Lịch sử quân sự việt nam - tập 1: Buổi đầu giữ nước - bài 5 potx - Pdf 19

Lịch sử quân sự việt nam - tập 1: Buổi đầu giữ nước [bài 5] THỜI HÙNG VƯƠNG - AN DƯƠNG VƯƠNG. NỀN VĂN MINH SÔNG HỒNG.
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC. SỰ HÌNH THÀNH Ý THỨC BẢO VỆ
CỘNG ĐỒNG VÀ LÃNH THỔ
.

I. VIỆT NAM THỜI NGUYÊN THUỶ. QÚA TRÌNH HÌNH THÀNH Ý THỨC BẢO
VỆ CỘNG ĐỒNG Trên địa cầu, lãnh thổ Việt Nam nổi lên như một bao lơn lài rộng ở góc Đông Nam của
đại lục châu Á, nhìn ra Thái bình Dương mênh mông, có thế đứng vững chãi : núi tựa
núi, sông hoà sông, biển liền biển, với bao nước láng giềng gần xa, thêm vào đó là chế độ
gió mùa và hoạt động của các dòng hải ưu giúp cho sự tiếp xúc về mặt tự nhiên và văn
hoá diễn ra nạnh mẽ sôi động.

Về địa hình, lãnh thổ Việt Nam đã trải qua một quá trình phát triển địa chất phức tạp, lâu
dài. Sau những vận động tạo núi thuộc cuối đại trung sinh cụ thể là vận động tạo núi
Hymalaia (cách ngày nay chừng 5 triệu năm), bộ mặt lãnh thổ nước ta căn bản như ngày
nay mới tương đối định hình. Trong khoảng đầu kỷ thứ ba, lãnh thổ nước ta có dạng một
bán bình nguyên rộng lớn.

Sang cuối kỷ thứ ba do vận động nâng lên của vỏ trái đất, bán bình nguyên cổ ấy được
cải biến thành một xứ núi đồi trùng điệp với những nếp gãy khổng lồ, ở đó h
ình thành các
dòng sông lớn chảy dọc theo hướng Bắc Nam hay hướng Tây Bắc - Đông Nam. Tiếp đó,
những trận mưa lớn đã mang bồi tích của lũ từ núi xuống cùng trầm tích của biển do
những lần biển tiến đưa vào, san lấp phẳng dần tạo ra các đồng bằng phì nhiêu nằm giữa
núi và biển, trong đó hai châu thổ, lớn nhất là châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Cửu


Có thể nói, sự hình thành, vận động và biến đổi tự thân, cùng với sự tác động của con
người đã tạo cho địa hình và thiên nhiên Việt Nam bộ mặt ngày nay với đầy đủ tính đa
dạng và phức tạp của một xứ nhiệt đới gió mùa ẩm ướt, khiến cho con người sống ở đây
vừa được hưởng những điều kiện thuận lợi ưu ái, vừa phải chịu đựng và vượt lên những
khó khăn, tai hoạ, lo âu . . . , để lại dấu ấn sâu đậm trên con người, trong con người và
cuộc sống của người Việt Nam.

Cổ nhân học và khảo cổ học nghiên cứu về con người và các nền văn hoá xưa đã tập hợp
được nhiều tư nếu và bằng chứng khoa học cho thấy từ hàng phục vạn năm nay trên lãnh
thổ Việt Nam đã có con người sinh sống. Thế hệ đổi thay nối tiếp thế hệ, văn hoá đổi
thay nối tiếp văn hoá, các mối quan hệ bên trong và bên ngoài của con người, xã hội và t

nhiên đan xen vào nhau, tác động lên nhau, hoà nhập vào nhau, tạo ra bức tranh lịch sử
của một quốc gia thống nhất - đa tộc, một nền văn hoá thống nhất - đa dạng của dân tộc
Việt Nam. Cho đến nay, những hiểu biết của chúng ta về giai đoạn sinh thành và thời thư
ấu của con người trên lãnh thổ nước ta vẫn còn ít ỏi.

Trong các hang động Thẩm Khuyên và Thẩm Hai (huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn)
chúng ta đã tìm được 10 chiếc răng hoá thạch của người vượn Hom erectus trong lớp
trầm tích màu đỏ chứa xương cốt các động vật hoá thạch có niên đại trung kỳ cánh tân,
cách ngày nay chừng 50 vạn năm với phức hệ voi răng kiếm - đười ươi - gấu tre
(stegodon - Po ngo - Ailuropoda) điển hình cho khu vực Hoa Nam và Bắc Việt Nam.
Những con người đang hình thành về mặt thể chất và trí lực này sinh sống ra sao ? Họ
kiếm ăn bằng cách nào ? Chúng ta chưa biết rõ vì chưa tìm được công cụ lao động của
họ.
Công cụ bằng đá của người vượn tìm thấy trên đất nước ta lần đầu tiên vào năm 1960, ở
núi Đọ (huyện Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá) - m
ột quả núi không cao nằm sát bờ hữu ngạn
sông Chu, nơi sông này hợp nguồn với sông Mã có chứa những mạch đá và tảng đá ba

thành sức mạnh để kiêm ăn, tự vệ.

Bước chuyển từ tổ chức bầy đàn của người vượn sang tổ chức cộng đồng của xã hội
nguyên thuỷ được xem như một mốc lớn biến đổi về chất, cả về mặt thể chất người cũng
như về mặt văn hoá - xã hội.

Trong hang Thẩm Hòm (Quỳ Châu - Nghệ An) đã tìm được ba chiếc răng của người cổ
hoá thạch có nhiều nét Sapiens hoá (tức nét của người khôn ngoan) cùng với xương răng
hoá thạch của quần động vật tiêu biểu thời Cánh tân là voi răng kiếm, đười ươi và g
ấu tre,
cùng một vài mảnh đá thạch anh có vết vỡ dường như công cụ của ngư
ời cổ ở đây. Có thể
xem người Thẩm Khuyên thuộc dạng người vượn cuối cùng đã từng sống trên đất nước
ta.

Trong kh đó, ở hang Hùm (Lục Yên - Yên Bái) lại tìm được răng người có nhiều đặc
điểm của Hom sapiens (người khôn ngoan, tức người hiện đại) trong lớp trầm tích thuộc
đầu hậu kỳ Cánh tân. Phải chăng người hang Hùm là đại diện H.sapiens đầu tiên sống ở
đây? Vết tích người hiện đại chân chính được tìm thấy trong lớp trầm tích vàng có tuổi
Cánh tân muộn hơn ở hang Kéo Lũng (Bình Gia - Lạng Sơn). Đó là một dãy răng hàm
của một xương hàm và một mảnh xương trán người. Nhưng ở đây cũng chưa tìm ra công
cụ của họ.
Năm 1972, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy trong các hang thuộc thung lũng Thần Sa
(Võ Nhai, Thái Nguyên) hai địa điểm thuộc văn hoá hậu kỳ đá cũ là hang Miệng Hổ và
phang Nà Khù. Tiếp đó, cũng trong thung lũng này còn tìm được một di chỉ đá cũ quan
trọng khác có tuổi địa chất cuối cánh tân. Đó là mái đá Người. Trong lớp đất sớm nhất
nằm ở độ sâu 1,15m đến 1,35m, có màu vàng nhạt cũng như trong lớp văn hoá các hang
Miệng Hổ và Nà Khù đã tìm được những công cụ nhỏ được tách ra từ những hòn cuội
thuộc loại đá silíc, đá sửng hay đá quăcdít. Phần lớn chúng là những mảnh tước có cả
những phiến tước dài được ghè đẽo tu chỉnh cẩn thận tạo ra các rìa sắc, mũi nhọn. Đó là

mền đại C4 của lớp khởi chuyển sang văn hoá Sơn Vi ở Mái đá Ngầm là 23.000 +200
năm cách ngày nay, ở hang Phúng Quyền là 18.390 + 125 năm cách ngày nay, ở lớp đáy
hang Con Moong (vườn quốc gia Cúc Phương, Thạch Thành, Thanh Hoá) là 11.755 + 75
năm cách ngày nay. Dấu tích văn hoá ở hang Con Moong cũng như một số hang động
khác như Động ean (Hoà Bình), Mái đá Điều thanh Hoá) có tầng văn hoá dày chứa các
lớp văn hoá nói lên sự phát triển liên tục từ văn hoá Sơn Vi lên văn hoá Hoà Bình.

Văn hoá Hoà Bình được mệnh danh là văn hoá thung lũng vì môi trường sống chủ yếu
của người thời đó là ở trong các hang động và kiếm ăn trong các thung lũng miền núi, họ
để lại dấu vết của mình trong hàng trăm di tích thuộc các tỉnh Lai Châu, Y
ên Bái, Sơn La,
Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hoá qua Nghệ An, Hà ĩ nh cho tới các tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị. . .

Cũng như những công cụ thuộc văn hoá Sơn Vi, những công cụ văn hoá Hoà Bình đều
làm bằng đá cuội. Song về kỹ thuật chế tạo và loại hình đã có sự tiến bộ đáng kể. Người
Hoà Bình thường ghè từ một mặt viên cuội bằng những nhát ghè quanh rìa hướng vào
tâm tạo ra những công cụ hình ớ a, hình bầu dục, hình hạnh nhân Bằng kỹ thuật bẻ cuội
họ đã tạo ra công cụ gọi là rìu ngắn. Người Hoà Bình eòn dùng kỹ thuật bổ pha hòn cuội
thành những lát mỏng tạo ra các công cụ cắt sắc bén. Đặc biệt người Hoà Bình đã biết kỹ
thuật mài tạo lưỡi sắc cho công cụ mà sự phổ biến của kỹ thuật mới này đã có mặt ở 77
trong số 119 di tích Hoà Bình đã được phát hiện.

Người Hoà Bình sống trong môi trường có những thay đôi, ở đó khí hậu đã trở nên nóng
và ẩm, các loại nhuyễn thể sống ở cạn cũng như dưới nước sinh sản rất mạnh, trở thành
đối tượng thu lượm làm thức ăn của người nguyên thuỷ, trong khi họ vẫn tiếp tục lượm
hái thực vật và săn bắt các loài động vật như chủ nhân các văn hoá trước đó vẫn làm,
trong đó có các thú lớn như voi, tê giác, trâu, bò rừng bằng các vũ khí thô sơ (13ản vẽ 1,
h.3. h.5). Điều đáng chú ý là trong thành phần thức ăn của họ ngày càng có nhiều phế thải
là xương răng các loài thú nhỏ tinh khôn nhanh nhẹn như cầy, cáo, thỏ, chồn, sóc, cũng

loại công cụ độc đáo làm bằng hòn cuội dài mỏng dẹt trên rìa cạnh dọc của viên cuội có
vết lõm đôi song song được gọi ỉa “dấu Bắc Sơn” được bảo lưu lâu dài, có mặt trong
nhiều di tích khảo cổ học thuộc đầu thời kỳ kim khí.

Biển tiến Holocen trùng với mực nước biển dâng cực đại cao hơn mặt nước biển ngày
nay khoảng 4m vào thời điểm cách đây khoảng 6.000 năm, làm tràn ngập một vùng lãnh
thổ khá rộng ven bờ khiến người Hoà Bình eo thể tiếp cận với biển khơi, bằng chứng của
sự kiện đó là những mảnh ngao sò nước mặn có mặt trong nhiều di chỉ Hoà Bình như
Mộc Long, Hang Đắng, Con Mang Theo đà đồng bằng dần hình thành, một bộ phận
của cư dân Hoà Bình đã tràn xuống sát biển khai thác đồng bằng, tìm kiếm hải sản. Tại
đây, trong điều kiện ban đầu đồng bằng còn hoang sơ lầy ngập, sông nước mênh mông,
truyền thống khai thác thuỷ sản của người Hoà Bình được mở rộng và phát huy mạnh mẽ,
để lại dấu ấn sâu đậm trong sinh hoạt qua các đống rác bếp tạo thành các đồi vỏ liền
khổng lồ như ở Đa Bút, Bản Thuỷ (Thanh Hoá), qua sưu tập phong phú chì lưới và
xương cá biển ở di chỉ Gò Trũng thanh Hoá). Từ đó đã hình thành một văn hoá mới - văn
hoá Đa Bút. Phương thức sống của người Đa Bút được mở rộng và dần hình thành một
hướng mới ngày một phát triển mạnh mẽ - nghề nông tạp canh, dần phát huy thế mạnh
của mình, được minh chứng bằng một tập hợp phong phú các loại cuốc đá, rìu đá được
mài ở lưỡi và được mài rộng ra dần khắp bề mặt công cụ. Văn hoá Đa Bút thuộc giai
đoạn đá mới phát triển eo niên đại khoảng 7.000 đến 5.000 năm cách ngày nay.

Cùng một bình tuyến với văn hoá Đa Bút song có mến đại sớm muộn hơn nhau ít nhiều
có các văn hoá Cái Bèo (Quảng Ninh), Quỳnh Văn (Nghệ An) và dạng di tích Bàu Dủ
(Quảng Nam) là những văn hoá hay nhóm di tích văn hoá, phân bố ở ven biển và đảo ven
bờ, lấy thu lượm và đánh bắt hải sản làm hoạt động kinh tế chính. Họ sử dụng những
công cụ ghè đẽo thô sơ hoặc một chút công cụ mài mang bóng dáng của văn hoá Hoà
Bình. Tất nhiên là có những công cụ dặc Trưng riêng cho mỗi văn hoá được quy định bởi
những khác biệt về môi trường sống và phương thức sinh hoạt, ví như công cụ có dạng
bàn là của văn hóa Quỳnh Văn.


Lan toả, phân chia, đan xen là xu thế phát triển văn hoá của giai đoạn lịch sử bản lề này. .Trung du và đồng bằng cao lưu vực sông Hồng có văn hoá Phùng Nguyên với đồ gốm
mịn áo đỏ, có hoa văn trang in khắc vạch đối xứng, công cụ rìu đục hình tứ giác nhỏ
nhắn, vòng trang sức thanh mảnh với các đường ren nổi bằng đá ngọc tồn tại bên cạnh
nhóm di tích Gò Con Lợn phong Châu, Phú Thọ) với đồ gốm thô bở, rìu cuốc đá có vai.
Vùng duyên hải và các đảo ven bờ Quảng Ninh, Hải Phòng, có văn hoá Hạ Long nổi lên
với đồ gốm xốp hoa văn trang trí đắp nổi hay trổ lỗ cùng các rìu bôn có nấc. Bên cạnh là
nhóm di tích Tràng Kênh mang diện mạo của văn hoá Phùng Nguyên lấn biển.

Đồng bằng sông Mã có nhóm di tích Cồn Chân Tiên - Bái Man với đặc Trưng văn hoá
tiêu biểu là các đồ gốm có miệng bẻ cong mỏng vát nhọn có hoa văn trang trí các vòng
tròn trổ lỗ giới hạn bởi các đường khắc vạch, rìu tứ giác dài có mặt cắt hình chữ nhật
bằng đá ba dan, cùng các rìu bôn tứ giác và vòng trang sức bằng đá ngọc mang bóng
dáng Phùng Nguyên. Bên cạnh đó, ở vùng duyên hải huyện Hậu Lộc lại tồn tại một nền
văn hoá riêng, mang tên văn hoá Hoa Lộc với đặc Trưng nổi lên là những lưỡi cuốc lớn
có vai bằng đá, đồ gốm với các loại hình độc đáo là những hình nồi có vành miệng rộng
hình đa giác, hoa văn in mép miệng vỏ sò, những khuyên tai bằng đất nung, những con
dấu, con lăn in hoa Lưu vực sông Cả có nhóm di tích Thạch Lạc (một loại hình địa
phương của văn hoá Bàu Trỏ) mà đặc trưng văn hoá tiêu biểu cho nó là gốm áo đỏ hoa
văn khuông nhạc, vạch, không hay lượn sóng tạo bằng que nhiều răng, đồ đá có rìu cuốc
có vai hay chữ nhật có số lượng gần tương đương nhau và đều có mặt cắt ngang hình bầu
dục.

Xen vào đó là di tích Rú Ta (Diễn Châu) với rìu đá hình tứ giác nổi trội; là di tích Lèn
Hai Vai mà đồ gốm ở đây lại mang bóng dáng gốm văn hoá Hoa Lộc. ở bình tuyến văn
hoá này trên cao nguyên Tây Nguyên tồn tại văn hoá Biển Hồ (Gia Lai). Chủ nhân văn
hoá này ưa dùng rìu đá có vai, trong đó có những rìu dáng răng trâu gợi mối liên hệ
nguồn gốc với văn hoá Bàu Trỏ vùng Quảng Bình, có tục chôn người chết trong các nồi

vì lợi ích phát triển chung mà các cộng đồng khác tộc sống xen kẽ gần nhau liên kết lại
thành các công xã - láng giềng. Cứ như vậy, theo thời gian mà khối cộng đồng ngày một
mở rộng ra, ý thức bảo vệ cộng đồng cũng được đổi mới và nâng cao không ngừng. Từ
đó ý thức bảo vệ cộng đồng ngày càng trở nên sâu sắc hơn, phương thức bảo vệ cộng
đồng càng trở nên phong phú và hữu hiệu hơn trở thành mặt hữu cư, khách quan tất yếu
của đời sông ở mọi xã hội, mọi thà đại.

Vậy là từ hàng chục vạn năm nay, trên lãnh thổ Việt Nam đã có và luôn có con người
sinh sống. Vết tích của họ còn để lại trong các nền văn hoá khảo cổ nguyên thuỷ, phản
ảnh cuộc sống lao động và đấu tranh đầy gian lao, vất vả, song cũng đầy ý nghĩa.

Rừng rậm được phát quang. Thú dữ được săn trừ
Cây củ được trồng tỉa. Vật nuôi được chăn thả
Đồng đất được khai phá. Làng bản được dựng lên
Bộ mặt quê hương buổi đầu được tạo dựng, chấm phá. Những chiến công thầm lặng đó, nhờ ý thức cộng đồng cùng ý thức đấu tranh bảo vệ
cộng đồng đã tạo tiền đề, cư sở và điều kiện thuận lợi để các cộng đồng người, các tộc
người kế tiếp, tiếp tục sứ mạng lịch sử tạo dựng nền tảng văn minh cho sự hình thành
quốc gia dân tộc Việt Nam.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status