Báo cáo khoa học: "VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI SAU 20 NĂM ĐỔI MỚI" potx - Pdf 20


VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ
CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI SAU 20 NĂM ĐỔI
MỚI

ThS. NGUYỄN THẾ TẤN
Bộ môn Đường lối CM của Đảng CSVN
Khoa Lý luận chính trị
Trường Đại học Giao thông Vận tải

Tóm tắt: Năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi
mới đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó thừa nhận sự tồn tại và
phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần. Bài báo trình bày vai trò của thành phần kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài sau 20 năm đổi mới, trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước
ta.
Summary: VietNam’s communist party mitiated and led the national reforms in all social
aspects, in which, the existence and development of the multi – sectoral economy were
acknowledged. The article presents some achievements of the economic sector with foreig
investment after 20 years reforms in the multi – sectoral economy of VietNam. I. ĐẶT VẤN ĐỀ
MLN-
VTKT
Một trong những nguyên nhân quan trọng
đem đến sự thành công của công cuộc đổi mới
đất nước là Đảng ta đã nắm vững và vận dụng
sáng tạo, phù hợp những nguyên lý của học
thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
vào quá trình đổi mới, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, kết hợp chặt chẽ đổi mới kinh tế với

tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại tạo thêm nhiều việc làm "[1,99]. Đại
hội X của Đảng (4/2006), tiếp tục khẳng định
"Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
là một bộ phận quan trong của nền kinh tế
Việt Nam, được đối xử bình đẳng như doanh
nghiệp Việt Nam trong kinh doanh” [2,238]
cần phải "Tạo điều kiện cho đầu tư nước
ngoài tham gia nhiều hơn vào phát triển các
ngành, các vùng lãnh thổ phù hợp với các cam
kết quốc tế của nước ta"
[2,238].
Như vậy, từ chỗ phủ nhận sự tồn tại, đến
chỗ thừa nhận và coi khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài là một thành phần kinh tế độc lập,
thể hiện sự nhận thức và đánh giá đúng bản
chất, vai trò của thành phần kinh tế này trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta.
Để tạo điều kiện cho thành phần kinh tế
này phát triển, Đảng và Nhà nước đã đề ra
nhiều giải pháp thực hiện, đa dạng hoá hình
thức và cơ chế đầu tư, bảo đảm tính thống
nhất, ổn định, minh bạch và ngày càng hấp
dẫn trong chính sách đầu tư nước ngoài, chú
trọng phát triển các hình thức tổ chức kinh tế
đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu giữa
các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong

các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã tạo ra
doanh thu tăng khoảng 24% năm, kim ngạch
Xuất khẩu tăng 22% năm. Doanh thu những
năm 1991 -1995 khoảng 4 tỷ USD, giai đoạn
1996 - 2000 là 27 tỷ USD tăng gấp 6.7 lần.
Tính chung từ năm 1988 - 2004, vốn đầu tư
nước ngoài đã tạo ra khoảng 14,3% tổng GDP
của cả nước"
[3.200; 201].
Dưới tác động của thành phần kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài, thông qua các hoạt
động đầu tư của các doanh nghiệp dưới hình
thức 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh,
liên kết, nước ta đã hình thành các ngành công
nghiệp mới mà trước kia hầu như chưa có như:
khai thác dầu khí, công nghiệp ô tô, công
nghiệp xe máy, công nghiệp điện tử với tỷ lệ
nội địa hoá trong quá trình sản xuất ngày càng
cao. Trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng, đầu
tư nước ngoài đã tạo ra quá trình chuyển giao
công nghệ hiện đại vào Việt Nam, góp phần
đào tạo lực lượng lao động có tay nghề cao,
từng bước làm chủ các công nghệ hiện đại.
Nước ta đi lên xây dựng từ một xuất phát
điểm thấp kém, một nền kinh tế nông nghiệp
lạc hậu. Trước đây, do nhiều nguyên nhân từ
khách quan và chủ quan, cơ cấu kinh tế ở
nước ta chưa hợp lý, chưa phát huy được thế
mạnh vốn có của đất nước. Hoạt động đầu tư
nước ngoài, sự xuất hiện kinh tế có vốn đầu tư

thông qua bằng các hoạt động đầu tư. Từ khi
thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng luôn luôn
khẳng định thực hiện nhất quán chính sách
kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo định hướng
XHCN. Trên lĩnh vực kinh tế, điều quan trọng
nhất là phải xây dựng được một nền kinh tế
độc lập tự chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng, khu
vực kinh tế XHCN phải giữ được vai trò chủ
đạo.
Nhằm thực hiện các mục tiêu của công
cuộc đổi mới, trên lĩnh vực thu hút đầu tư
nước ngoài, hệ thống pháp luật đầu tư của
nước ta từng bước được sửa đổi, phù hợp các
thông lệ quốc tế, từ đó tạo ra khả năng thu hút
một lượng lớn đầu tư nước ngoài. Kết quả đầu
tư nước ngoài đã tác động đến kinh tế vĩ mô,
giúp chính phủ chủ động trong việc bố trí
ngân sách trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội và giải quyết các mục tiêu xã
hội, điều này thể hiện rõ trong việc đóng góp
vào GDP chung của đất nước. "Năm 1993, tỷ
lệ của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài trong GDP là 3,6%, năm 2004 là 15,2%,
năm 2005 là 18%. Đầu tư nước ngoài đã tăng
thu ngân sách Nhà nước thông qua việc đóng
thuế và phí: Năm 2001 số thu ngân sách của
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 7%,
năm 2002 chiếm 8%, năm 2003 chiếm 9%,
năm 2004 chiếm 10%"
[3.310]. Đầu tư nước

Ba là, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
tác động đến quan hệ đối ngoại và quá trình
hội nhập quốc tế của nước ta. Công cuộc đổi mới của nước ta diễn ra
trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động lớn,
nhưng xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển
giữa các quốc gia vẫn là xu thế chủ đạo, điểm
nổi bật là xu hướng liên kết kinh tế. Các nước
trên thế giới đều coi trọng, ưu tiên hợp tác để
phát triển kinh tế. Nước ta trong quá trình thực
hiện đổi mới cần phải phát huy được sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa Việt Nam
vào ngôi nhà chung của thế giới, phát triển đi
lên. Thành tựu của ngoại giao và quá trình hội
nhập quốc tế của nước ta có vai trò quan trọng
từ các hoạt động đầu tư nước ngoài, khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Từ sau năm 1986, cùng với việc chuyển
đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
định hướng XHCN, nước ta đã từng bước tạo
lập những điều kiện kinh tế và cơ sở pháp lý
cho việc liên kết, hợp tác kinh tế với các nước.
Sau khi Nhà nước ban hành luật đầu tư nước
ngoài tháng 12 -1987, với nhiều lần bổ sung
sửa đổi, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
đã tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho hoạt
động đầu tư nước ngoài phát triển. Hoạt động

thông qua các hoạt động đầu tư nước ngoài,
nước ta đã từng bước hình thành một thành
phần kinh tế độc lập, riêng biệt, góp phần
quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Bên cạnh các mặt tích cực, hoạt
động đầu tư nước ngoài hiện nay còn một số
tồn tại, hạn chế như: Sự mất cân đối về ngành
nghề, vùng lãnh thổ trong quá trình đầu tư,
vấn đề tranh chấp lao động trong khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài chậm được giải quyết,
sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ
Nước ta cần phải tiếp tục phát huy các thành
tựu đạt được, khắc phục dần các hạn chế, để
đưa hoạt động đầu tư nước ngoài, thành phần
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động
lành mạnh, hiệu quả, đáp ứng mục tiêu công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

Tài liệu tham khảo
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị
Quốc gia. Hà Nội, 2001.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2006.
[3]. Nguyễn Bích Đạt: Khu vực kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2006♦


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status