Hoàn thiện nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Kỹ thương chi nhánh Hà Nội – Techcombank chi nhánh Hà Nội - Pdf 22

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lưu Thị Hương
LỜI MỞ ĐẦU
Xu thế toàn cầu hóa đã và đang tác động ngày một sâu sắc tới tất cả các
nền kinh tế trên thế giới, các quốc gia muốn phát triển không thể không tham
gia vào quá trình hội nhập. Ngành ngân hàng tài chính là một trong những
ngành kinh tế trụ cột của quốc gia cũng có rất nhiều điều chỉnh để phù hợp
với yêu cầu theo sự thay đổi của nền kinh tế. Thực hiện mở cửa ngành ngân
hàng đồng nghĩa chúng ta sẽ chấp nhận những cạnh tranh ngày một gay gắt
hơn giữa các ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài, cạnh tranh giữa
ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng thương mại quốc doanh. Chính
cạnh tranh buộc các ngân hàng phải thực hiện đa dạng hóa các khách hàng, đa
dạng hóa các loại hình dịch vụ, cung cấp, nâng cao chất lượng các dịch vụ …
Khách hàng của các ngân hàng thương mại chủ yếu là các cá nhân, doanh
nghiệp, các tổ chức của nền kinh tế. Trong xu thế hiện nay, đối tượng khách
hàng đầy tiềm năng của các ngân hàng đó chính là các doanh nghiệp, ngân
hàng thực hiện càng nghiệp vụ như cho vay, bảo lãnh, cầm cố, thế chấp …
đối với các khách hàng là doanh nghiệp. Để thực hiện các nghiệp vụ đó, ngân
hàng phải tiến hành phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, để đảm
bảo khả năng thu hồi vốn, đảm bảo tính khả thi của các dự án, tính khả thi của
những công việc mà doanh nghiệp tiến hành làm.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam là một trong
những ngân hàng thương mại lớn, với phương tiện thiết bị hiện đại, đã thu
được rất nhiều thành tựu trong 17 năm hoạt động vừa qua. Trong quá trình
thực tập, nghiên cứu tại ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam
– chi nhánh Hà Nội (Techcombank – chi nhánh Hà Nội), em thấy hoạt động
phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của ngân hàng chưa
thực sự hiệu quả, chính điều này đã làm giảm tính nhanh nhạy trong hoạt
động của ngân hàng, gây khó khăn trong việc hợp tác với khách hàng, đặc
Trần Thị Thúy Hằng Lớp: TCDN48A
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lưu Thị Hương

nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Còn có định nghĩa dựa trên các hoạt động chủ yếu của ngân hàng,
như định nghĩa theo Luật các Tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực
hiện toàn bộ hoạt động của ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có
liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm
ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng
chính sách và các loại hình ngân hàng khác”. “Hoạt động ngân hàng là hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ
thanh toán”.
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, có những
đặc thù riêng trong hoạt động kinh tế - tài chính. Cũng giống như các doanh
nghiệp phi tài chính, các ngân hàng thương mại luôn phải đối đầu với những
thách thức của thị trường cạnh tranh và đầy biến động. Hơn nữa, kinh doanh
Trần Thị Thúy Hằng Lớp: TCDN48A
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lưu Thị Hương
tiền tệ là loại hình kinh doanh đặc biệt, có liên quan đến hầu hết các lĩnh vực
khác trong nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại có đặc điểm giống như các doanh nghiệp khác
trong nền kinh tế, cũng sử dụng các yếu tố sản xuất như lao động, tư liệu lao
động, đối tượng lao động (tiền vốn) làm yếu tố đầu vào, để sản xuất ra những
yếu tố đầu ra dưới hình thức dịch vụ tài chính mà khách hàng yêu cầu. Tuy
nhiên, khác với các doanh nghiệp khác, ngân hàng thương mại là loại hình
doanh nghiệp đặc biệt, trong hoạt động kinh doanh thể hiện qua các đặc trưng
cơ bản sau:
Vốn và tiền vừa là phương tiện, vừa là mục đích kinh doanh nhưng đồng
thời cũng là đối tựơng kinh doanh của ngân hàng thương mại. Và chính đặc
điểm này sẽ bao trùm hơn và rộng hơn so với các loại hình doanh nghiệp

nhàn rỗi trong dân cư, các khoản tiền gửi (thanh toán và tiết kiệm của khách
hàng) là một trong những nguồn quan trọng. Các ngân hàng đã trả lãi cho tiền
gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu
dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, tuy
nhiên,khi cần các ngân hàng thường vay mượn từ nhiều nguồn khác nhau
như: vay từ ngân hàng nhà nước nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi
trả, hoặc vay từ các tổ chức tín dụng khác, các ngân hàng có thể vay mượn lẫn
nhau hoặc vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng.
Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về
khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn sàng cho các ngân hàng
khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn.
Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn
bằng cách phát hành các giấy nợ như kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu trên thị
trường vốn. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị
trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của
ngân hàng, nghiệp vụ tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị
trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích
hợp.
Trần Thị Thúy Hằng Lớp: TCDN48A
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lưu Thị Hương
Từ các biện pháp huy động vốn như trên, các ngân hàng phải có biện
pháp sử dụng vốn cho phù hợp, đảm bảo khả năng hoạt động được suôn sẻ,
tạo niềm tin cho khách hàng.
Hoạt động sử dụng vốn
Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác
nhau của ngân hàng thương mại, trong đó tín dụng, ngân quỹ và đầu tư là ba
lại tài sản lớn và quan trọng.
•Hoạt động tín dụng

hợp để chi trả khi có yêu cầu.
•Hoạt động đầu tư
Ngân hàng thực hiện các hoạt động đầu tư nhằm tăng thu nhập cho
ngân hàng, tăng ngân quỹ và tạo một nguồn lực tài chính mạnh, đảm bảo khả
năng thanh khoản cho ngân hàng, các hoạt động đầu tư chủ yếu gồm:
-Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn: ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư,
quản lý tài chính, về thành lập, mua bán và sát nhập doanh nghiệp.
- Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: cung cấp cho khách hàng
cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ
đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, ngân hàng tổ
chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán.
-Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: đảm bảo việc hoàn trả của ngân hàng cho
khách hàng trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro
trong hoạt động, mất khả năng thanh toán.
-Cung cấp các dịch vụ đại lý: nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động
không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân
hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh
toán hộ, phát hành các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng
tài trợ.
1.1.2.Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.2.1.Khái niệm hoạt động cho vay
Ngân hàng là tổ chức tài chính quan trọng của nền kinh tế, thực hiện
chức năng trung gian tài chính, tạo phương tiện thanh toán và là trung gian
thanh toán trong nền kinh tế. Ngân hàng là trung gian tài chính với hoạt động
chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Để thực hiện được vai trò này, ngân
hàng phải huy động vốn và cho vay. Cho vay là hoạt động mang lại mức sinh
lời cao nhất trong cơ cấu tài sản của ngân hàng, là một quan hệ kinh tế, trong
Trần Thị Thúy Hằng Lớp: TCDN48A
7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lưu Thị Hương

thấu chi và thời gian thấu chi. Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể
ký séc, lập ủy nhiệm chi … vượt quá số dư tiền gửi để chi trả. Khi khách hàng
Trần Thị Thúy Hằng Lớp: TCDN48A
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lưu Thị Hương
có tiền nhập về tài khoản tiền gửi ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà
ngân hàng phải trả:
Lãi suất thấu chi × thời gian thấu chi × số tiền thấu chi
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản …
vì vậy chỉ sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và
kỳ thu nhập ngắn.
Cho vay trực tiếp từng lần
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với
khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để cấp
hạn mức thấu chi. Theo từng kỳ hạn nợ của hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc
và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát
mục đích và hiệu quả, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng ngân hàng sẽ
thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Nói chung, nghiệp vụ cho vay trực
tiếp từng lần tương đối đơn giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay
cách biệt.
Cho vay theo hạn mức
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho
khách hàng hạn mức tín dụng. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những
khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá
trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không xác định
trước kỳ hạn nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy
nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân
hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát
hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm
sút.

quy trình cho vay một cách hợp lý và quản lý nó có hiệu quả. Qua đó, việc
tìm hiểu khái niệm, ý nghĩa và nội dung quy trình cho vay là phần không thể
thiếu trong quá trình tìm hiểu hoạt động cho vay của ngân hàng.
o Khái niệm quy trình cho vay: Quy trình cho vay là bảng tổng hợp mô tả
công việc của ngân hàng từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn của một khách hàng
cho đến khi quyết định cho vay, giải ngân, thu nợ và thanh lý hợp đồng cho
vay
o Ý nghĩa của quy trình cho vay
Trần Thị Thúy Hằng Lớp: TCDN48A
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lưu Thị Hương
+ Về mặt hiệu quả, một quy trình cho vay hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng
nâng cao chất lượng cho vay và giảm thiểu rủi ro cho vay.
+ Về mặt quản lý, quy trình cho vay có tác dụng:
- Làm cơ sở cho việc phân định quyền, trách nhiệm cho các bộ phận
trong hoạt động cho vay.
- Làm cơ sở để thiết lập các hồ sơ, thủ tục vay vốn.
o Quy trình cho vay
Bước 1: Lập hồ sơ vay vốn
Bước này do cán bộ tín dụng thực hiện ngay sau khi tiếp xúc khách
hàng. Nhìn chung một bộ hồ sơ vay vốn cần phải thu thập các thông tin như:
- Năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự của khách hàng
- Khả năng sử dụng vốn vay
- Khả năng hoàn trả nợ vay (vốn vay + lãi)
Bước 2: Phân tích khách hàng
Phân tích khách hàng là xác định khả năng hiện tại và tương lai của
khách hàng trong việc sử dụng vốn vay + hoàn trả nợ vay.
Mục tiêu:
- Tìm kiếm những tình huống có thể xảy ra dẫn đến rủi ro cho ngân hàng,
dự đoán khả năng khắc phục những rủi ro đó, dự kiến những biện pháp giảm

Sau khi hết thời hạn vay vốn, khách hàng phải trả cho ngân hàng toàn
bộ vốn vay mà khách hàng đã vay ngân hàng bao gồm cả gốc lẫn lãi. Nếu
khách hàng chưa trả đúng thời hạn thì ngân hàng sẽ xếp số vốn vay này vào
loại nợ xấu, nếu quá một thời gian quy định mà khách hàng vẫn không trả
được cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ bán tài sản đảm bảo và giải quyết số
vốn vay đó.
Nói chung, ngân hàng cần xem xét, thực hiện đầy đủ và tỉ mỉ quy
trình cho vay để đảm bảo khách hàng có thể trả nợ đúng hạn, giảm thiểu bớt
rủi ro cho ngân hàng.
1.2. Phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại
1.2.1.Khái niệm và mục tiêu phân tích tài chính
1.2.1.1.Khái niệm phân tích tài chính
Trần Thị Thúy Hằng Lớp: TCDN48A
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lưu Thị Hương
Phân tích tài chính được các nhà quản lý bắt đầu chú ý từ cuối thế
kỷ XIX. Từ đầu thế kỷ XX đến nay, phân tích tài chính thực sự được phát
triển và được chú trọng hơn bao giờ hết bởi nhu cầu quản lý doanh nghiệp có
hiệu quả ngày càng tăng, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống tài chính, sự
phát triển của các tập đoàn kinh doanh và khả năng sử dụng rộng rãi công
nghệ thông tin.
Phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp có tầm quan
trọng rất lớn đối với các chủ thể, đối tượng quan tâm đến tình hình hoạt động
của doanh nghiệp. Trước khi tìm hiểu về phân tích tài chính thì chúng ta phải
hiểu về khái niệm phân tích tài chính là gì? Phân tích tài chính là việc sử dụng
một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ để thu thập và xử lý
thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp, nhằm
đánh giá tình hình tài chính, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp cũng như khả năng và tiềm lực của doanh

không, khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào.
Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với người hưởng
lương trong doanh nghiệp, đối với cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát hình sự,
luật sư … Như vậy, mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là
đánh giá khả năng xảy ra rủi ro phá sản tác động tới các doanh nghiệp mà
biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, khả năng hoạt
động cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà
phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những dự đoán về kết quả
hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong
tương lai.
1.2.2.Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Để thực hiện nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp, cần thu
thập thông tin phục vụ cho quá trình phân tích, tìm hiểu quy trình phân tích và
sử dụng một trong các phương pháp như so sánh, tỷ lệ để tiến hành phân tích.
Thông tin phục vụ cho phân tích tài chính
-Thông tin bên trong: báo cáo tài chính của doanh nghiệp, các báo cáo tài
chính phản ánh một cách hệ thống tình hình tài sản của doanh nghiệp tại
những thời điểm, kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình sử dụng vốn
trong những thời kỳ nhất định. Giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin tài
chính nhận biết được thực trạng tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp để ra quyết định phù hợp.
-Thông tin bên ngoài
Trần Thị Thúy Hằng Lớp: TCDN48A
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lưu Thị Hương
+ Thông tin chung: là những thông tin liên quan đến nền kinh tế, môi trường
kinh doanh, chính sách thuế … tạo môi trường kinh doanh và hành lang pháp
lý.
+ Thông tin về ngành: là những thông liên quan đến ngành để từ đó xác
định vị trí của doanh nghiệp trong ngành cũng như cơ cấu ngành, các sản

+ So sánh xác định xu hướng và tính chất liên hệ giữa các chỉ tiêu: là việc
xem xét trong mối quan hệ với các chỉ tiêu phản ánh quy mô chung để phản
ánh rõ hơn xu hướng phát triển của các hiện tượng kinh tế - tài chính của
doanh nghiệp.
- Phương pháp tỷ số
Đây là phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân
tích tài chính, nó sử dụng các tỷ số để phân tích. Các tỷ số đơn được thiết lập
bởi chỉ tiêu này so với chỉ tiêu khác. Đây là phương pháp có tính hiện thực
cao với các điều kiện áp dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện giúp nhà
phân tích có thê khai thác hiệu quả các số liệu từ báo cáo tài chính. Trong
phân tích tài chính, các tỷ số được phân thành các nhóm tỷ số đặc trưng, phản
ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là
các nhóm: tỷ số về khả năng thanh toán, tỷ số về khả năng sinh lời, tỷ số về
hiệu quả hoạt động và tỷ số về khả năng cân đối vốn. Với mỗi nhóm tỷ số lại
có những tỷ số riêng lẻ và mỗi đối tượng phân tích lại chú trọng vào nhóm tỷ
số phù hợp với mục đích phân tích của mình.
Về nguyên tắc, phương pháp tỷ số cần xác định được các ngưỡng,
các tỷ số tham chiếu, vì vậy để đánh giá tình trạng tài chính của một doanh
nghiệp thì các nhà phân tích so sánh tỷ số của doanh nghiệp với tỷ số tham
chiếu.
- Phương pháp Dupont
Trong phân tích tài chính, người ta vận dụng mô hình Dupont để
phân tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu tài chính. Nhờ sự phân tích mối liên
kết giữa các chỉ tiêu mà các nhà phân tích sẽ nhận biết được nguyên nhân dẫn
đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Đồng thời,
phương pháp này còn được dùng để xác định xu hướng hoạt động của doanh
nghiệp trong một thời kỳ, từ đó phát hiện ra những khó khăn mà doanh
nghiệp sẽ gặp phải.
ROE = Lợi nhuận sau thuế (LNST) / Vốn chủ sở hữu (VCSH)
= LNST / Doanh thu * Doanh thu / Tài sản * Tài sản / VCSH

được đa số chủ nợ chấp nhận.
Khả năng thanh toán nhanh
Khả năng thanh toán nhanh = (Tài sản lưu động – Dự trữ) / Nợ ngắn hạn
Dự trữ là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu
động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Tỷ số khả năng thanh toán nhanh được sử
dụng để phản ánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp mà không cần chịu
Trần Thị Thúy Hằng Lớp: TCDN48A
17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lưu Thị Hương
tổn thất khi phải bán các hàng tồn kho hay các tài sản kém lỏng trong tài sản
ngắn hạn. Thông thường hệ số này >1 được coi là doanh nghiệp có tình hình
thanh toán khả quan và ngược lại sẽ gặp khó khăn trong thanh toán.
 Khả năng thanh toán tức thời
Hệ số thanh toán tức thời = (Tiền + chứng khoán thanh khoản) / Nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ bằng tiền và
chứng khoán dễ bán của doanh nghiệp. Nếu hệ số này ≥ 0,5 thì khả năng
thanh toán tức thời tương đối khả quan. Nếu ≤ 1 thì doanh nghiệp phải bán
gấp một số sản phẩm, hàng hóa dự trữ để nhanh chóng thoát khỏi tình trạng
này.
 Các tỷ số về khả năng cân đối vốn
 Hệ số nợ
Hệ số nợ = Nợ phải trả / Tổng tài sản
Tỷ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp
đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường các chủ nợ thích tỷ số
nợ trên tổng tài sản vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì khoản nợ càng được
đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ sở
hữu doanh nghiệp ưa thích tỷ số này cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh
và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Song nếu tỷ lệ này quá cao thì
doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Vì thế các
ngân hàng thường mong muốn các doanh nghiệp vay vốn có tỷ số này nhỏ

Nếu so sánh chỉ tiêu này với các doanh nghiệp trong ngành hay toàn
bộ nền kinh tế nói chung, tỷ lệ này của doanh nghiệp thấp hơn nhiều có nghĩa
là vốn của doanh nghiệp đã bị ứ đọng quá nhiều trong tài sản cố định. Ngược
lại, nếu chỉ tiêu quá cao thì doanh nghiệp đang sử dụng tài sản cố định đã
khấu hao hoàn toàn, hoặc đã lạc hậu, bên cạnh đó nó cũng thể hiện doanh
nghiệp khó có khả năng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng.
 Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu * 100% / Tổng tài sản bình quân
Chỉ tiêu này còn gọi là vòng quay toàn bộ tổng tài sản, cho biết một
đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu.
Trần Thị Thúy Hằng Lớp: TCDN48A
19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lưu Thị Hương
 Các tỷ số về khả năng sinh lãi
 Doanh thu tiêu thụ sản phẩm
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm = Lợi nhuận sau thuế / Doanh thu
Chỉ tiêu này cho biết trong một đồng doanh thu tạo ra có bao nhiêu
đồng lợi nhuận sau thuế và giúp nhà phân tích đánh giá khả năng tăng trưởng
doanh thu, lợi nhuận và khả năng tiết kiệm chi phí của doanh nghiệp.
 Tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE)
ROE =Lợi nhuận sau thuế / Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn chủ sở hữu đầu tư vào sản xuất
kinh doanh thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
 Tỷ suất sinh lời của tổng tài sản (ROA)
ROA = Lợi nhuận sau thuế / Tổng tài sản
ROA cho biết mỗi đồng giá trị tài sản của doanh nghiệp tạo ra bao
nhiêu đồng lợi nhuận.
1.2.2.2. Phân tích diễn biến nguồn vốn và tài sản (Bảng tài trợ)
Trong phân tích nguồn vốn và tài sản, người ta thường xem xét sự
thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp

Vay ngân hàng
Các khoản phải trả
Các khoản phải nộp
Vay dài hạn
Cổ phiếu thường
Lợi nhuận không chia
Tổng cộng
Việc sử dụng bảng tài trợ là cơ sở để chỉ ra những trọng điểm đầu tư
và nguồn vốn chủ yếu được hình để đầu tư, để từ đó có thể đánh giá việc sử
Trần Thị Thúy Hằng Lớp: TCDN48A
21
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lưu Thị Hương
dụng vốn có hiệu quả hay không và nguồn vốn hình thành có ổn định, an toàn
hay không.
1.2.2.3. Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian
Trong phân tích tài chính, các nhà phân tích thường kết hợp chặt
chẽ những đánh giá về trạng thái tĩnh với những đánh giá về trạng thái động
để đưa ra một bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Nếu như trạng thái tĩnh được thể hiện qua Bảng cân đối kế toán thì trạng thái
động (sự dịch chuyển của các dòng tiền) được phản ánh qua bảng tài trợ, bảng
báo cáo kết quả kinh doanh. Thông qua các báo cáo tài chính này, các nhà
phân tích có thể đánh giá sự thay đổi về vốn lưu động ròng, về nhu cầu vốn
lưu động. Từ đó, có thể đánh giá những thay đổi về ngân quỹ của doanh
nghiệp. Như vậy, giữa các báo cáo tài chính có mối liên quan rất chặt chẽ:
những thay đổi trên bảng cân đối kế toán được lập đầu kỳ và cuối kỳ cùng với
khả năng tự tài trợ được tính từ báo cáo kết quả kinh doanh được thể hiện trên
bảng tài trợ và liên quan mật thiết đến ngân quỹ của doanh nghiệp.
Khi phân tích trạng thái động, trong một số trường hợp nhất định,
người ta còn chú trọng tới các chỉ tiêu quản lý trung gian nhằm đánh giá chi
tiết hơn tình hình tài chính và dự báo những điểm mạnh và điểm yếu của

định phù hợp, tránh được rủi ro mà việc phân tích tài chính không tốt có thể
gặp phải như: đầu tư không mang lại lợi nhuận, quản lý doanh nghiệp không
hiệu quả, đối với ngân hàng thì việc thu hồi vốn gặp khó khăn …Do đó, hoàn
thiện nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp là vấn đề hết sức quan trọng,
giúp các nhà sử dụng thông tin đưa ra quyết định hợp lý. Để đánh giá mức độ
hoàn thiện nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp có thể dựa vào một số
chỉ tiêu cơ bản sau:
Trần Thị Thúy Hằng Lớp: TCDN48A
23
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lưu Thị Hương
 Nguồn số liệu sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp có
đầy đủ và chính xác không?
Hiện nay, các ngân hàng thương mại đang áp dụng nhiều hình thức
cho vay như cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay hỗ trợ
xuất khẩu … Tuy nhiên, với bất kỳ loại hình cho vay nào hay bất kỳ doanh
nghiệp nào đến xin vay vốn thì tại thời điểm xin vay, các ngân hàng đều yêu
cầu phải nộp đầy đủ các tài liệu có liên quan đến doanh nghiệp như báo cáo
tài chính trong 3 năm gần nhất… Ngoài ra, định kỳ trong thời hạn cho
vay,doanh nghiệp đều phải nộp các báo cáo tài chính. Qua những tài liệu đó,
cán bộ tín dụng sẽ tiến hành xem xét, phân tích các chỉ tiêu tài chính, kiểm tra
tính chính xác và hiệu quả từ các số liệu trên. Nhờ đó mà cán bộ tín dụng có
thể theo dõi tình hình tài chính cũng như hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp sau khi cho vay vốn để tránh những rủi ro không đáng có cho ngân
hàng.
 Phương pháp phân tích sử dụng có đầy đủ các chỉ tiêu không?
Việc sử dụng hệ thống các chỉ tiêu trong phân tích tài chính đầy đủ,
chính xác sẽ giúp quá trình phân tích tài chính được hiệu quả hơn. Sử dụng
đầy đủ hệ thống chỉ tiêu trong 4 nhóm tỷ số: nhóm tỷ số về khả năng thanh
toán, nhóm tỷ số về khả năng hoạt động, nhóm tỷ số về khả năng sinh lời và
nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn, sẽ góp phần rất lớn trong việc hoàn thiện

dựa vào các thông tin này thì kết quả phân tích sẽ không phản ánh đúng thực
chất tình hình của doanh nghiệp.
Vấn để đặt ra cho ngân hàng là từ thông tin như thế, cán bộ tín dụng
hoặc cần thanh toán và tiến hành sắp xếp thông tin, sử dụng các phương pháp
xử lý thông tin một cách thích hợp theo nội dung và đối tượng, loại hình
Trần Thị Thúy Hằng Lớp: TCDN48A
25

Trích đoạn Định hướng phát triển năm 2010 và yêu cầu đối với công tác phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại Techcombank – ch Hiện đại hóa công nghệ thông tin ứng dụng trong hoạt động của ngân hàng Nâng cao chất lượng công tác thu thập thông tin Xây dựng văn hóa kinh doanh ngân hàng
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status