thực tiễn chống bán phá giá trong thương mại quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với việt nam - Pdf 21

1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Dẩy mạnh và khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm của Việt Nam một
cách có hiệu quả ra các thị trường chiến lược luôn được Đảng và Nhà nước ta coi
là một trong những phương hướng quan trọng phục vụ sự phát triển kinh tế của
đất nước. Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác
định nhiệm vụ: “tăng nhanh xuất khẩu, nhập khẩu. Đẩy mạnh tự do hóa thương
mại phù hợp các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế mà Việt Nam tham gia khai
thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta
là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)”. Báo cáo chính trị Đại hội đại
biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI vừa qua tiếp tục nhấn mạnh: “đẩy mạnh và
khuyến khích xuất khẩu, đặc biệt là những mặt hàng mới, sản phẩm chế biến có
hàm lượng khoa học, công nghệ cao, giá trị gia tăng cao”. Tuy nhiên, hoạt động
xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam cũng gặp rất nhiều khó khăn do chính sách bảo
hộ mậu dịch của các nước nhập khẩu. Trong số các biện pháp bảo hộ được áp
dụng phổ biến và hợp pháp trong thương mại quốc tế hiện nay, chống bán phá giá
(chống BPG) là biện pháp bảo hộ được các nước nhập khẩu áp dụng nhiều nhất
để bảo hộ ngành sản xuất trong nước của mình. Có thể thấy, để thực hiện tốt
những nhiệm vụ mà các Văn kiện của Đảng đã đề ra, một vấn đề quan trọng là
phải hiểu một cách thấu đáo về chính sách và Pháp luật về chống BPG của những
thị trường xuất khẩu chủ lực của hàng hóa Việt Nam, cụ thể là Hoa Kỳ và Liên
minh châu Âu (EU), cũng như luật lệ về chống BPG của WTO để có những biện
pháp ứng phó phù hợp và hiệu quả, giúp cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam
tránh được những thiệt hại vô lý do chính sách và pháp luật về chống BPG của
các nước nhập khẩu gây ra.
Dưới góc độ thực tiễn của Việt Nam, cùng với việc hội nhập vào nền kinh
tế thế giới, chúng ta phải đối mặt với ngày càng nhiều các vụ kiện chống BPG.
Vụ kiện đầu tiên mà Việt Nam gặp phải là vào năm 1994 và đến nay tổng số vụ
2
kiện chống BPG mà Việt Nam có liên quan đã lên tới con số 36 tính đến tháng 12

Nam thường rơi vào thế bất lợi trong các vụ kiện chống BPG. Tuy nhiên, đào tạo
được đội ngũ chuyên gia giỏi không phải là công việc có thể làm trong một sớm
một chiều. Công việc cần phải làm trước tiên là tiến hành nghiên cứu một cách
thấu đáo luật lệ về chống BPG của WTO và của một số hệ thống pháp luật về
chống BPG quốc gia lớn trên thế giới như Hoa Kỳ và EU để hình thành các tài
liệu tham khảo đáng tin cậy phục vụ công tác đào tạo.
Thực hiện chủ trương mà Đảng đề ra, xuất phát từ thực tiễn các vụ kiện
chống BPG mà Việt Nam có liên quan và thực trạng pháp luật của Việt Nam
cũng như nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho thấy tính cấp thiết
cao, cả về lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài về Pháp luật về chống
BPG trong thương mại quốc tế, đặc biệt là của WTO, Hoa Kỳ và EU. Về mặt lý
luận, Pháp luật về chống BPG của WTO chi phối trực tiếp các quan hệ thương
mại quốc tế, còn pháp luật về chống BPG của Hoa Kỳ và EU thường được coi là
có ảnh hưởng lớn tới Pháp luật về chống BPG của các nước trên thế giới. Nghiên
cứu sâu về Pháp luật về chống BPG của WTO sẽ giúp thấy được bức tranh tổng
thể về Pháp luật về chống BPG toàn cầu. Trong khi đó nếu kết hợp với Pháp luật
về chống BPG của Hoa Kỳ và EU sẽ giúp có được cái nhìn toàn diện hơn về nội
dung hiện tại cũng như xu hướng phát triển của Pháp luật về chống BPG của các
nền kinh tế lớn và qua đó là của thương mại quốc tế nói chung.
Về mặt thực tiễn, đề tài cũng có tính cấp thiết cao. Qua việc nghiên cứu
sâu Pháp luật về chống BPG của WTO, Hoa Kỳ và EU, tác giả sẽ đưa ra được
những khuyến nghị mang tính thực tế về việc cần phải chú trọng tới những yếu tố
nào và cần phải làm gì để giúp cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tránh được
một cách tốt nhất nguy cơ bị áp thuế chống BPG khi xuất khẩu sang các nước
thành viên WTO mà trực tiếp là hai thị trường Hoa Kỳ và EU. Việc nghiên cứu
kỹ hệ thống luật lệ của WTO, Hoa Kỳ và EU về chống BPG cũng góp phần cung
cấp kinh nghiệm để hoàn thiện hệ thống Pháp luật về chống BPG của Việt Nam
hiện nay.
4
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phát hành như cuốn Hỏi đáp pháp luật về
chống BPG WTO-Hoa Kỳ-EU (2009), Cẩm nang kháng kiện chống BPG và
chống trợ cấp tại Liên minh châu Âu (2009), Cẩm nang kháng kiện chống
BPG và chống trợ cấp tại Hoa Kỳ (2009). Những công trình này tuy không
mang tính chất học thuật nhưng cũng cung cấp những thông tin và kiến thức
phổ thông hữu ích đáng tham khảo về chống BPG.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu về Pháp luật về chống BPG
của WTO, Hoa Kỳ và EU ở Việt Nam đã đề cập tới khái niệm và đặc điểm của
hoạt động BPG và chống BPG trong thương mại quốc tế. Cụ thể, công trình
nghiên cứu của tác giả NgAuyễn Hữu Khải (2007) đề cập tới chống BPG trong
mối quan hệ với những biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước khác như hàng
rào kỹ thuật, trợ cấp của nhà nước đối với các doanh nghiệp Công trình
nghiên cứu của tác giả Đinh Thị Mỹ Loan (2007) chú trọng tới khía cạnh thực
tế của vấn đề là tác động của việc áp dụng các biện pháp chống BPG trong
thương mại quốc tế đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Tác phẩm này
cũng đưa ra một số đề xuất để ứng phó với các vụ kiện chống BPG hàng hoá
xuất khẩu của Việt Nam.
Các bài báo trên các tạp chí đề cập tới chống BPG ở những khía cạnh cụ
thể và thực tế. Phần lớn trong số đó tập trung đưa ra một số giải pháp nhằm cải
thiện tình hình hàng hoá Việt Nam bị kiện chống BPG trong thương mại quốc
tế. Có những bài báo chú trọng tới việc tham khảo kinh nghiệm có liên quan
của các nước có điều kiện tương tự ở Việt Nam, ví dụ bài báo của Lê Huy
Trọng (2004).
Chủ đề pháp luật về chống BPG của Việt Nam cũng đã có khá nhiều
công trình nghiên cứu. Điển hình là các công trình của Nguyễn Đình Chiến,
Để áp dụng thành công thuế đối kháng, thuế chống BPG ở Việt Nam (Tạp chí
Tài chính, 2003), Thanh Tùng, Khung pháp lý về chống BPG đối với hàng hóa
6
nhập khẩu vào Việt Nam (Tạp chí Kế toán, 2004), Nội dung cơ bản của Pháp
lệnh chống BPG hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam (NXB Tư Pháp, 2004),

những hệ thống này có các tác phẩm của Clive Stanbrook và Philip Bentley,
Dumping and subsidies: the law and procedures governing the imposition of
anti-dumping and countervailing duties in the european community (1996), Keith
Steele (editor), Anti-dumping under the WTO: a comparative review, (1996),
Wolfgang Muller, EC anti-dumping law: a commentary on regulation 384/96,
Nicholas Khan (1998), Sebastian Farr, EU anti-dumping law: pursuing and
defending investigations (1998), Pierre Didier, WTO trade instruments in EU
law: commercial policy instruments: dumping, subsidies, safeguards, public
procurement (1999), Brink Lindsey, Antidumping Exposed: The Devilish Details
of Unfair Trade Law, Cato Institute (2003), Wenxi Li, Anti-dumping law of the
WTO/GATT and the EC: gradual evolution of anti-dumping law in global
economic integration (2003), Aradhna Aggarwal, The Anti-Dumping Agreement
and Developing Countries: An Introduction, Oxford University Press (2007),
Yan Luo, Anti-dumping in the WTO, the EU and China: The Rise of Legalization
in the Trade Regime and its Consequences, Kluwer Law International (2010).
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài thường trình bày,
phân tích và bình luận rất chi tiết về quy định của WTO cũng như pháp luật của
Hoa Kỳ và EU về chống BPG. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có các nghiên
cứu mang tính học thuật của nước ngoài về tác động của Pháp luật về chống
BPG của WTO, Hoa Kỳ và EU đối với hàng hóa của Việt Nam để từ đó đề
xuất các định hướng, giải pháp thiết thực nhằm giúp Việt Nam ứng phó hiệu
quả với các vụ kiện chống BPG ở các thị trường này.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Dối tượng nghiên cứu của luận án bao gồm các vấn đề: các quan điểm, tư
tưởng luật học về BPG và chống BPG; các quy định trong pháp luật thực định về
chống BPG của WTO, Hoa Kỳ và EU; pháp luật Việt Nam về chống BPG; và
8
thực tiễn chống BPG đối với hàng hóa Việt Nam tại Hoa Kỳ và EU; thực tiễn
chống BPG hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam.
Về phạm vi nghiên cứu, luận án chỉ nghiên cứu về BPG và chống BPG

thương mại quốc tế toàn cầu. Pháp luật về chống BPG trong thương mại quốc tế
của Hoa Kỳ và EU đều có ảnh hưởng lớn trong thương mại quốc tế và đối với các
nước trên thế giới. Mặt khác, đây cũng là hai thị trường xuất khẩu chính của Việt
Nam nơi mà hàng hóa Việt Nam luôn được coi là hàng hóa giá rẻ và thường có
nguy cơ bị kiện chống BPG cao. Chính vì vậy việc chọn WTO, Hoa Kỳ và EU sẽ
vừa giúp cho luận án có thể tập trung được vào những hệ thống luật lệ cốt lõi
nhất và điển hình nhất của pháp luật về chống BPG trong thương mại quốc tế,
đồng thời vừa có thể đưa ra được những khuyến nghị hữu ích, trực tiếp nâng cao
hiệu quả của công tác xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ và EU.
4. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Dể làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu nêu trên, luận án sử dụng kết hợp
nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau, như phương pháp tổng hợp
và phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và đối chiếu, kết hợp
nghiên cứu lý luận với thực tiễn Các phương pháp nghiên cứu trong Luận án
được thực hiện trên nền tảng của phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, trên cơ sở các quan điểm, đường lối về chính trị,
kinh tế, văn hóa và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phương pháp so sánh
là phương pháp chủ đạo được sử dụng trong hầu hết các chương của luận án,
đặc biệt là Chương 2 khi so sánh các quy định tương ứng của pháp luật WTO,
Hoa Kỳ và EU điều chỉnh các lĩnh vực của chống BPG. Tương tự, phương pháp
kết hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn cũng được sử dụng xuyên suốt trong
toàn bộ nội dung của luận án. Phương pháp tổng hợp và phân tích được sử dụng
như những phương pháp bổ trợ cho phương pháp so sánh.
10
5. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Nhận thức rõ về tính cấp thiết cũng như tình hình nghiên cứu đề tài, mục
đích trực tiếp của luận án được xác định là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và nội dung
luật thực định của Pháp luật về chống BPG của WTO, Hoa Kỳ và EU, rút ra được
những nội dung thống nhất trong Pháp luật về chống BPG chi phối các luồng
thương mại quốc tế và xu hướng vận động, phát triển chung của Pháp luật về

- Phân tích và đưa ra những kiến nghị phù hợp để doanh nghiệp xuất khẩu
của Việt Nam và Chính phủ Việt Nam phòng tránh và ứng phó một cách có hiệu
quả các vụ kiện chống BPG tại Hoa Kỳ và EU.
- Phân tích đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và việc thực
thi Pháp luật về chống BPG của Việt Nam từ góc độ kinh nghiệm của Pháp luật về
chống BPG và thực thi Pháp luật về chống BPG của Hoa Kỳ và EU.
- Phân tích và đưa ra những kiến nghị để Việt Nam hội nhập một cách chủ
động và có hiệu quả hơn vào WTO trong lĩnh vực chống BPG.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Luận án bao gồm phần mở đầu, nội dung, phần kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phần phụ lục. Nội dung luận án được bố cục thành ba chương, có kết
luận của từng chương:
Chương 1: Các vấn đề lý luận về chống bán phá giá và pháp luật về chống
bán phá giá trong thương mại quốc tế.
Chương 2: Pháp luật về chống bán phá giá của WTO, Hoa Kỳ và EU
Chương 3: Thực tiễn chống bán phá giá trong thương mại quốc tế và
những vấn đề đặt ra đối với Việt nam.
12
CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ VÀ PHÁP LUẬT
VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1. Các khái niệm cơ bản về chống bán phá giá
1.1.1. Khái niệm bán phá giá
Về mặt lịch sử, thuật ngữ “bán phá giá” lần đầu tiên được sử dụng để chỉ
một hiện tượng gắn liền với quá trình công nghiệp hoá ngày càng rộng rãi và
cuộc cách mạng về giao thông vận tải của Chủ nghĩa tư bản [82, tr.7-11, 81,
tr.19-26]. Những phát minh trong khoa học dẫn đến những thay đổi mang tính
đột phá về công nghệ sản xuất đã làm cho năng suất lao động ngày càng tăng và
nhờ đó giá thành sản xuất ngày càng thấp. Sự ra đời của máy hơi nước và sau đó
là động cơ đốt trong cũng tạo nên bước đột phá trong phương tiện chuyên chở

quốc gia” hay nói một cách khác là “sự phân biệt về giá giữa các thị trường
quốc gia” [90, tr.3]. Có thể nói rằng đây là một định nghĩa rất khái quát về BPG.
Nội dung của nó chỉ đơn giản là nếu một nhà sản xuất bán hàng hóa của mình ở
nước của mình hoặc ở một nước nào đó với mức giá phân biệt với giá bán vào
nước nhập khẩu thì đã được coi là có BPG. Trong thực tiễn khái niệm đơn giản
về BPG này đã được các nhà chuyên môn bổ sung thêm một số đặc điểm để làm
cho nội hàm của nó rõ hơn như sau:
Thứ nhất, với khái niệm như trên, BPG sẽ bao trùm một phạm vi rất rộng
các hành vi phân biệt giá bán giữa các thị trường quốc gia: đó có thể là việc bán
hàng hóa ở nước nhập khẩu với mức giá thấp hơn mức giá ở nước xuất khẩu hay
bán hàng hóa ở nước nhập khẩu với mức giá thấp hơn ở thị trường của nước nhập
khẩu khác, hay thậm chí còn có thể là việc bán hàng hóa ở nước nhập khẩu với
mức giá cao hơn mức giá ở nước xuất khẩu.
Trong điều kiện thương mại quốc tế và kinh tế bình thường, hàng hóa sản
xuất ở một nước khi đem bán ở một nước khác thường sẽ có giá bán cao hơn ở thị
14
trường nội địa do phải chịu chi phí chuyên trở, đóng gói và thuế quan khi nhập
khẩu. Vì thế việc phân biệt giá bán theo nghĩa giá ở thị trường nhập khẩu cao hơn
giá ở thị trường xuất khẩu là hiện tượng bình thường và không thể coi là BPG.
Khái niệm BPG, như vậy, chỉ được dùng khi giá bán ở thị trường nhập khẩu thấp
hơn giá bán ở thị trường xuất khẩu hoặc một nước nhập khẩu thứ ba.
Thứ hai, trong thương mại quốc tế, điều kiện địa lý và thị trường ở hai
quốc gia khác nhau hiển nhiên là phải khác nhau. Việc giá bán của cùng một
hàng hóa giữa hai quốc gia khác nhau là một hiện tượng phổ biến và bình thường
vì thế không thể coi một cách cơ học rằng nếu giá bán ở thị trường nhập khẩu
thấp hơn ở thị trường xuất khẩu thì đã có hiện tượng BPG. Trên thực tế cần phải
xem xét xem liệu các lý do của việc chênh lệch giá đó có xuất phát từ những khác
biệt khách quan dẫn tới chi phí khác nhau đối với hàng hóa khi đem bán ở hai thị
trường khác nhau hay không. Nếu sự khác biệt giá là do các yếu tố này gây ra thì
sự khác biệt giá đó là tất yếu và không thể coi là BPG. Còn ngược lại thì sự

trường nội địa của nước xuất khẩu.
Cùng với xu hướng mở rộng ra, khái niệm BPG khi được luật hóa cũng trở
nên chính xác hơn. Thực tiễn các hoạt động kinh tế trong một quốc gia đã hết sức
phong phú song thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế còn nhiều lần phong phú
hơn. Nếu chỉ quy định rằng BPG là việc bán hàng hóa ở nước nhập khẩu với mức
giá thấp hơn giá của hàng hóa ở nước xuất khẩu thì sẽ rất khó xác định khi nào
thì một lô hàng hóa xuất khẩu cụ thể có BPG hay không. Bởi vì hàng hóa có thể
được sản xuất ra và tiêu thụ với nhiều mức giá khác nhau ngay tại thị trường nội
địa. Có thể là ngay giữa các khu vực khác nhau trong cùng thị trường nội địa mức
giá của hàng hóa đã có thể không giống nhau. Điều tương tự cũng xảy ra đối với
giá của hàng hóa khi bán tại thị trường nhập khẩu. Như vậy là rất khó xác định
khi nào thì có BPG và khi nào không. Nếu so sánh giá tiêu thụ ở thị trường nhập
khẩu với mức giá ở vùng đô thị của nước xuất khẩu thì có thể không có BPG,
trong khi đó nếu so sánh với mức giá ở vùng sâu vùng xa nơi có chi phí vận
chuyển và bảo quản cao thì có khi đã có BPG.
16
Chính vì đặc điểm trên đây nên luật lệ của WTO và Pháp luật về chống
BPG của các nước trên thế giới đều cố gắng lượng hóa khái niệm BPG một cách
chính xác ở mức độ tối đa có thể. Để lượng hóa, người ta thường so sánh một
mức giá bán nhất định của hàng hóa tại thị trường nhập khẩu với một giá trị nhất
định của hàng hóa ở thị trường nội địa của nước xuất khẩu hoặc ở thị trường khác
tương tự với thị trường đó. Nói một cách khác, đây là phép so sánh giữa “giá xuất
khẩu” của hàng hóa với “giá trị thông thường” của hàng hóa theo các tiêu chí xác
định. Khái niệm BPG được xác định theo cách này được thể hiện rõ nét trong quy
định của WTO cụ thể tại khoản 1 Điều VI của GATT 1994 có nêu:
“Các bên ký kết công nhận rằng BPG, theo đó hàng hóa của một nước
được đưa vào thương mại ở một nước khác với giá trị thấp hơn giá trị thông
thường của hàng hóa đó, phải bị lên án nếu như nó gây ra hoặc đe dọa gây ra
thiệt hại lớn đối với một ngành công nghiệp đã được thiết lập trên lãnh thổ của
một nước ký kết hoặc cản trở nghiêm trọng việc thiết lập một ngành sản xuất nội

không có ý định xâm hại tới môi trường cạnh tranh của thị trường mới.
Thứ hai, trong trường hợp mở rộng quy mô sản xuất để tối đa hoá lợi
nhuận, doanh nghiệp có thể sẽ có nhu cầu bán hàng với mức giá thấp để khuếch
trương hàng hóa trong thị trường mới, đặc biệt khi doanh nghiệp đang theo đuổi
chương trình khuyến mãi dài kỳ ở thị trường mới để chiếm lĩnh thị phần.
Thứ ba, trong trường hợp doanh nghiệp sản xuất tối đa công suất và giá
của hàng hóa ở thị trường trong nước đã bị khống chế bởi nhà nước hoặc bởi các
tập đoàn mà doanh nghiệp là thành viên, doanh nghiệp có thể sẽ chỉ có cách lựa
chọn duy nhất là hạ giá hàng hóa ở thị trường khác để cắt giảm lỗ.
Thứ tư, cũng có thể có trường hợp doanh nghiệp đã có thế đứng và tiềm
lực rất tốt trong nước và muốn chiếm lĩnh thị trường nước ngoài bằng cách loại
bỏ các đối thủ cạnh tranh ở thị trường nước ngoài. Trong trường hợp đó, doanh
nghiệp có thể lợi dụng sự vững chắc của thị phần trong nước để bán hàng hóa với
18
mức giá rất thấp ở thị trường nước ngoài trong một thời gian dài nhằm loại bỏ các
đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường đó. Khi đó, mục đích cuối cùng mà doanh
nghiệp hướng tới rất có thể là vị thế thống lĩnh thị trường để từ đó chiếm thế độc
quyền tiếp theo là nâng giá bán để tối đa hoá lợi nhuận.
Thứ năm, khi một doanh nghiệp đang thử nghiệm một dòng hàng hóa mới
ở thị trường mới, doanh nghiệp có thể sẽ bán hàng hóa thử nghiệm với mức giá
thậm chí thấp hơn chi phí bỏ ra với mục đích dành được sự chú ý và chấp nhận
của người tiêu dùng đối với hàng hóa mới.
Thứ sáu, có một số trường hợp, sự thiếu thông tin về thị trường mới làm
cho doanh nghiệp phải ký hợp đồng và ấn định giá bán hàng hóa trước khi bắt
đầu sản xuất hàng hóa. Những biến động giá đầu vào cùng với sự thiếu tính toán
trước có thể làm cho mức giá ấn định trước thấp hơn so với chi phí sản xuất thực
tế sau đó.
Thứ bảy, cuối cùng, đối với một số ngành sản xuất có mức độ tập trung tư
bản cao như công nghiệp luyện thép hoặc thu hoạch theo mùa như nông sản, luôn
luôn có những thời kỳ hàng hóa bị dôi ra so với nhu cầu của thị trường. Khi đó,

chất lượng khác nhau, nên nhà xuất khẩu vẫn có thể có lãi cho dù là bán hàng hóa
với mức BPG.
- Nhóm BPG theo chu kỳ hay BPG tuần hoàn (Cyclical dumping): động cơ
của việc BPG loại này là do chi phí cơ hội hay chi phí cận biên để sản xuất hàng
hóa thấp do đặc thù của hoạt động sản xuất. Nói một cách cụ thể hơn, khi vào
một thời kỳ sản xuất nào đó mà nhà máy đã vận hành gần hết công suất và do đó,
chi phí thêm để sản xuất thêm hàng hóa là rất thấp, nhà sản xuất sẽ có khả năng
xuất khẩu những hàng hóa được sản xuất thêm đó sang thị trường nước khác với
mức giá thấp mà vẫn có thể có lãi, ví dụ như ngành luyện thép trong thời kỳ đang
dôi dư hàng hóa .v.v.
- Nhóm BPG trả đũa (Reciprocal dumping): Đây là nhóm các hoạt động
BPG mới xảy ra trong những năm gần đây. Hoạt động này được thực hiện khi
20
một vài công ty cùng sản xuất một loại hàng hoá và cùng chiếm phần lớn thị phần
ở nước mình. Các công ty này đều muốn mở rộng thị trường sang nước khác và
vì thế BPG hàng hóa. Tuy nhiên, giá bán vẫn cao hơn chi phí cận biên và chi phí
vận tải. Khi đó, đối thủ cạnh tranh ở nước nhập khẩu cũng muốn cạnh tranh lại.
Vì thế họ cũng bán hàng hóa theo cách tương tự ở nước xuất khẩu ban đầu. Lúc
này, thị trường hai nước giống như hai mảng thị trường ở một quốc gia vậy và
doanh nghiệp xuất khẩu của nước này BPG để trả đũa hoạt động BPG của doanh
nghiệp xuất khẩu của nước kia. Trường hợp này khá phổ biến đối với ngành sản
xuất các mặt hàng mới cho nền kinh tế thế giới, bởi vì khi đó số lượng nhà sản
xuất loại hàng hóa đó đang còn ít và dễ khống chế giá bán của hàng hóa ở thị
trường nội địa của mình.
- Nhóm BPG chiến lược (strategic dumping): đây là những hoạt động BPG
nhằm tới mục đích gây tổn hại cho các công ty cạnh tranh ở nước nhập khẩu. Nhà
xuất khẩu trong trường hợp này có xu hướng BPG một cách có chiến lược và dài
hạn với hai yếu tố là bán giá thấp tại thị trường nhập khẩu đồng thời ngăn cản nhà
xuất khẩu của nước nhập khẩu thâm nhập thị trường của nước xuất khẩu. Trường
hợp này hay xảy ra đối với những công ty có quy mô thị phần lớn ở nước xuất

chịu lỗ trong một thời gian dài để hy vọng sẽ có được lãi suất đủ lớn trong tương
lai từ vị trí thống lĩnh thị trường [82, tr.16]. Theo Trebilcock và Howse, BPG tiêu
diệt là việc bán hàng hóa với giá thấp hơn chi phí một cách có hệ thống để đe doạ
hoặc/và loại bỏ đối thủ ra khỏi thị trường để rồi sau đó sẽ thu lại lợi nhuận bù đắp
bằng cách đẩy giá hàng hóa lên cao hơn mức bình thường nếu có tình trạng độc
quyền [89, tr.253-255]. Theo Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD), BPG
tiêu diệt là một chiến lược dài kỳ, thường là của một doanh nghiệp đã có vị trí
thống lĩnh trong thị trường, nhằm loại trừ các đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị
trường bằng cách áp giá bán hàng hóa rất thấp hoặc thậm chí là dưới mức chi phí
thay đổi trung bình (average variable cost). Một khi doanh nghiệp này đã loại trừ
được các đối thủ cạnh tranh hiện tại và ngăn ngừa được các đối thủ mới muốn
22
xâm nhập thị trường nó có thể sẽ nâng giá bán hàng hóa và kiếm được lợi nhuận
nhiều hơn thông thường.
Như vậy, BPG tiêu diệt là một hình thức phức tạp của hành vi BPG. Cho
dù là được nhìn nhận từ quan điểm nào thì nó cũng gồm có ba dấu hiệu. Thứ
nhất, doanh nghiệp bán giá hàng hóa tại thị trường nhập khẩu với mức giá rất
thấp và trong một khoảng thời gian đủ dài để cho thấy tính hệ thống. Thứ hai,
việc bán giá thấp đó nhằm mục tiêu loại trừ các đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị
trường và ngăn ngừa đối thủ cạnh tranh mới vào thị trường. Như vậy, các đối thủ
cạnh tranh bị loại ra khỏi thị trường không phải vì lý do họ hoạt động không hiệu
quả mà bởi vì họ không thể có đủ tiềm lực để chạy đua chịu lỗ với doanh nghiệp
BPG tiêu diệt. Thứ ba, doanh nghiệp BPG tiêu diệt chấp nhận chịu lỗ cao khi bán
hàng hóa với hy vọng sẽ thu lại lợi nhuận đủ bù đắp khi sau này đã chiếm lĩnh
được vị trí độc quyền hoặc thống lĩnh toàn bộ thị trường. Trong ba dấu hiệu này,
hai dấu hiệu đầu tiên là quan trọng nhất và thường được dùng làm căn cứ để xác
định xem đã có hành vi BPG tiêu diệt xảy ra hay chưa. Dấu hiệu thứ ba liên quan
đến ý chí chủ quan của doanh nghiệp và rất khó có bằng chứng cụ thể để xác
định. Nó chỉ được coi là dấu hiệu phái sinh vì thường được suy diễn từ hai dấu
hiệu trước, bởi vì nếu căn cứ vào động cơ lợi nhuận thì sẽ là vô nghĩa nếu doanh

chất lượng hay quảng bá hàng hóa để thúc đẩy tính cạnh tranh của hàng hóa của
mình. Nếu các doanh nghiệp trong nước có đủ nội lực để duy trì thị trường thì các
hoạt động BPG từ bên ngoài, đặc biệt là ba loại hình BPG đầu tiên như phân tích
trên đây, sẽ chỉ làm cho thị trường nhập khẩu mang tính cạnh tranh hơn, hàng hoá
sẽ càng rẻ hơn và chất lượng tốt hơn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp nội địa không
đủ tiềm lực để duy trì sự cạnh tranh, đặc biệt khi doanh nghiệp nhập khẩu theo
đuổi hành vi BPG thuộc loại thứ tư và thứ năm thì lúc đó họ sẽ bị yếu thế dần và
biến mất. Khi đó, môi trường cạnh tranh ở nước nhập khẩu có thể nói là đã bị ảnh
hưởng tiêu cực.
24
Như vậy, tác động kinh tế nói chung của hành vi BPG đối với nền kinh tế
nhập khẩu xét ở góc độ tổng thể sẽ khó có thể xác định được ngay lập tức là có
lợi hay có hại. Thông thường có thể thấy rằng những người chịu thiệt hại là các
đối thủ cạnh tranh nội địa và cái hại đó có thể xảy ra ngay lập tức khi xuất hiện
hàng hóa BPG. Nền kinh tế nước nhập khẩu nói chung cũng có thể bị thiệt hại
trong thời gian dài hạn. Trong khi đó người tiêu dùng và có thể qua đó nền kinh
tế nói chung lại là những người được hưởng lợi từ giá rẻ. Thật khó có thể xác
định được giữa những cái lợi – hại này, cái nào lớn hơn cái nào.
- Đối với nền kinh tế nước xuất khẩu:
Nhìn chung, tác động của các hành vi BPG đối với nền kinh tế nước xuất
khẩu là tích cực. Cho dù giá bán ở thị trường nước ngoài có thấp nhưng nếu vẫn
đủ để có lãi thì hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu
vẫn sẽ được duy trì và mở rộng. Họ sẽ có nhiều cơ hội thu lãi nhiều hơn, đồng
thời có khả năng tái đầu tư hay đầu tư sang loại hình hàng hóa mới một cách tốt
hơn. Theo đó việc làm trong xã hội và kéo theo đó là phúc lợi xã hội cũng sẽ
được gia tăng. Tác hại có thể thấy được duy nhất đó là trong trường hợp doanh
nghiệp giữ mức giá bán dưới chi phí sản xuất quá lâu dẫn tới vượt quá cả nội lực
của mình. Tuy nhiên, điều này lại hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân doanh
nghiệp và trên thực tế nó khó xảy ra nếu doanh nghiệp có chiến lược và năng lực
quản lý tốt.

chính phủ nước nhập khẩu ra tay trợ giúp ngành sản xuất nội địa của mình bằng
các khoản trợ cấp tài chính dưới các hình thức tín dụng lãi suất thấp, thưởng
khuyến khích sản xuất .v.v. Tuy nhiên, biện pháp này cũng có nhược điểm là phải
chi tiêu từ ngân sách của nước nhập khẩu.
Biện pháp thứ ba có thể áp dụng là thực hiện chống BPG như một hình
thức chế tài trực tiếp chống lại sản phẩm nhập khẩu có BPG. Đây thường là hình
thức được chính phủ các nước nhập khẩu ưa chuộng nhất bởi vì nó là một biện
pháp mang tính chất hành chính, không đòi hỏi nguồn lực tài chính trực tiếp từ

Trích đoạn Pháp luật của WTO về xác định mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá và thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu Pháp luật của Hoa Kỳ về xác định mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá và thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa của Hoa Kỳ Yếu tố lợi ích công cộng trong việc xác định các biện pháp chống bán phá giá Biện pháp tạm thời (provisional measures) Cam kết về giá (price undertaking)
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status