mới phương pháp cần đồng thời với việc cải tiến về mặt nội dung, hình
thức lên lớp, phương tiện dạy học. Nội dung dạy học còn nặng nề, quá nhiều sự kiện,
hiện tượng trong một bài học lịch sử sẽ dẫn đến tình trạng dạy học nhồi nhét. Cơ sở
vật chất đảm bảo cho học sinh phát huy năng lực học tập lịch sử thiếu thốn thì giáo
viên cũng không thể dạy theo hướng tích cực hoá người học.
Sử dụng đồ dùng trực quan tạo hình trong dạy học lịch sử nói chung và lịch sử
12 nói riêng là một công việc cần thiết và bắt buộc đối với mỗi giáo viên khi tham
gia quá trình dạy học. Muốn làm tốt có hiệu quả việc này cần phải nắm vững lý luận
về phương pháp dạy học theo tinh thần đổi mới hiện nay.
Giáo viên phải luôn xác định vị trí, ý nghĩa và vai trò của việc sử dụng đồ
dùng trực quan trong dạy học lịch sử 9 nói chung và đồ dùng trực quan tạo hình nói
riêng nó là chiếc cầu nối giữa quá khứ với hiện tại.
Việc sử dụng đồ dựng trực quan không phải chỉ được tiến hành vào những giờ
thao giảng, dạy minh hoạ mà nó phải được sử dụng thường xuyên liên tục. Muốn sử
dụng và khai thác hết được nội dung Lịch sử được phản ánh trong đồ dùng trực quan
tạo hình thì giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp sử dụng. Có sự chuẩn bị công
phu về kế hoạch bài dạy, nhất là khâu tổ chức cho học sinh tìm hiểu, tiếp nhận kiến
thức mới trên lớp. Muốn thiết kế được tiết dạy có hiệu quả, giáo viên phải tham khảo

1. Thực trang 3
2. Kết quả nghiên cứu thực trạng 4
B. Giải quyết vấn đề
I. Các giải pháp để thực hiện 5
II. Các biện pháp tổ chức để thực hiện 6
1. Các nguyên tắc khi sử dụng……………………………………… 6
2. Cách khai thác, tiếp cận Lịch sử qua tranh ảnh……………………7
3. Những kỹ năng khi khai thác tranh ảnh……………………………8
4. Các bước làm việc với đồ dùng trực quan tạo hình……………… 8
5 . Hướng dẫn khai thác một số tranh ảnh cụ thể:……………………8
C. Kết luận
I. Kết quả nghiên cứu 16
II. Đề xuất, kiến nghị 18
1. Đề xuất 18
2. Kiến nghị 20
21


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status