nghiên cứu sự đàn hồi của động mạch chủ bằng siêu âm trên bệnh nhân tăng huyết áp nguyên phát - Pdf 20

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tăng huyết áp là một bệnh ngày càng phổ biến, là yếu tố nguy cơ cao đối
với bệnh lý tim mạch ở các nước công nghiệp và cả nước ta. Tăng huyết áp đã
và đang trở thành vấn đề sức khoẻ trên toàn cầu, là nguyên nhân gây tử vong
hơn 7,1 triệu người trẻ tuổi và chiếm 4,5% gánh nặng bệnh tật trên toàn cầu.
Fischer nhận thấy rằng: huyết áp càng cao thì tỷ lệ tử vong càng lớn. Qua hơn
20 năm, nghiên cứu Framingham, người ta nhận thấy rằng có mối quan hệ
chặt chẽ giữa trị số huyết áp và các biến chứng của nó như là bệnh nhồi máu
cơ tim, tai biến mạch máu não, suy tim suy thận, các biến chứng mạch máu.
Tăng huyết áp được coi là có vai trò hết sức quan trọng trong bệnh tim mạch,
tai biến mạch máu não, bệnh thận… [8], [9], [10], [43].
Tăng huyết áp tỷ lệ thuận với sức cản ngoại biên, gần đây các nhà lâm
sàng nhận thấy sự đàn hồi động mạch lớn là một yếu tố quan trọng trong bệnh
lý THA đặc biệt là động mạch chủ và động mạch cảnh động mạch đùi vì vậy
sự giảm độ đàn hồi của các động mạch này có ý nghĩa trong bệnh THA và các
bệnh lý tim mạch khác.
Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ bệnh lý tim mạch, tỷ lệ bệnh lý tim
mạch xuất hiện khi huyết áp ≥115/75, và tỷ lệ này tăng lên gấp đôi mỗi khi
huyết áp tăng mỗi 20/10 mmHg. Tổn thương cơ quan đích của bệnh tăng
huyết áp rất phức tạp và đa dạng bao gồm các tổn thương tim mạch vành,
mạch não, mạch thận, các mạch máu ngoại biên, các động mạch lớn cũng bị
tổn thương trong bệnh tăng huyết áp [44]. Các mạch máu lớn như động mạch
cảnh động mạch chủ có tính đàn hồi rất lớn, vậy tăng huyết áp ảnh hưởng như
thế nào lên tính đàn hồi của chúng. Gần đây một số tác giả nhận thấy rằng sự
giảm tính đàn hồi của động mạch chủ có vai trò quan trọng trong sự gia tăng
tử suất và bệnh lý tim mạch [23], [27], [29], [36].
2


TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. TĂNG HUYẾT ÁP
* Định nghĩa tăng huyết áp:
Có nhiều mốc xác định một người bị tăng huyết áp (THA), tuy nhiên
theo tổ chức y tế thế giới và hiệp hội THA quốc tế cũng như JNC7 đều thống
nhất rằng một người bị THA khi huyết áp tâm thu ≥ 140 mmHg và hoặc huyết
áp tâm trương ≥ 90 mmHg.
Định nghĩa này đơn giản nhưng có một nhược điểm là trị số huyết áp
thay đổi theo tuổi, giới, chế độ ăn, chủng tộc [8], [9], [10], [12], [43].
1.1.1. Dịch tễ học tăng huyết áp
Tăng huyết áp là triệu chứng của nhiều bệnh nhưng cũng có thể là bệnh
tăng huyết áp nếu không tìm thấy nguyên nhân [8], [9], [43]. Tăng huyết áp
ngày càng phổ biến, theo tổ chức y tế thế giới thì tỷ lệ THA chiếm từ 8-18%
dân số trên toàn cầu, tỷ lệ này có sự khác biệt giữa các vùng khác nhau, là
một bệnh thường gặp, là vấn đề khó giải quyết mang tính toàn cầu. Ở các
nước phát triển theo định nghĩa của JNC VI thì có tới 30% dân số và > 50%
dân số trên 50 tuổi bị bệnh THA. Theo tác giả Huỳnh Văn Minh tỷ lệ THA ở
châu Âu là 15- 20% cụ thể Hoa Kỳ 6- 8%, Chi Lê 19 -21%, Bồ Đào Nha
30%. Hay một số tác giả khác cho thấy tỷ lệ THA ở Hà Lan 31%, Pháp 10 -
24%. Các nước châu Á cũng có sự khác biệt theo từng quốc gia: Đài Loan
27%, Indonisia 6-15%, Malaisia 10- 14%, Thái Lan 6,8%. Ở Việt Nam, thống
kê của bộ y tế qua các thời kỳ cũng cho thấy tỷ lệ THA ngày càng gia tăng
theo mức độ phát triển của nền kinh tế, sự gia tăng này cũng có sự khác nhau
giữa các vùng miền. Theo thống kê của bộ y tế tỷ lệ THA năm 1960 là 1%,
năm 1982 là 1,9%, nhưng đến năm 1992 đã tăng lên 11,2%. Tại bệnh viện
4

trung ương Huế năm 1980 tỷ lệ tăng huyết áp là 1% trên tổng số bệnh nhân
nội khoa, đến năm 1990 tỷ lệ này tăng lên đến 10%. Theo thống kê gần đây

- Đáy mắt giai đoạn II – IV theo Keith- Wagener.
- Có biến chứng tim thận não.
- Bệnh nhân trẻ tuổi dưới 40.
- Tiến triển nhanh tử vong trong vòng 2-3 năm.
1.1.3. Phân loại tăng huyết áp
Hiện nay sử dụng cách phân độ của tổ chức y tế thế giới và hội THA thế
giới (WHO/ISH). Hội THA Việt Nam cũng sử dụng cách phân độ này [8],
[9], [43].
Bảng 1.1. Phân loại tăng huyết áp (WHO/ ISH).
Phân độ
HHTT (mmHg)
HHTTr (mmHg)
HA tối ưu
<120
<80
HA bình thường
< 130
<85
HA bình thường cao
130 – 139
85 -90
THA độ 1
140- 159
90 -99
THA độ 2
160 -179
100- 109
THA độ 3
≥ 180
≥ 110

Độ 1
Độ 2
Độ 3
Không có
Nguy cơ thấp
Nguy cơ trung bình
Nguy cơ cao
Có 1-2 yếu tố
Nguy cơ trung bình
Nguy cơ trung bình
Nguy cơ cao
Có > 3 yếu tố hoặc
tổn thương cơ quan
đích hoặc có tình
trạng lâm sàng
kèm theo
Nguy cơ cao
Nguy cơ cao
Nguy cơ cao

7

1.1.5. Bệnh sinh và bệnh nguyên tăng huyết áp
1.1.5.1. Bệnh nguyên tăng huyết áp thứ phát
Bệnh thận: Viêm cầu thận cấp, viêm cầu thận mạn, thận đa nang, ứ nước
bể thận, u thận làm tiết renine, hẹp động mạch thận.
Nội tiết:
Bệnh vỏ tuyến thượng thận, hội chứng Cushing, hội chứng Corn, u sản
xuất quá thừa các Corticode khác.
Bệnh tủy thượng thận, u thủy thượng thận.

lớp trung mạc (áo giữa) của động mạch và tiểu động mạch góp phần làm gia
tăng sức cản ngoại vi.
- Tăng hoạt thần kinh giao cảm.
Các nghiên cứu ở người cho thấy có mối tương quan giữa nồng độ
Noradrenalin, Adrenalin trong huyết tương với huyết áp. Adrenalin làm THA
bằng cách làm dễ sự vận chuyển Noradrenalin tác dụng lên các thụ thể beta
Adrenalin tiền tiếp hợp.
Khi tăng hoạt giao cảm làm tăng nhịp tim, làm tăng thể tích tâm thu, thận
dữ nước, đồng thời co mạch ngoại vi làm tăng huyết áp hệ thống.
- Vai trò của hệ Renin- Angiotensin-Adosterol.
Hệ thống Renin –Angiostensin- Aldosterol đóng vai trò quan trọng trong
việc điều hòa hyết áp ở cả người bình thường và người THA. Renine là một
hormon được phóng thích từ tổ chức cạnh cầu thận, khi huyết áp giảm thì áp
lực cầu thận giảm kích thích cầu thận tiết renine điều hòa huyết áp, duy trì áp
lực lọc cầu thận. Renin có vai trò xúc tác chuyển Angiotensinogen thành
Angiotensin I, qua trung gian của men chuyển. Angiotensin I được chuyển
thành Angioesin II cũng qua xúc tác của men chuyển.
Angiotensin II có hoạt tính:
9

- Kích thích vỏ thượng thận tăng tiết Aldosterol gây dữ muối nước.
- Có hoạt tính co mạch mạnh gấp 100- 200 lần Adrenalin và Noradrenalin.
- Kích thích tiết ADH và tăng hoạt giao cảm, ngoài ra còn có tác động
tăng trưởng và tăng sinh tế bào gây phì đại và tăng sinh tế bào.
Đa số bệnh nhân THA nguyên phát có hệ hoạt tính Renin ở trong giới
hạn bình thường, chỉ có 15% trường hợp tăng và 25% trường hợp giảm [9],
[12], [40], [43].
- Vasopressin (hormon chống lợi niệu).
Vai trò Vasopressin trong THA chưa thực sự rõ ràng chỉ có trong 25-
30% THA vừa, nam giới và liên quan đến chỉ số huyết áp. Mặc dù có THA

1.2.1. Cấu trúc của động mạch
Cấu trúc của động mạch gồm 3 lớp từ trong ra ngoài:
Lớp áo trong: Là lớp tiếp xúc với máu, bao bồm một lớp tế bào lót liên
tục hệ tim mạch
Lớp áo giữa: Là lớp dày nhất được cấu tạo bỡi các tế bào cơ trơn và sợi
đàn hồi, collagen, cơ trơn được chi phối bỡi thần kinh giao cảm làm thay đổi
kích thước lòng mạch. Trong đó cơ trơn chiếm 20%, elastin và collagen
chiếm hơn 60%. Vì là lớp có nhiều sợi đàn hồi nên lớp giữa là lớp có tính
quyết định khả năng co giãn của mạch máu hay còn gọi là tính đàn hồi mạch
máu, tỷ lệ sợi đàn hồi với colllagen có ảnh hưởng đến tính đàn hồi. Tỷ lệ thấp
elastin/collagen tạo nên cứng mạch, sự tăng cứng cơ trơn hay phì đại cơ trơn
cũng gây nên cứng mạch làm giảm tính đàn hồi của động mạch [24].
Lớp áo ngoài: Được cấu tạo chủ yếu là collagen, có nhiệm vụ nâng đỡ và
bảo vệ mạch máu. Ở các mạch máu lớn có một lớp đàn hồi ngăn cách giữa
lớp áo giữa và lớp áo ngoài [1], [2], [24].
So với các động mạch trung bình, động mạch nhỏ và tiểu động mạch thì
lớp giữa của động mạch chủ có sự khác biệt là tỷ lệ sợi elastin ở động mạch
chủ ngực lớn hơn sợi collagen nên có tính đàn hồi rất lớn [64].
11 Hình 1.1. Cấu trúc động mạch chủ [24]
1.2.2. Tính đàn hồi của động mạch
Hệ thống mạch máu nói chung và động mạch nói riêng có tính đàn hồi,
là khả năng giãn ra khi trong lòng mạch có sự gia tăng áp lực và trở về trạng
thái ban đầu khi áp lực trong lòng mạch biến mất. Tính đàn hồi là yếu tố quan
trọng cho dòng máu chảy điều hòa và êm trong hệ thống mạch [24], [59].
Các động mạch đặc biệt là động mạch lớn như động mạch chủ, động
mạch cảnh động mạch chậu lớp áo giữa có tỷ lệ sợi đàn hồi rất cao nên
chúng có tính đàn hồi rất lớn. Các động mạch càng gần tim thì khả năng đàn

này bị ảnh hưởng bởi sự xơ cứng động mạch được phản ánh bằng sự gia tăng
cứng và giảm khả năng giãn nở của động mạch chủ [4], [27].
Theo một số tác giả trong và ngoài nước đánh giá sự xơ cứng của động
mạch là đánh giá tính đàn hồi của động mạch [2], [4], [27], [34], sự cứng
động mạch càng tăng thì tính đàn hồi càng giảm. Sự cứng động mạch chủ là
chỉ số đặc biệt của tính đàn hồi của động mạch chủ, trong nghiên cứu của
Namik Kemal Eryol, cho thấy sự cứng của động mạch chủ là một yếu tố chỉ
điểm nguy cơ các bệnh lý tim mạch đặc biệt là bệnh mạch vành [27].
13

Động mạch chủ có vai trò quan trong trong việc điều hòa duy trì dòng
chảy của máu liên tục êm ả trong khi tim tống máu thành từng nhịp nhờ vào
tính đàn hồi của động mạch. Khi có hiện tượng cứng mạch chức năng này bị
giảm đi sẽ đưa đến tăng huyết áp nhất là huyết áp tâm thu và các yếu tố tim
mạch khác bắt đầu xuất hiện. Tính đàn hồi của động mạch do cấu trúc lớp áo
giữa của động mạch quyết định, là lớp có cấu trúc đặc biệt bao gồm cơ trơn,
collagen, sợi elastin. Lớp sợi elastin quyết định tới 90% tính đàn hồi của động
mạch, tỷ lệ sợi elastin/collagen càng tăng cao khi động mạch càng gần tim,
như vậy động mạch chủ là động mạch có tính đàn hồi cao nhất trong hệ thống
mạch máu. Sự giảm mô đàn hồi và tăng sợi cơ trơn, sợi collagen sẽ làm cứng
mạch làm giảm tính đàn hồi của động mạch chủ [23], [24], [27].
Tính đàn hồi của động mạch chủ hay sự cứng mạch bị nhiều yếu tố chi
phối như tuổi, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, hút thuốc lá café… trong đó
sự cứng mạch do tuổi thường là tình trạng sinh lý, trong bệnh tăng huyết áp
thường do tác động kéo dài của quá trình tăng áp lực lên thành mạch [38],
[49], [58], [61], [67].
1.2.4. Giảm tính đàn hồi động mạch chủ một yếu tố quan trọng của các
biến cố tim mạch
Động mạch chủ có tính đàn hồi cao để duy trì dòng máu chảy liên tục, do
đó khi tính đàn hồi giảm sẽ làm tăng nguy cơ tim mạch, hiện nay sự cứng

giống như thời kỳ trước đây. Với sự phát triển và ứng dụng của siêu âm trong
lĩnh vực tim mạch, đặc biệt là siêu M Mode cho phép đo chính xác đường
kính của động mạch chủ trong thì tâm thu và tâm trương nên việc đánh giá
tính đàn hồi động mạch chủ trở nên dễ dàng vì siêu âm M Mode là một kỷ
thuật siêu âm đánh giá hình ảnh thể hiện sự chuyển động của các cơ quan theo
thời gian, nguồn hồi âm đứng yên sẽ tạo thành đường thẳng còn bề mặt phản
15

hồi vận động song song với phương của tia siêu âm khi đó cho ta hình ảnh
của sự chuyển động của cơ quan do đó việc ghi lại hình ảnh chuyển động của
động mạch chủ trong từng chu chuyển tim khá thuận lợi [11], [14].
Có nhiều thông số để đánh giá sự cứng của động mạch chủ được trình
bày ở bảng 1.3.
Bảng 1.3. Cách đánh giá sự cứng mạch [41], [59].
Thông số
Định nghĩa
Phương tiện
Sự giãn nở của
động mach
Liên quan đường kính hoặc diện tích khi
áp suất tăng lên ngược với modul đàn hồi
∆D/P.D (mmHg
-1
)
Siêu âm
MRI
Sự giãn nở của
động mạch
tuyệt đối
Đường kính hoặc diện tích tối đa khi thay

MRI

P: huyết áp; D: đường kính động mạch; s: tâm thu; d: tâm trương;
h: chiều dài đoạn mạch.
Khi sự giãn nở động mạch và sự giãn nở tuyệt đối của động mạch giảm
16

thì cứng động mạch tăng lên do đó tính đàn hồi giảm. Ngược lại khi Modul
đàn hồi, Modul Young’s, vận tốc sóng mạch, áp lực tăng thêm và chỉ số cứng
mạch gia tăng thì tính đàn hồi động mạch giảm [24], [32].
1.2.6. Tăng huyết áp và sự cứng động mạch chủ
Tăng huyết áp và cứng động mạch chủ có mối liên hệ với nhau rất chặt
chẽ tăng huyết áp thúc đẩy quá trình cứng động mạch chủ và ngược lại cứng
động mạch chủ lại làm gia tăng huyết áp [32], [56], [57].
Sự cứng động mạch chủ là yếu tố dự báo tăng huyết áp bền bỉ ở bệnh
nhân suy giáp bệnh nhân sửa van động mạch chủ [32]. Khi động mạch chủ
cứng sẽ làm gia tăng áp lực mạch, tăng co bóp thất trái, phì đại thất trái, giảm
lưu lượng vành. Sự gia tăng huyết áp trung bình là do sự tăng sức đề kháng
ngoại biên, trong bệnh tăng huyết áp nguyên phát. Sự giảm tính đàn hồi động
mạch chủ cũng góp phần trong việc gia tăng huyết áp này, vì nó làm tăng đề
kháng ở thời kỳ tâm thu. Có nhiều bằng chứng cho thấy sự giảm tính đàn hồi
động mạch chủ có vai trò quyết định trong sự tăng huyết áp tâm thu và áp lực
mạch ở bệnh tăng huyết áp nguyên phát [18], [21], [35]. Tăng sự cứng động
mạch chủ làm giảm đường kính động mạch thời kỳ tâm thu, gia tăng áp lực
mạch và tăng huyết áp tâm thu [25]. Trong nghiên cứu Frammingham Heart
Study chỉ ra rằng đường kính động mạch chủ tời kỳ tâm thu giảm theo tuổi và
áp lực mạch tăng liên quan đến sự cứng động mạch chủ. Động mạch chủ là
một cơ quan động khi tim tống máu động mạch chủ nở ra làm giảm áp lực
trong thời kỳ tâm thu, khi cứng mạch thì áp lực tống máu tâm thu phải tăng
lên để thắng quán tính của động mạch làm tăng áp lực tâm thu nên tăng áp lực

ứng với tình trạng tăng gánh huyết động. Tăng khối lượng cơ tim chủ yếu là
18

do phì đại các tế bào cơ tim. Khi đó khối lượng cơ tim tăng lên, kiểu phì đại
cơ tim theo cơ chế này thường là dạng phì đại đồng tâm.
Tăng cường cơ chế thần kinh thể dịch: tác động vào hệ giao cảm làm
tăng tính co bóp tăng tần số tăng thể tích tuần hoàn. Cơ chế này kéo dài sẽ
làm tổn hại cơ tim góp phần làm phì đại cơ tim [40].
1.2.7.2. Dày thất trái với cứng động mạch chủ
Mối liên hệ giữa cứng động mạch chủ và khối cơ thất trái dã được nhiều
tác giả công nhận [16], [28], [32], [42], [62]. Ở những người bị bệnh mạch
vành Christoph D.Gatzka, thấy rằng chỉ số cứng động mạch chủ tăng cao so
với người bình thường kèm theo đó là sự gia tăng chỉ số khối cơ thất trái một
cách có ý nghĩa [28]. Sự gia tăng cứng động mạch chủ làm gia tăng hậu gánh
cho tâm thất trái làm thất trái tăng co bóp tăng tiêu thụ oxy nếu quá trình này
kéo dài sẽ làm tổn thương cơ thất trái và gây phì đại thất trái [37], [42], [62].
Sự cứng động mạch chủ lên quan với phì đại thất trái ở cả bệnh nhân tăng
huyết áp và người không bị bệnh tăng huyết áp, Gerstenblith và cộng sự nhận
thấy có tới 30 % người bình thường có sự liên quan giữa tăng sự cứng động
mạch chủ và tăng khối cơ thất trái khi tác giả khảo sát sự cứng động mạch chủ
ở những người tuổi từ 25 đến 84 [42], [61].
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CỨNG MẠCH CHỦ TRONG VÀ
NGOÀI NƢỚC
Trong nước đã có một số tác giả nghiên cứu về mạch máu như Trần
Công Đoàn nghiên cứu về tính chất hình thái của động mạch chủ bụng và
động mạch chậu, theo tác giả này động mạch càng gần tim thì tính đàn hồi
càng cao do đó động mạch chủ là động mạch có tính đàn hồi cao nhất. Khi
đánh giá vận tốc lan truyền sóng mạch tác giả Đinh Thị Thu Hương nhận xét
rằng tuổi có ảnh hưởng đến sự cứng của động mạch, theo Nguyễn Tuấn Vũ
19


2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Nhóm bệnh
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 52 bệnh nhân được chuẩn đoán tăng
huyết áp, tuổi 45 trở lên đến khám và điều trị tại bệnh viện trường đại học y
dược Huế từ tháng 4 /2009 đến tháng 7/2010.
2.1.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh
* Tiêu chuẩn chẩn đoán tăng huyết áp.
Trong nghiên cứu này chúng tôi áp dụng phân độ tăng huyết áp của tổ
chức y tế thế giới và hội tăng huyết áp Việt Nam năm 2007 [8], [9], [43].
Bảng 2.1. Phân độ tăng huyết áp ở người trên 18 tuổi.
Phân độ
HATT (mmHg)
HATTr (mmHg)
HA tối ưu
<120
<80
HA bình thường
<130
<85
HA bình thường cao
130-139
85 -90
THA độ 1
140 -159
90 -99
THA độ 2
160 -179
100 -109
THA độ 3

140/90 mmHg, khám lâm sàng tim mạch bình thường.
Nhóm chứng có sự tương đồng về độ tuổi với nhóm bệnh.
2.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Phƣơng pháp nghiên cứu lâm sàng
2.2.1.1. Tiến trình nghiên cứu
Những bệnh nhân được lựa chọn vào nghiên cứu được lập hồ sơ bệnh án
và phiếu điều tra.
Các thông tin về phần hành chính như họ, tên, tuổi, giới, địa chỉ, ngày
vào viện, số vào viện.
22

Hỏi bệnh sử tiền sử.
Đo mạch, nhiệt, huyết áp.
Cân nặng, chiều cao, tính chỉ số BMI, BSA.
Thăm khám tổng quát và tim mạch.
Đo điện tim.
Bilan lipid, ure, creatine máu.
Điện giải đồ, đường máu tĩnh mạch đói.
Xquang phổi.
Soi đáy mắt.
Siêu âm tim (M mode, 2D, Doppler).
2.2.1.2. Các phương tiện nghiên cứu
- Nhiệt kế thủy ngân.
- Ống nghe, máy đo huyết áp đồng hồ ALK2 do Nhật Bản sản xuất, có
điều chỉnh với máy đo huyết áp thủy ngân.
- Cân bàn Trung Quốc có gắn thước đo đã hiệu chỉnh
- Máy đo đường huyết.
- Máy đo điện tim 6 cần.
- Máy siêu âm tim Phillip với đầu dò có thể điều chỉnh tần số 2- 7,5
MHz, có khả năng cho hình ảnh siêu âm tim M mode, 2D, Doppler xung,

Chúng tôi sử dụng máy đo điện tâm đồ 6 cần Cardiovit At.1 của Shiller.
Đo tại phòng thoáng mát yên tĩnh. Sau khi giải thích cho bệnh nhân, bệnh
nhân nằm ngữa bộc lộ rõ lồng ngực, hai tay buông xuôi hai chân duỗi thẳng,
cỡi bỏ các trang sức bằng kim loại. Sau khi kiểm tra máy nguồn điện, bôi kem
điện tim và mắc các điện cực các chi trước ngực đúng quy định. Sử dụng bộ
phận chống nhiễu, tốc độ giấy chạy ghi 25 m/s, biên độ 1mV =1mm. Tiến
hành đo 12 chuyển đạo thông thường: ba chuyển đạo chuẩn DI, DII, DII, ba
chuyển đạo đơn cực chi tăng cường: aVR, aVL, aVF, và sáu chuyển đạo trước
24

tim V1, V2, V3, V4, V5, V6. Nếu nghi ngờ nhồi máu thất phải thì sử dụng
thêm các chuyển đạo V3R, V4R, V5R V6R, kết quả ghi ra giấy để lưu lại.
2.2.2.2. Siêu âm tim
Bệnh nhân được giải thích và nghỉ ngơi 5 phút trước khi tiến hành siêu
âm, tiến hành khám tim mạch, kiểm tra máy nguồn điện mắc các điện cực ghi
ECG đồng thời. Bệnh nhân nằm nghiêng bên trái, người làm siêu âm ngồi bên
phải bệnh nhân, sử dụng đầu dò 5,5 MHz, được cầm bằng tay phải bôi kem
siêu âm sau đó tiến hành siêu âm tim đánh giá cấu trúc hình thái chức năng
tim. Trong nghiên cứu chúng tôi sử dụng siêu âm M Mode, 2D và siêu âm
Doppler để đo các chỉ số của động mạch chủ, kết quả thu được lấy giá trị
trung bình của 3 lần đo liên tiếp với 3 chu chuyển tim khác nhau
* Các phép đo trên siêu âm M Mode.
Đặt đầu dò ở liên sườn 2-3 cạnh ức trái, khảo sát toàn bộ tim qua hai
bình diện theo mặt cắt cạnh ức trục dọc, sử dụng siêu âm M mode qua hai thất
van hai lá và nhát cắt qua động mạch chủ. Đo theo khuyến cáo của hội siêu
âm Hoa Kỳ A.S.E (American Society Echocardiography) [13].

Hình 2.1. Phương pháp đo trên siêu âm M Mode theo hội siêu âm hoa kỳ [13]

25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status