Phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay ngắn hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương cầu giấy - Pdf 31

Chuyên đề tốt nghiệp PGS.TS.Nguyễn Hữu Tài
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHNo & PTNT VN
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Việt Nam
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng trung ương
TCTD Tổ chức tín dụng
SGD Sở giao dịch
LỜI MỞ ĐẦU
Cầm Thị Hương Trang-NH46B
1
Chuyên đề tốt nghiệp PGS.TS.Nguyễn Hữu Tài
Năm 2007 là năm đánh dấu sự chuyển mình của nền kinh tế Việt
Nam, là năm Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương
mại thế giới WTO và Mỹ bình thường hoá quan hệ vĩnh viễn với nước ta.
Những nhân tố đấy đã góp phần đưa nền kinh tế Đất nước hoà mình vào
dòng chảy chung của nền kinh tế thế giới, phát triển theo xu hướng toàn
cầu hoá, đa phương hoá và đa dạng hoá. Nền kinh tế tăng trưởng mạnh, đạt
được nhiều kết quả khởi sắc và những thay đổi to lớn. Góp phần không nhỏ
vào sự thay đổi đó là sự nỗ lực vươn lên và phát triển mạnh mẽ của các
doanh nghiệp tồn tại trong nền kinh tế. Đối với một nước đang phát triển
như nước ta thì loại hình DNNVV chiếm đa số và hoạt động trên tất cả các
lĩnh vực, ngành nghề kinh tế. Cùng với sự nhạy bén linh hoạt của mình các
DNNVV đã vượt qua những khó khăn, thử thách ban đàu và ngày càng
khẳng định vai trò vị trí của mình trong nền kinh tế. Góp phần thúc đẩy tốc
độ tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho lượng lao động dồi
dào nhưng trình độ thấp ở nước ta hiện nay và đồng thời hỗ trợ, thúc đẩy

Cầm Thị Hương Trang-NH46B
3
Chuyên đề tốt nghiệp PGS.TS.Nguyễn Hữu Tài
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CỦA NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA.
1.1 CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Theo Luật các Tổ chức Tín dụng số 07/1997/QHX của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được
thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác có
liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng
bao gồm Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư,
Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng
khác”. Trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về
quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một trung gian tài chính, là chiếc
cầu nối chu chuyển những khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội đến tay những
người có nhu cầu và khả năng đầu tư. NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ,
mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ
chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Nếu đứng trên phương diện
những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp, ngân hàng là các tổ chức tài
chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt
là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Luật các Tổ chức tín dụng 07/1997/QHX qui định: “Hoạt động ngân
hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung
ứng các dịch vụ thanh toán”. Trước tiên, để hiểu xem một ngân hàng hoạt
động như thế nào, ta hãy xem xét bản quyết toán tài sản của ngân hàng đó.


- Vốn điều lệ
- Các quỹ và lợi nhuận chưa
phân phối
Cân đối Cân đối
Như vậy, các ngân hàng thu lợi nhuận bằng cách bán những tài sản nợ
có một số đặc tính (một kết hợp riêng về tính lỏng, rủi ro và lợi tức) và
dùng tiền thu được để mua những tài sản có một số đặc tính khác. Các ngân
hàng cung cấp một dịch vụ chuyển một loại tài sản này thành một loại tài
sản khác cho công chúng. Quá trình chuyển các tài sản và cung cấp một
loạt dịch vụ (thanh toán séc, ghi chép sổ sách, phân tích tín dụng...) giống
bất cứ quá trình sản xuất khác của một hãng kinh doanh. Nếu ngân hàng
tạo ra những dịch vụ hữu ích với chi phí thấp và có được doanh thu cao nhờ
Cầm Thị Hương Trang-NH46B
5
Chuyên đề tốt nghiệp PGS.TS.Nguyễn Hữu Tài
vào tài sản có của mình, thì ngân hàng thu được lợi nhuận, nếu không, thì
ngân hàng này chịu tổn thất.
Hoạt động cơ bản của một NHTM được qui định trong Nghị định 49
của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của NHTM, bao gồm:
1.1.1 Huy động vốn.
NHTM được huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác
dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại
tiền gửi khác.
Đây là nghiệp vụ rất đặc trưng, cơ bản của ngân hàng. Thông thường
vốn tự có chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong toàn bộ vốn kinh doanh, nên để có
nguồn vốn để cho vay các NHTM phải huy động một lượng vốn từ các
nguồn tiền nhàn rỗi và tiền tiết kiệm trong dân chúng. Số vốn huy động
thường gấp nhiều lần so với vốn tự có. Tiền gửi là bộ phận chủ yếu trong
tổng nguồn vốn của NHTM. Vốn tiền gửi có thể trả lãi, có thể không phải

cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê
tài chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN.
Về hoạt động cho vay, NHTM được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn
dưới hình thức cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ đời sống; cho vay trung và dài hạn để thực hiện các dự
án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống. Trong đó,
NHTM chủ động tìm kiếm các dự án sản xuất, kinh doanh khả thi, có hiệu
quả và có khả năng trả nợ để cho vay.
Về hoạt động bảo lãnh, NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh
toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và các hình thức bảo
lãnh ngân hàng khác bằng uy tín và bằng khả năng tài chính của mình đối
với người nhận bảo lãnh theo quy định của NHNN.
Đồng thời, NHTM được chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và
các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. NHTM được hoạt động cho thuê tài chính
nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính.
Cầm Thị Hương Trang-NH46B
7
Chuyên đề tốt nghiệp PGS.TS.Nguyễn Hữu Tài
1.1.3 Dịch vụ thanh toán và ngân quĩ.
NHTM phải mở tài khoản tiền gửi tại NHNN nơi NHTM đặt trụ sở
chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định; được
mở tài khoản tại ngân hàng khác trong nước theo quy định của NHNN.
Về dịch vụ thanh toán, NHTM được:
- Cung ứng các phương tiện thanh toán;
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng;
- Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ;
- Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép;
- Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng;
- Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh
toán liên ngân hàng trong nước.

nhỏ có số lượng lao động từ 10 người đến 50 người, còn doanh nghiệp vừa
có từ 50 người đến 300 lao động.
Mỗi nước đều có tiêu chí riêng để xác định DNNVV ở nước mình.
Ở Việt Nam, khái niệm DNVVN được đưa ra ở điều 3, Nghị định
90/2001/NĐ – CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ
và vừa: “ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sảng xuất, kinh doanh độc lập,
đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá
10 tỷ đồng hoặc số lao động hằng năm không quá 300 người.”
Theo điều 4 các DNVVN bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp
Nhà nước.
- Các hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định 02/2000/NĐ-CP
ngày 03 tháng 02 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.
Cầm Thị Hương Trang-NH46B
9
Chuyên đề tốt nghiệp PGS.TS.Nguyễn Hữu Tài
Như vậy có rất nhiều tiêu thức để phân loại DNNVV. Một số tiêu thức
như vốn, lao động, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng được dùng khá phổ
biến trên thế giới cũng giống như ở Việt Nam. Trong đó, hai tiêu thức được
sử dụng nhiều nhất ở phần lớn các nước là quy mô vốn và lao động.
Cơ sở xác định qui mô vốn và lao động:
- Vốn đăng kí: đối với doanh nghiệp Nhà nước là vốn điều lệ được
Nhà nước cấp, đối với doanh nghiệp còn lại là vốn ghi trên đăng kí kinh
doanh, giấy phép đầu tư.
- Lao động trung bình hàng năm là số lao động bình quân mà doanh
nghiệp đã dăng kí với cơ quan quản lý lao động và có tham gia đóng bảo
hiểm xã hội (không bao gồm số lao động doanh nghiệp kí hợp đồng thời
vụ, hợp đồng công việc).

đều đưa ra những tiêu thức phân loại DNVVN dùng làm căn cứ thiết lập
những chính sách phát triển và hỗ trợ DNVVN. Điều này hết sức quan
trọng, ảnh hưởng tới tổng thể nền kinh tế vì các DNVVN thường chiếm tỷ
lệ lớn.
Như vậy, việc xác định rõ các tiêu thức để phân loại DNVVN có ý
nghĩa rất quan trọng. Đó là cơ sở để xác định cơ chế quản lý với những
chính sách ưu tiên thích hợp và xây dựng cơ cấu tổ chức, quản lý có hiệu
quả đối với hệ thống các doanh nghiệp này.
Xác định tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với phát
triển kinh tế đất nước theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, 6 năm trở lại
đây, Chính phủ có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức
cao nhất hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại
hình kinh tế này. Chính vì vậy số lượng DNVVN tăng lên đáng kể.
Cầm Thị Hương Trang-NH46B
11
Chuyên đề tốt nghiệp PGS.TS.Nguyễn Hữu Tài
1.2.2 Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.2.1 DNNVV có quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ bé
Phần lớn các DNNVV đều có quy mô nhỏ bé. Thực chất thì đặc điểm
này do chính tiêu chí phân loại DNNVV của Nghị định 90/NĐ-CP quy
định, đó là các doanh nghiệp có vốn đăng ký kinh doanh không quá 10 tỷ
đồng và lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Như vậy thì
chính quy mô về nguồn vốn và lao động kéo theo khó khăn về mặt bằng
sản xuất kinh doanh, trình độ công nghệ và năng lực quản lý hạn chế, thiếu
thông tin gây ra nhiều yếu kém trong sản xuất mà trong đó thiếu vốn là đặc
điểm nổi bật.
1.2.2.2 Quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của
DNNVV thấp
Hầu hết các DNNVV được thành lập có nguồn vốn dựa vào nguồn
vốn tích lũy cá nhân cộng với tích lũy của gia đình. Do đó, những người

khó khăn cho các doanh nghiệp này. Trước hết, sự tác động quản lý của
nhà nước về hoàn thiện Luật doanh nghiệp, các chính sách thuế, chính sách
tín dụng, thương mại, chính sách khoa học công nghệ, lao động và việc
làm… có nhiều bất cập. Tác động quản lý của nhà nước đối với doanh
nghiệp trong khâu tổ chức còn nhiều bức xúc. Sự thiếu hụt và rối loạn thị
trường như: thị trường vốn, thị trường thông tin, thị trường dịch vụ và nạn
hàng giả, hàng lậu tràn lan gây nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của DNNVV.
1.2.3 Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với nền kinh tế
DNVVN có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước. Ở
nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt là các nước phát triển DNVVN luôn là
nền tảng của nên kinh tế, là bộ phận cấu thành không thể thiếu được của
nền kinh tế. Chính phủ các nước cũng xác định vai trò quan trọng, lâu dài
của DNVVN.
Cầm Thị Hương Trang-NH46B
13
Chuyên đề tốt nghiệp PGS.TS.Nguyễn Hữu Tài
1.2.3.1. Góp phần tăng trưởng và ổn đinh kinh tế - xã hội.
Trước hết, các DNNVV chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, thậm
chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp. Sự phát triển nhanh của các
DNNVV cả về số lượng và chất lượng đã đóng góp quan trọng vào GDP. Ở
các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển, DNNVV chiếm
90% số lượng doanh nghiệp, đóng góp từ 25%-33% giá trị GDP hàng năm.
Vì vậy, việc phát triển DNNVV đóng góp đáng kể vào tốc độ tăng trưởng
của nền kinh tế, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Vì DNNVV có quy mô nhỏ nên dễ điều chỉnh hoạt động. Các
doanh nghiệp này thường hoạt động rất năng động và linh hoạt trong nền
kinh tế nên kéo theo nền kinh tế năng động theo. Sự góp mặt đáng kể của
các doanh nghiệp này khiến cho các doanh nghiệp lớn cũng phải điều chỉnh
theo, tạo đà cho nền kinh tế ngày càng phát triển.

động. Do vậy, lượng lao động dư thừa từ các doanh nghiệp lớn lại chính là
nguồn cung lao động cho các DNNVV.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, cùng với xu thế chung, các
DNNVV cũng xuất hiện nhiều hơn. Mà đứng đầu là các chủ doanh nghiệp.
Đây là lực lượng rất cần thiết để góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển. Ngày nay, nhiều gương mặt trẻ tài năng đã tự mình thành lập và
vận hành doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Chính từ đây mà đội ngũ
cán bộ, nhà kinh doanh có trình độ, kỹ năng đã ra đời. Với khả năng am
hiểu thị trường, trình độ quản lý chyên nghiệp, cùng với sự năng động và
linh hoạt, họ đã và đang khẳng định vai trò to lớn của DNNVV trong nền
kinh tế thị trường.
Về tài nguyên thiên nhiên: Các DNNVV khai thác, phát huy các
nguồn lực và tiềm năng tại chỗ của địa phương hiệu quả. Phân bố phân tán
giúp cho DNNVV có thể tận dụng nguồn tài nguyên sẵn có tại địa phương.
Cầm Thị Hương Trang-NH46B
15
Chuyên đề tốt nghiệp PGS.TS.Nguyễn Hữu Tài
1.2.3.3. Phân phối thu nhập có hiệu quả trong nền kinh tế.
Muốn hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải
có nguồn lao động. Sự phát triển vượt bậc của các DNNVV cả về số lượng
và chất lượng đã góp phần không nhỏ vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tạo
công ăn việc làm cho xã hội. Nếu như các doanh nghiệp lớn thường đặt cơ
sở tại các trung tâm kinh tế lớn của đất nước thì các DNNVV lại có mặt ở
các địa phương. Khả năng sản xuất phân tán, sử dụng lao động tại chỗ đã
góp phần làm giảm thất nghiệp, một bài toán xã hội nan giải.
DNNVV tạo nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên cho dân cư,
góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập cho các bộ phận dân cư. Từ đó,
tạo ra sự phát triển tương đối đồng đều giữa các vùng miền khác nhau và
cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau.
1.2.3.4. DNNVV có mối liên hệ chặt chẽ với các chủ thể khác trong

1.3.1 Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Cho vay là một hoạt động kinh tế, đó là quan hệ chuyển nhượng tạm
thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng giữa hai bên cùng có lợi. Cho
vay là một giao dịch bằng tiền giữa bên cho vay (Ngân hàng) và bên đi vay
(Doanh nghiệp, cá nhân) trong đó theo thỏa thuận bên cho vay sẽ chuyển
giao tiền cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định, còn bên vay
có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi
đến hạn thanh toán. Như vậy bản chất của cho vay là:
- Người đi vay chỉ được sử dụng tiền trong một thời gian nhất định
theo thỏa thuận và phải hoàn trả vô điều kiện khi đến hạn.
- Giá trị hoàn trả lớn hơn giá trị khoản vay.
Hoạt động cho vay của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình
hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc
đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế.
Hoạt động cho vay là lĩnh vực sử dụng vốn chủ yếu của các NHTM ở Việt
Nam hiện nay. Không chỉ là nguồn chính mang lại thu nhập cho các
Cầm Thị Hương Trang-NH46B
17
Chuyên đề tốt nghiệp PGS.TS.Nguyễn Hữu Tài
NHTM, tín dụng cũng đóng vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp
vay vốn, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp, vì
đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động có hoàn trả và có lợi tức khi
sử dụng vốn vay. Mặt khác, như chúng ta đã biết, cạnh tranh là một hiện
tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động tín dụng đối với ngân
hàng còn là vũ khí cạnh tranh sắc bén có hiệu quả giữa các NHTM với
nhau, bởi khi ngân hàng nâng cao khả năng cấp tín dụng thì sẽ thu hút được
nhiều khách hàng đến với ngân hàng, nâng cao được uy tín của ngân hàng
đối với thị trường, mở rộng thị phần và nhờ đó cải thiện khả năng thu lợi
nhuận.
1.3.2 Phân loại về tín dụng ngân hàng

vay chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn
nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn
mức thấu chi. Tuy nhiên, các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ phải chịu
lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Đây là hình thức cho vay
tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán, thủ tục
đơn giản, phần lớn không có đảm bảo, do đó chỉ áp dụng với những khách
hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
 Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến của ngân
hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có
điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Theo đó, vốn của ngân hàng chỉ
tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử
dụng vốn vay. Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc
và lãi. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản, ngân hàng có thể
kiểm soát từng món vay tách biệt, tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản
đảm bảo.
 Cho vay theo hạn mức: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân
hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng, hạn mức này có thể
tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ, đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức
tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và
Cầm Thị Hương Trang-NH46B
19
Chuyên đề tốt nghiệp PGS.TS.Nguyễn Hữu Tài
nhu cầu vay vốn của khách hàng. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho
những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường
xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng
không ấn định trước ngày trả nợ. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt
thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng
từng lần vay
 Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên sự luân

cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món
cho vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Cho vay qua trung
gian nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng.
 Theo hình thức đảm bảo:
Phân theo hình thức đảm bảo, các khoản vay bao gồm cho vay có bảo
đảm và cho vay không có bảo đảm.
Trong đó, các biện pháp bảo đảm tiền vay đối với các khoản vay có
bảo đảm có thể là cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay, bảo
lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn
vay. Cụ thể hơn, nếu phân loại theo tính chất an toàn, các tài sản đảm bảo
có thể chia thành loại 1 và loại 2.
Theo đó, loại 1 là các tài sản thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của
khách hàng, hoặc bảo lãnh của bên thứ ba cho khách hàng của ngân hàng.
Những đảm bảo này không được hình thành từ khoản tín dụng của chính
ngân hàng. Do đó, tài sản đảm bảo loại 1 thường an toàn hơn cho ngân
hàng, song lại gây khó khăn cho cả ngân hàng lẫn khách hàng trong việc
định giá, bảo quản, khiến thời gian phân tích tín dụng bị kéo dài, trì trệ.
Ngược lại, loại 2 là những tài sản đảm bảo được hình thành từ nguồn
tài trợ của chính ngân hàng. Đây là biện pháp cuối cùng nếu ngân hàng
muốn hạn chế việc người vay bán tài sản từ món vay. Tuy nhiên tài sản loại
2 thường không đảm bảo an toàn cho ngân hàng vì khi người vay không có
khả năng trả nợ, phần lớn các tài sản này cũng bị giảm giá, khó bán. Do đó,
tài sản loại 2 thường chỉ áp dụng trong trường hợp người vay không có
hoặc không thể dùng tìa sản đảm bảo loại 1.
Cầm Thị Hương Trang-NH46B
21
Chuyên đề tốt nghiệp PGS.TS.Nguyễn Hữu Tài
Đối với các khoản vay không có tài sản bảo đảm, ngân hàng sẽ chủ
động lựa chọn khách hàng đủ điều kiện để cho vay. Thông thường các
khoản vay này được thực hiện thông qua chỉ định của Chính phủ hoặc của

Tuy nhiên khi cho vay những món như vậy, điều thuận lợi đối với ngân
hàng là có thể phân tán được rủi ro thông qua cho vay nhiều khách hàng
với nhiều món vay nhỏ. Một điều rõ ràng là người trực tiếp đến ngân hàng
xin vay trong trường hợp này chính là cá nhân có nhu cầu vay vốn, mang tư
cách cá nhân, vì vậy ở đây có mối quan hệ trực tiếp giữa ngân hàng và
người xin vay.
1.3.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp nhỏ
và vừa
Có thể khẳng định rằng, tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn
vốn quan trọng nhất không chỉ đối với các DNNVV mà đối với mọi doanh
nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Các NHTM là một tổ chức tài chính trung
gian với khả năng huy động vốn từ nhiều nguồn nhỏ, lẻ khác nhau thành
một nguồn vốn tập trung, do đó các ngân hàng luôn có đủ khả năng cung
cấp các nguồn tài trợ cho doanh nghiệp. Trong các hình thức tài trợ cho
doanh nghiệp thì hoạt động tín dụng ngân hàng với những ưu điểm của
mình vẫn là nguồn cung cấp vốn cho doanh nghiệp quan trọng nhất. Như
vậy,vấn đề đặt ra không phải là khả năng cho vay của các NHTM mà chính
là khả năng tiếp cận nguồn vốn này của các DNNVV:
 Thứ nhất: Tín dụng NHTM là một kênh cung cấp vốn quan trọng
đối với DNV&N
Có thể nói, trong các nguồn huy động vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của các DNV&N thì nguồn vốn ngân hàng đóng vai trò quan
trọng nhất do những ưu điểm của nó. Phần lớn DNNVV là thiếu vốn, trình
độ sản xuất công nghệ thường yếu kém… nên nhu cầu đối với nguồn vốn
vay ngân hàng để đầu tư sản xuất theo chiều sâu hay mở rộng quy mô hoạt
động sản xuất kinh doanh càng bức thiết. Muốn đầu tư vào chiều sâu doanh
nghiệp dựa trên nguồn tích lũy nội bộ thì thường cần một thời gian lâu dài,
Cầm Thị Hương Trang-NH46B
23
Chuyên đề tốt nghiệp PGS.TS.Nguyễn Hữu Tài

24
Chuyên đề tốt nghiệp PGS.TS.Nguyễn Hữu Tài
sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Hàng hóa được thị trường, người tiêu
dùng chấp nhận tạo cho doanh nghiệp chỗ đứng và khẳng định uy tín của
doanh nghiệp đó trên thị trường.
Uy tín của doanh nghiệp cón thể hiện thông qua mối quan hệ với ngân
hàng. Các NHTM thường muốn có các khách hàng trung thành, và ngược
lại các doanh nghiệp cũng muốn là khách hàng lâu dài, thường xuyên của
ngân hàng. Điều này không những giúp doanh nghiệp được hưởng những
chính sách ưu đãi khi vay vốn cũng như sử dụng các dịch vụ khác của ngân
hàng mà còn giúp nâng cao uy tín của doanh nghiệp trong mắt của ngân
hàng, các tổ chức tín dụng, các khách hàng làm ăn của doanh nghiệp đó.
Uy tín của doanh nghiệp sẽ bị giảm sút nếu như không hoàn trả, hoàn trả
không đầy đủ, trả chậm các khoản vay vốn. Có thể nói uy tín của doanh
nghiệp gắn liền với quan hệ này.
 Thứ ba: Tín dụng NHTM giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả
hơn
Tín dụng ngân hàng không chỉ đáp ứng cho nhu cầu về vốn trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà nó còn là điều kiện để các
doanh nghiệp tìm cho mình các biện pháp để sử dụng nguồn vốn một cách
hiệu quả nhất. Một nguyên tắc có tính chất cơ bản của tín dụng ngân hàng
đó là nguyên tắc hoàn trẩ đầy đủ cả gốc và lãi vốn vay trong thời gian thỏa
thuận. Xuất phát từ đặc điểm này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tính toán
để làm ăn có lãi, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng
thì doanh nghiệp mới có khả năng trả nợ và tích lũy nguồn vốn. Mỗi đồng
vốn vay mà doanh nghiệp vay từ ngân hàng đều chứa đựng những chí phí
mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sử dụng. Điều này buộc doanh nghiệp phải
sử dụng đồng vốn hiệu quả, tiết kiệm, quản lý chặt chẽ hơn nữa.
Đồng thời, hoạt động tín dụng của ngân hàng với quy trình kiểm tra
trước, trong và sau khi cho vay, giám sát chặt chẽ tiến độ mà mục đích sử


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status