Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện yên dũng, tỉnh bắc giang trong giai đoạn hiện nay - Pdf 22


MỞ ĐẦU
1
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH KHU VỰC I
  

NGUYỄN HÀ GIANG
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN YÊN DŨNG TỈNH BẮC GIANG TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
TS. HOÀNG VĂN HOAN
PHÓ TRƯỞNG KHOA QUẢN LÝ KINH TẾ
H NÀ ỘI, NĂM 2011
1. Lý do chọn đề tài.
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân
bố khu dân cư, xây dựng các cơ sở hạ tầng xã hội, an ninh, quốc phòng
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra những yêu cầu to lớn đối
với công tác quản lý nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trong
đó quản lý nhà nước về đất đai là một nội dung quan trọng nghiên cứu các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các
mối quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đất đai ngày càng nóng bỏng,
phức tạp, liên quan trực tiếp tới lợi ích của từng đối tượng sử dụng đất. Các
quan hệ đất đai chuyển từ chỗ là quan hệ khai thác chinh phục tự nhiên
chuyển thành các quan hệ kinh tế xã hội về sở hữu và sử dụng một loại tư liệu
sản xuất đặc biệt quan trọng.

nước về đất đai trên địa bàn huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn
hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Một là, Khái quát cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về đất đai.
Hai là, Phân tích và làm rõ thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất
đai trên địa bàn huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang.
Ba là, Kiến nghị, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quả
quản lý nhà nước về đất đai một cách hợp lý hơn trên địa bàn huyện Yên
Dũng, tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng Quản lý nhà nước về đất đai trên
địa bàn huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2005-2010 và đề ra một số
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai trên địa
bàn huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Việc nghiên cứu đề tài này dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; quan điểm, đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta về xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt nội dung quản lý
nhà nước về đất đai trong giai đoạn hiện nay.
3
Phương pháp chủ yếu để nghiên cứu đề tài này là phương pháp duy vật
biện chứng, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê, phương
pháp so sánh, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn để làm rõ những vấn
đề nghiên cứu.
5. Kết cấu của Luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, phần nội
dung của Luận văn được cấu thành 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về đất đai.
Chương II: Thực trạng của công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa

sản đất đai không giống với quyền sở hữu bất kì loại tài sản nào khác. Quyền
sở hữu bất kì loại tài sản nào đều thể hiện trên ba loại quyền: Quyền chiếm
hữu bao gồm quyền nắm giữ và quản lí tài sản đó; Quyền sử dụng bao gồm
quyền khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản đó; Quyền
định đoạt bao gồm quyền chuyển giao quyền sở hữu hoặc từ bỏ quyền sở hữu
tài sản đó
1
. Quyền sở hữu đất đai với đầy đủ ba quyền trên, trong đó đặc biệt
là “quyền định đoạt” luôn luôn thuộc về xã hội, . Do vậy quyền định đoạt –
với đầy đủ ý nghĩa là chuyển giao quyền sở hữu hoặc từ bỏ quyền sở hữu đất
đai chỉ thực sự có ý nghĩa với quốc gia, là sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Khi
mà quyền định đoạt chỉ thực sự có ý nghĩa trên phạm vi quốc gia, trong quan
hệ giữa các quốc gia với nhau, thì với các chủ thể liên quan đến đất đai trong
xã hội, kể cả Nhà nước quyền sở hữu đất đai chủ yếu chỉ còn là quyền chiếm
hữu và quyền sử dụng – một loại quyền sở hữu không đầy đủ. Và dù việc nắm
giữ, quản lí, sử dụng đất như thế nào, thì “đất” vẫn là của “nước”, lãnh thổ
1
.
Điều 164, 182, 192, 195 Luật dân sự Nước công hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2005
5
quốc gia vẫn toàn vẹn. Có những việc làm liên quan đến đất đai nếu xét bề
ngoài dễ cảm nhận là thuộc “quyền định đoạt” như Nhà nước ra quyết định
thu hồi đất ở khu vực này, giao đất cho dự án này, công trình kia…, nhưng về
thực chất vẫn nằm trong “quyền sử dụng”, đó chỉ là định đoạt trong sử dụng
mà thôi, bởi thông qua những quyết định đó Nhà nước không từ bỏ hoặc
chuyển giao quyền sở hữu đất của mình. Vì vậy sự phức tạp về đất đai trong
xã hội đều tập trung vào việc giải quyết vấn đề “quyền sở hữu không đầy đủ
đất đai như thế nào?” – nói cách khác là vấn đề “quyền quản lí, sử dụng đất”
như thế nào trên cả hai mặt: thời hạn quản lí, sử dụng trong bao lâu ?; và
trong thời hạn đó, họ được quyền sử dụng đất như thế nào?

trí Vì thế đất có tác động trực tiếp đến con người từ thể xác đến tâm lý, tình
cảm
Trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, đất đai luôn xuất hiện
như một vấn đề kinh tế - xã hội sống còn, nó là nguyên nhân của nhiều cuộc
đấu tranh quyết liệt giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con
người. Đất đai của một lãnh thổ quốc gia là một trong những dấu hiệu để xác
định sự tồn tại của quốc gia, dân tộc đó. Trong lịch sử phát triển của dân tộc
ta, từ mấy ngàn năm đến nay, đất đai đã gắn bó với vận mệnh con người Việt
Nam, là yếu tố cơ bản để tạo thành Tổ quốc, trong đó có giới hạn về lãnh thổ
và chủ quyền quốc gia. Ông, Cha ta từ lâu đã có câu: "Tấc đất, tấc vàng", thể
hiện rõ nhận thức giá trị to lớn của đất đai trong đời sống và yêu cầu phải bảo
vệ đất đai. Đất đai đã nuôi sống và mang lại sự tồn tại và phát triển của dân
tộc ta. Các thế hệ đã đấu tranh không mệt mỏi để chế ngự thiên nhiên bằng rất
nhiều công trình to lớn như đê, đập để ngăn sông, lấn biển, thiết kế đồng
ruộng phù hợp để bảo vệ đất phục vụ sản xuất, hy sinh bao xương máu trong
chiến đấu chống giặc ngoại xâm để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ
quốc
Trong các điều kiện vật chất cần thiết, đất đai giữ vị trí và có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng, là điều kiện đầu tiên, là cơ sở thiên nhiên của mọi quá
trình sản xuất, là nơi tìm đươc công cụ lao động, nguyên liệu lao động và nơi
sinh tồn của xã hội loài người.
Đất đai là điều kiện chung đối với mọi quá trình sản xuất trong các
ngành kinh tế quốc dân và họat động của con người. Điều này có nghĩa là
thiếu đất thì không một ngành nào, xí nghiệp nào có thể bắt đầu công việc và
hoạt động được. Nói cách khác không có đất sẽ không có sản xuất cũng như
7
không có sự tồn tại của chính con người. Tuy nhiên, vai trò của đất đai đối
với từng ngành rất khác nhau.
- Trong các ngành phi nông, lâm nghiệp. Đất đai giữ vai trò thụ động
với chức năng là cơ sở không gian và vị trí để hoàn thiện quá trình lao đông,

chức năng quản lý xã hội bằng các công cụ: pháp luật, quy hoạch, kinh tế và
hành chính, nhằm thể hiện và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị trong xã
hội có giai cấp đối kháng. Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước của
dân do dân và vì dân, vì vậy, Nhà nước pháp quyền XHCN còn có chức năng
phục vụ nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhà nước
thực hiện quyền lực tập trung của nhân dân để tổ chức và quản lý các hoạt
động của xã hội vì hạnh phúc chung của nhân dân.
Quản lý là chức năng và hoạt động của hệ thống tổ chức, quản lý tồn tại
trong mọi xã hội để duy trì tổ chức và phân công lao động xã hội, điều hoà
các mối quan hệ xã hội giữa những người trong một tổ chức và giữa các tổ
chức xã hội trong quá trình sản xuất vật chất, trong các hoạt động xã hội
nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Trong hệ thống quản lý xã hội, QLNN về
kinh tế có vai trò và vị trí quan trọng hàng đầu, đặc biệt trong điều kiện phát
triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Vấn đề đặt ra không
chỉ đơn thuần là sự lựa chọn nhà nước hay thị trường. Nói cách khác, mối
quan tâm hàng đầu là xác định sự phân công hợp lý giữa Nhà nước và thị
trường nhằm khai thác triệt để những lợi thế, đồng thời tránh được hoặc giảm
thiểu những thất bại của cả Nhà nước lẫn thị trường. WB cho rằng: Nhà nước
nên ít tham gia vào những lĩnh vực mà thị trường vận hành tốt; và nên tham
gia nhiều vào các lĩnh vực không thể dựa vào thị trường. Khi các hành động
là cần thiết, chúng nên đi cùng hoặc thông qua các lực lượng thị trường chứ
không phải chống lại thị trường.
QLNN đối với đất đai là một nội dung quan trọng của QLNN về kinh
tế, do vai trò và vị trí đặc biệt của đất đai với tính chất là tài nguyên quốc gia
vô cùng quý giá, TLSX không thể thay thế trong sản xuất nông lâm nghiệp, là
mặt bằng để tổ chức sản xuất của nhiều ngành kinh tế…, đồng thời đất đai
còn là hàng hoá đặc biệt có giá trị cao. QLNN đối với đất đai trong nền KTTT
ở nước ta hiện nay chính là chức năng của Nhà nước thực hiện quyền đại diện
sở hữu toàn dân, tham gia trực tiếp vào vận hành thị trường đất đai.
Hệ thống các công cụ QLNN đối với đất đai đang được triển khai thực

nội dung đã quy định ở Điều 6, Luật Đất đai 2003, đó là:
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai
và tổ chức thực hiện các văn bản đó;
10
- Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành
chính, lập bản đồ hành chính;
- Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính, bản
đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất;
- Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
- Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử
dụng đất;
- Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất;
- Thống kê, kiểm Kế đất đai;
- Quản lý tài chính về đất đai;
- Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất
động sản;
- Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất;
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất
đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai;
- Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi
phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai;
- Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
Mười ba nội dung trên nhằm bảo vệ và thực hiện quyền sở hữu Nhà
nước về đất đai, được tập trung vào 4 lĩnh vực cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Nhà nước nắm chắc tình hình đất đai, tức là Nhà nước biết rõ
các thông tin chính xác về số lượng đất đai, về chất lượng đất đai, về tình hình
hiện trạng của việc quản lý và sử dụng đất đai. Cụ thể:
- Về số lượng đất đai: Nhà nước nắm về diện tích đất đai trong toàn

được phù hợp với yêu cầu và lợi ích của Nhà nước, Nhà nước tiến hành kiểm
tra giám sát quá trình phân phối và sử dụng đất. Trong khi kiểm tra, giám sát,
nếu phát hiện các vi phạm và bất cập trong phân phối và sử dụng, Nhà nước
sẽ xử lý và giải quyết các vi phạm, bất cập đó.
Thứ tư. Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai.
Hoạt động này được thực hiện thông qua các chính sách tài chính về đất đai
như: thu tiền sử dụng đất (có thể dưới dạng tiền giao đất khi Nhà nước giao
đất có thu tiền sử dụng đất, có thể dưới dạng tiền thuê đất, có thể dưới dạng
12
tiền chuyển mục đích sử dụng đất), thu các loại thuế liên quan đến việc sử
dụng đất (như thuế sử dụng đất, thuế thu nhập có nguồn gốc từ đất ) nhằm
điều tiết các nguồn lợi hoặc phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư
của người sử dụng đất mang lại.
Các mặt hoạt động trên có mối quan hệ trong một thể thống nhất và
mang tính liên tục, có định hướng mục tiêu của bộ máy Nhà nước lên đối
tượng sử dụng đất, nhằm thực hiện mục tiêu chung đề ra trong những điều
kiện và môi trường kinh tế nhất định, trên nguyên tắc cao nhất Nhà nước là
đại diện sở hữu toàn dân về đất đai trực tiếp tham gia vận hành thị trường, để
thực hiện quyền về kinh tế của sở hữu và các chức năng khác của Nhà nước.
Khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai, đồng thời có
biện pháp bảo vệ đất và môi trường sống theo hướng bền vững.
Từ sự phân tích các hoạt động quản lý nhà nước đối với đất đai như
trên, có thể đưa ra khái niệm quản lý nhà nước về đất đai như sau:
Quản lý nhà nước về đất đai là tổng hợp các hoạt động của các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu của Nhà
nước đối với đất đai; đó là các hoạt động nắm chắc tình hình sử dụng đất;
phân phối và phân phối lại quỹ đất theo quy hoạch, kế hoạch; kiểm tra giám
sát quá trình quản lý và sử dụng đất; điều tiết và sử dụng các nguồn lợi từ đất
đai.
2.2. Vai trò và sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất đai:

giúp cho người sử dụng đất có biện pháp hữu hiệu để khai thác đất.
Hai là, thông qua công tác đánh giá phân hạng đất, Nhà nước nắm chắc
toàn bộ quỹ đất đai cả về số lượng và chất lượng làm căn cứ cho các bịên
pháp kinh tế xã hội có hệ thống, có căn cứ khoa học nhằm sử dụng đất đai
hiệu quả và hợp lý.
Ba là, thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật đất đai,
Nhà nước tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tổ
chức kinh tế, doanh nghiệp, cá nhân trong quan hệ về đất đai. Bằng hệ thống
pháp luật và các văn bản pháp quy, Nhà nước xác định địa vị pháp lý cho các
đối tượng sử dụng. Trên cơ sở đó Nhà nước điều chỉnh hành vi của các đối
tượng sử dụng đất, hành vi nào là hợp pháp, hành vi nào là không hợp pháp.
Bốn là, thông qua việc ban hành và thực hiện hệ thống chính sách về
đất đai như chính sách giá cả, chính sách thuế, đầu tư, chính sách tiền tệ, tín
dụng… Nhà nước kích thích các chủ thể kinh tế, các cá nhân sử dụng đầy đủ
14
hợp lý đất đai, tiết kiệm đất nhằm nâng cao khả năng sinh lời của đất, để góp
phần thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của cả nước và để bảo vệ môi trường.
Các chính sách đất đai là những công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò quản
lý trong từng giai đoạn nhất định. Nhà nước tạo môi trường thông thoáng, cải
cách các thủ tục đầu tư, điều chỉnh các công cụ quản lý đó để tăng đầu tư vào
đất.
Năm là, thông qua việc kiểm tra, giám sát quản lý và sử dụng đất, Nhà
nước nắm chắc tình hình diễn biến về sử dụng đất đai, phát hiện những vi
phạm và giải quyết những vi phạm đó. Với vai trò này, Nhà nước đảm bảo
cho các quan hệ sử dụng đất đai được vận hành theo đúng quy định của Nhà
nước. Với việc kiểm tra giám sát, Nhà nước có nhiệm vụ phát hiện kịp thời
các sai sót ách tắc, các vi phạm trong sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân. Vai trò này được Nhà nước tiến hành với nhiều nội dung khác nhau:
+ Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch của các ngành các cấp.
+ Kiểm tra giám sát việc chấp hành thực hiện các văn bản pháp lý, chủ

trường thì không thể thiếu được sự quản lý của Nhà nước với tư cách là chủ
thể của nền kinh tế quốc dân. Như vậy, Nhà nước thực hiện chức năng quản
lý là một đòi hỏi khách quan, là nhu cầu tất yếu trong việc sử dụng đất đai.
Nhà nước không chỉ quản lý bằng công cụ pháp luật, các công cụ tài chính mà
Nhà nước còn kích thích khuyến khích đối tượng sử dụng đất hiệu quả bằng
biện pháp kinh tế. Biện pháp kinh tế tác động trực tiếp đến lợi ích của người
sử dụng đất và đây là một biện pháp hữu hiệu trong cơ chế thị trường, nó làm
cho các đối tượng sử dụng đất có hiệu quả hơn, làm tốt công việc của mình,
vừa bảo đảm được lợi ích cá nhân cũng như lợi ích của toàn xã hội.
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước về đất
đai.
3.1. Nhân tố pháp luật:
Thực tiễn và kết quả của công cuộc đổi mới mang lại ngày càng chứng
minh không thể thiếu được pháp luật trong đời sống xã hội. Bởi vì đường lối
của Đảng không thể thực hiện được nếu đường lối đó không được Nhà nước
thể chế thành pháp luật. Nhà nước không thể tổ chức thực hiện đường lối của
Đảng và quản lý xã hội một cách có hiệu quả nếu không thực hiện quản lý
bằng pháp luật, các quyền tự do dân chủ của công dân không thể thực hiện
nếu không có pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Đảng ta xác định Nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Chính vì thế, pháp luật sẽ có
16
tác động mạnh mẽ đến công tác quản lý. Một hệ thống pháp luật đồng bộ, rõ
ràng, cụ thể làm cho công tác quản lý được hiệu quả và thuân lợi. Vì các cơ
quan quản lý theo đúng pháp luật quy định mà thực hiện, không gặp những
vướng mắc trở ngại nào nếu như văn bản pháp luật đó mang tính khoa học và
cụ thể. Pháp luật có ý nghĩa quan trọng đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh đa dạng cùng với các mối quan hệ sử dụng đất đai phức tạp
đòi hỏi pháp luật nói chung và Luật Đất đai nói riêng phải tạo nên một môi

vệ sức khỏe cho nhân dân, ưu đãi người có công với cách mạng, văn hóa, y tế,
dân tộc, vấn đề lao động và việc làm cũng ảnh hưởng đến công tác quản lý
nói chung và quản lý đất đai nói riêng. Giải quyết được việc làm sẽ góp phần
đảm bảo trật tự an ninh trong xã hội, giảm bớt các tệ nạn xã hội do thiếu việc
làm gây ra, điều đó sẽ thể hiện rõ bản chất của một chế độ do con người, vì
con người và tạo mọi điều kiện để con người tự do sáng tạo nuôi sống mình,
đóng góp cho sự công bằng và tiến bộ xã hội. Yếu tố này làm cho công tác
quản lý đất đai được nhẹ nhàng hơn và hiệu lực quản lý từng bước được nâng
cao. Bởi vì các tệ nạn xã hội sẽ được giảm bớt, công bằng xã hội được thiết
lập và đảm bảo cho cơ quan quản lý thực hiện trách nhiệm quản lý dễ dàng
hơn. Việc thực hiện chính sách người có công với cách mạng như tặng nhà
tình nghĩa, miễn giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất … là công việc quản lý
thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta. Tập trung đầu tư
cho giáo dục, văn hóa để nâng cao nhận thức về pháp luật cho mọi người là
việc làm quan trọng, để cho mọi người thấy rõ được chủ trương, đường lối
chính sách của Đảng trong công tác quản lý. Sự ổn định về mặt xã hội là yếu
tố để nâng cao hiệu quả quản lý đất đai. Yếu tố quan trọng khác cũng có ảnh
hưởng đến quản lý đất đai đó là phong tục tập quán của người dân cũng như
tâm lý của họ trong đời sống xã hội, nhất là ở khu vực nông thôn hiện nay.
3.3. Nhân tố kinh tế:
Công tác quản lý nói chung và quản lý nhà nước về đất đai nói riêng
phải có cơ sơ vật chất kỹ thuật, máy móc hiện đại để đáp ứng cho yêu cầu
quản lý hiện nay.
Đào tạo nhân lực là cốt lõi để thực hiện quản lý. Thực hiện công việc
này phải có một nguồn kinh phí lớn. Sự phát triển của nền kinh tế với nhịp độ
cao và ổn định tạo ra được giá trị sản phẩm to lớn từ đó có thể tập trung
nguồn lực để đầu tư cho viẹc đào tạo nhân lực. Măt khác một nền kinh tế phát
triển sẽ kích thích sự phát triển của khoa học công nghệ, kích thích sự phát
triễn sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy chuyên môn hóa sản xuất và
phân công lao động xã hội… giúp cho công tác quản lý được thuận lợi hơn,

nhiều biến động vì vậy không thể áp dụng mô hình quản lý cũ được. Việc đầu
tư cơ sở hạ tầng mở mang đô thị đã kàm cho giá đất tăng lên một cách đáng
kể. Một con đường mới mở do Nhà nước đầu tư sẽ mang lại sự gia tăng giá trị
cho các lô đất hai bên đường. Đất nông nghiệp trước khi chưa được lấy để
phục vụ cho phát triển đô thị thì giá đất đó chỉ tính theo giá đất nông nghiệp
trong khung giá do Nhà nước ban hành, nhưng khi đã chuyển sang để phục vụ
19
cho phát triển đô thị thì giá đất đã tăng gấp nhiều lần so với trước. Nhất là ở
các khu phố có hoạt động kinh tế buôn bán sầm uất thì giá đất đã tăng lên gấp
nhiều lần so với trước kia. Tại các vùng ven đô trước kia là khu nông thôn
nhưng hiện nay quá trình đô thị hóa đã đẩy giá đất tăng cao vùn vụt và đó
cũng là nguyên nhân của những cơn sốt đất trên địa bàn thành phố thời gian
qua. Từ sự phân tích trên có thể thấy yếu tố kinh tế có tác động mạnh đến
quản lý sử dụng đất, đến giá trị của đất nhất là trong sự phát triển kinh tế với
nhịp độ cao như hiện nay.
II. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI
Nội dung quản lý nhà nước về đất đai gồm 13 nội dung được quy định
tại Điều 6 Luật Đất đai 2003. Trong đó chế độ quản lý đất đai gồm những nội
dung cơ bản sau:
1. Ban hành văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng đất và tổ chức
thực hiện các văn bản đó.
Đây là nội dung hết sức quan trọng trong quản lý đất đai. Nó là cơ sở
quan trọng cho các nội dung khác bởi lẽ các nội dung khác về quản lý đất đai
đều phải được dựa trên các quy định của pháp luật. Văn bản quy phạm pháp
luật bao gồm các văn bản luật và dưới luật. Như: Hiến pháp, Luật, Nghị định,
Quy định, Chỉ thị, Thông tư…
Văn bản pháp luật về quản lý sử dụng đất là những văn bản không chỉ
cung cấp thông tin mà còn thể hiện ý chí mệnh lệnh của các cơ quan quản lý
đối với người sử dụng đất nhằm thực hiện các quy định, luật lệ của Nhà nước.
Dựa trên việc ban hành các văn bản pháp luật này, Nhà nước buộc các đối

Điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất là công việc quan
trọng của công tác quản lý đất đai. Thông qua công tác này Nhà nước mới
nắm chắc được toàn bộ vốn đất đai cả về số lượng lẫn chất lượng trong lãnh
thổ quốc gia. Mặt khác Nhà nước mới có thể đánh giá được khả năng đất đai
ở từng vùng, từng địa phương để có mục đích sử dụng đất phù hợp. Đối với
đất có tiềm năng lớn cho sản xuất nông nghiệp, thông qua công tác này Nhà
nước sẽ quy hoạch đất để sử dụng vào mục đích nông nghiệp. Cũng nhờ công
tác này mà Nhà nước mới có biện pháp và phương hướng sử dụng các loại
đất có khoa học và hệ thống.
Để nắm được diện tích đất đai, Nhà nước phải tiến hành khảo sát đo
đạc. Việc đánh giá và phân hạng đất là một công việc rất phức tạp. Đối với
phân hạng đất, Nhà nước phải căn cứ vào 5 yếu tố đó là: Điều kiện địa hình,
khí hậu, chất đất, điều kiện tưới tiêu, vị trí của khu đất so với đường giao
thông hoặc nơi tiêu thụ sản phẩm.
21
Luật Đất đai 2003 quy định việc phân loại đất được thực hiện căn cứ
vào mục đích sử dụng, đất đai được phân làm ba nhóm chính:
- Nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại đất: Đất trồng cây hàng năm
gồm đất trồng lúa, đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm
khác; Đất trồng cây lâu năm; Đất rừng sản xuất; Đất rừng phòng hộ; Đất rừng
đặc dụng; Đất nuôi trồng thuỷ sản; Đất làm muối; Đất nông nghiệp khác theo
quy định của Chính phủ;
- Nhóm đất phi nông nghiệp bao gồm các loại đất: Đất ở gồm đất ở tại
nông thôn, đất ở tại đô thị; Đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trình
sự nghiệp; Đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; Đất sản xuất, kinh
doanh phi nông nghiệp gồm đất xây dựng khu công nghiệp; đất làm mặt bằng
xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản;
đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm; Đất sử dụng vào mục đích công
cộng gồm đất giao thông, thuỷ lợi; đất xây dựng các công trình văn hoá, y tế,
giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao phục vụ lợi ích công cộng; đất có di tích

thuật và pháp lý của Nhà nước về tổ chức sử dụng quản lý đất đai một cách
đầy đủ hợp lý khoa học và có hiệu quả cao nhất, thông qua việc tính toán
phân bổ quỹ đất cho các ngành, các mục đích sử dụng, các tổ chức và cá nhân
sử dụng đất nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội và tạo điều kiện bảo vệ
đất đai, môi trường sinh thái.
Kết quả của công tác quy hoạch phải đảm bảo 3 điều kiện: Kỹ thuật,
kinh tế và pháp lý. Điều kiện về mặt kinh tế được thể hiện ở hiệu quả của việc
sử dụng đất, điều kiện về mặt kỹ thuật thể hiện ở các công việc chuyên môn
như điều tra, khảo sát đo đạc, xây dựng bản đồ địa chính, điều kiện về mặt
pháp lý là quy hoạch phải tuân thủ các quy định của pháp luật, theo sự phân
công phân cấp của Nhà nước đối với công tác quy hoạch.
Quy hoạch sử dụng đất bao gồm quy hoạch tổng thể sử dụng đất trên
phạm vi cả nước, quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh, quy hoạch sử dụng đất cấp
huyện và quy hoạch sử dụng đất cấp xã. Quy hoạch sử dụng đất cấp trên là
căn cứ để lập quy hoạch sử dụng đất của cấp đơn vị hành chính cấp dưới trực
tiếp. Nội dung của công tác quy hoạch là khoanh định các loại đất trong từng
địa phương và trong phạm vi cả nước, điều chỉnh việc khoanh định nói trên
cho phù hợp với giai doạn phát triển kinh tế xã hội. Vấn đề chú ý khi lập quy
hoạch là phải đảm bảo tính dự báo, tính thống nhất và khoa học, quy hoạch
phải được công bố rộng rãi cho công chúng biết.
Kế hoạch sử dụng đất là chỉ tiêu cụ thể hóa quy hoạch. Công tác kế
hoạch tập trung những nguồn lực tối thiểu vào giải quyết có hiệu quả những
23
vấn đề trọng tâm của kế hoạch trong từng thời kì. Nội dung của kế hoạch sử
dụng đất là khoanh định việc sử dụng từng loại đất trong từng thời kì kế
hoạch và điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất cho phù hợp với quy hoạch sử dụng
đất.
Thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, căn cứ vào những thuộc
tính tự nhiên của đất như vị trí, diện tích mà các loại đất được sử dụng theo
từng mục đích nhất định và hợp lý. Các thành tựu khoa học công nghệ không

dụng đất.
Giao đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định hành
chính cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất. Cho thuê đất là việc Nhà nước
trao quyền sử dụng đất bằng hợp đồng cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.
Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử
dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý
theo quy định của Luật Đất đai.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các mối
quan hệ xã hội trong lĩnh vực đất đai phát triển đa dạng hơn, phức tạp hơn.
Mối quan hệ đó được xây dựng trên cơ sở sự phát triển của quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Thực hiện chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước đã giao đất đến từng hộ gia đình cá
nhân sử dụng lâu dài và ổn định để sản xuất nông nghiệp, Nhà nước giao đất,
cho thuê đất để khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội. Tổ chức, hộ gia đình,
cá nhân được Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, bảo lãnh, thế chấp, góp vốn bằng giá trị
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử
dụng đất nhằm làm cho việc sử dụng đất hiệu quả, đúng quy định và theo
đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được duyệt. Là cơ sở cho việc kiểm
kê, thống kê đất đai và xác định, phân bổ nguồn tài chính từ đất.
Nhà nước có quy định cho từng trường hợp Nhà nước giao đất có thu
tiền sử dụng đất, giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất
đối với đất đang có người sử dụng cho người khác, cho thuê đất trả tiền thuê
đất hàng năm hoặc cho cả thời gian thuê, quy định hạn mức giao đất cho từng
vùng miền, từng địa phương, từng loại đất và thời gian cụ thể. Nhà nước cũng
quy định việc thu hồi đất trong đó có xem xét đến việc bồi thường, hỗ trợ sau
khi thu hồi đất để người dân có điều kiện ổn định đời sống, quy định trường
hợp nào được bồi thường, hỗ trợ và trường hợp nào không được bồi thường,
hỗ trợ khi thu hồi đất. Căn cứ và thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, thu hồi


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status