nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và khả năng tái sinh của các loài cây gỗ trong thảm thực vật sau nương rẫy ở xã tam hiệp, huyện yên thế, tỉnh bắc giang - Pdf 22

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
ĐỖ THANH HUYỀN

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC
VÀ KHẢ NĂNG TÁI SINH CỦA CÁC LOÀI CÂY GỖ
TRONG THẢM THỰC VẬT SAU NƢƠNG RẪY Ở XÃ
TAM HIỆP, HUYỆN YÊN THẾ, TỈNH BẮC GIANG

Chuyên ngành: SINH THÁI HỌC
Mã số: 60.42.60
LUẬN VĂN THẠC SỸ SINH HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thế Hƣng

trong học tập và nghiên cứu khoa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ Hạt kiểm lâm huyện Yên thế, các tổ
chức, cá nhân đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được học tập và hoàn thành
luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên,
giúp đỡ tôi về nhiều mặt trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày 20 tháng 04 năm 2012
Tác giả Đỗ Thanh Huyền Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục i
Danh mục các chữ viết tắt iv
Danh mục các bảng, biểu đồ v
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 3
3. Ý nghĩa của đề tài 3
4. Cấu trúc của luận văn 3

2.3.4. Đánh giá khả năng tái sinh và phục hồi tự nhiên của các trạng thái
thảm thực vật tại khu vực nghiên cứu 22
2.3.5. Một số biện pháp lâm sinh phục hồi thảm thực vật sau nương rẫy 22
2.4. Phương pháp nghiên cứu 22
2.4.1. Phương pháp điều tra 22
2.4.2. Thu thập số liệu 24
Chƣơng 3. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI VÙNG
NGHIÊN CỨU 29
3.1. Điều kiện tự nhiên 29
3.1.1. Vị trí địa lý 29
3.1.2. Đặc điểm địa hình 31
3.1.3. Đất đai 32
3.1.4. Điều kiện khí hậu 33
3.1.5. Điều kiện thủy văn 33
3.1.6. Tài nguyên khoáng sản 34
3.1.7. Tài nguyên rừng 35
3.2. Điều kiện kinh tế, xã hội 36
3.2.1. Điều kiện kinh tế 36
3.2.2. Điều kiện xã hội 39

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
Chƣơng 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 42
4.1. Hiện trạng các thảm thực vật sau nương rẫy tại khu vực nghiên cứu 42
4.1.1. Các trạng thái thảm thực vật tại khu vực nghiên cứu 42
4.1.2. Đặc điểm các trạng thái thảm thực vật thứ sinh tại khu vực nghiên cứu 42
4.2. Năng lực tái sinh tự nhiên của các loài cây gỗ trong thảm thực vật
phục hồi sau nương rẫy 62
4.2.1. Độ thường gặp cây tái sinh 62

Thảm thực vật
2.
NR
Nương rẫy
3.
OTC
Ô tiêu chuẩn
4.
ODB
Ô dạng bản
5.
KVNC
Khu vực nghiên cứu
6.
[2]
Thứ tự tài liệu tham khảo.
7.
3.1
Số liệu bảng, chữ số đầu là thứ tự chương, chữ số
sau dấu chấm là số thứ tự bảng trong chương.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng 4.1. Thành phần các taxon thực vật ở khu vực nghiên cứu

sự huỷ hoại rừng. Theo thống kê của Liên Hợp Quốc, hàng năm trên thế
giới có 11 triệu ha rừng bị phá huỷ, riêng khu vực Châu Á Thái Bình
Dương hàng năm có 1,8 triệu ha rừng bị phá mất, tương đương mỗi ngày
mất đi 5000 ha rừng nhiệt đới.
Rừng nước ta được các nhà nghiên cứu thực vật đánh giá là giàu nhất nhì
thế giới với sự đa dạng sinh học cao. Nhưng hiện nay, rừng đã giảm đáng kể
về cả số lượng và chất lượng. Năm 1943, diện tích rừng ở Việt Nam ước tính
có khoảng 14,3 triệu ha (Maurand, 1943), với tỷ lệ che phủ là 43,8% (chiếm
42% diện tích tự nhiên của cả nước). Đến năm 1993 chỉ còn 9,5 triệu ha, tỷ lệ
che phủ là 28% diện tích đất tự nhiên. Và đến nay chỉ còn 6,5 triệu ha (tương
đương 19,7%). Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự duy thoái rừng ở Việt Nam
nhưng nguyên nhân chủ yếu là đốt nương làm rẫy (40-50%) [67].
Trước tình hình đó, Chính phủ, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn và
chính quyền các cấp cũng đã có những chính sách chỉ đạo thực thi quyết liệt
để đối phó và cải thiện tình hình. §ộ che phủ của rừng những năm gần đây đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
tăng từ 24% năm 1981 lên 33% năm 1999 ( Jyki và cộng sự ), đến cuối năm
2002 thì độ che phủ đã đạt 35,8% diện tích tự nhiên và tiếp tục tăng lên
38,2% năm 2007. Diện tích rừng đã tăng song chủ yếu vẫn là rừng trồng, rừng
non. Rừng giàu, rừng nguyên sinh tiếp tục bị suy giảm. Rừng nguyên thuỷ chỉ
còn chưa đến 10%. Như vậy, khó có thể thực hiên được muc tiêu đề ra là đến
năm 2020, đưa độ che phủ của rừng lên 45% kể cả diện tích cây công nghiệp
lâu năm [67].
Bắc Giang là tỉnh miền núi có diện tích tự nhiên 3.823 km
2
, chiếm 1,2%
diện tích tự nhiên của Việt Nam. Trong đó, đất lâm nghiệp có rừng chiếm

biện pháp lâm sinh trong việc khoanh nuôi phục hồi rừng.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần làm sáng tỏ thêm qui luật tái sinh rừng sau canh tác nương rẫy.
Bổ sung tư liệu về tái sinh rừng.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học để đề xuất các biện pháp kỹ thuật
lâm sinh thích hợp đối với thảm thực vật phục hồi sau canh tác nương rẫy tại
vùng nghiên cứu.

4. Cấu trúc của luận văn
Mở đầu
Chương 1. Tổng quan tài liệu
Chương 2. Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3. Điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội khu vực nghiên cứu
Chương 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Kết luận và đề nghị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm thảm thực vật
Khái niệm về thảm thực vật đã được rất nhiều các nhà khoa học trong và
ngoài nước đưa ra. Theo J.Schmithusen (1959) thì thảm thực vật là lớp
thực bì của Trái đất và các bộ phận cấu thành khác nhau của nó. Theo

Theo Engler (1882) thì số loài thực vật là khoảng 275000 loài. Ở Liên
Xô (cũ) như Vưsotxki (1915), Alokhin (1904), Craxit (1927), Sennhicốp
(1933), Creepva (1978)… theo các tác giả thì việc nghiên cứu thành phần
loài, thành phần dạng sống là chỉ tiêu quan trọng trong phân loại loại hình
thảm thực vật.
Ramakrishman (1981-1992) nghiên cứu thảm thực vật sau nương rẫy ở
vùng Tây Bắc Ấn Độ khẳng định: chỉ số đa dạng loài rất thấp, chỉ số loài ưu
thế đạt cao nhất ở pha đầu của quá trình diễn thế và giảm dần theo thời gian
bỏ hoá.
Long Chun và cộng sự (1993), nghiên cứu về đa dạng thực vật ở hệ sinh
thái nương rẫy tại Xishuang Bana tỉnh Vân Nam Trung Quốc đã nhận xét: khi
nương rẫy bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài; bỏ hoá 19 năm thì
có 60 họ, 134 chi và 167 loài.
Như vậy, những nghiên cứu về thành phần loài của các tác giả trên thế
giới tập trung nghiên cứu và đánh giá thành phần loài ở một vùng và khu vực
cụ thể, phản ánh hệ thực vật đặc trưng trong mối tương quan với điều kiện địa
hình và khí hậu. Tuy vậy, cần có những công trình nghiên cứu cụ thể hơn
rộng rãi hơn nhằm mục đích có thể đánh giá chính xác thành phần loài thực
vật đặc trưng của một khu vực hoặc một quốc gia.
1.2.2. Ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu về thành phần loài thực vật ở Việt Nam cũng
rất nhiều.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Thái Văn Trừng (1978) thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7004 loài thực
vật bậc cao có mạch thuộc 1850 chi, 289 họ [54].
Phan Kế Lộc (1978) điều tra phát hiện 20 loài cây có tannin thuộc họ Trinh
nữ (Mimosaceae) và giới thiệu 4 loài khác mọc ở Việt Nam có tannin [37].

nương rẫy ở Sơn La đã kết luận: kết quả cho thấy ở tuổi 4 có 41 loài; tuổi 10
có 56 loài; tuổi 14 có 53 loài [48].
Lê Trọng Cúc, Phạm Hồng Ban (2000) nghiên cứu sự biến động thành
phần loài thực vật sau nương rẫy ở huyện Con Cuông, Nghệ An nhận xét
rằng: do ảnh hưởng của canh tác nương rẫy nên thành phần loài và số lượng
cây gỗ trên một đơn vị diện tích có xu hướng giảm dần, đơn giản hoá để tái ổn
định [17].
Trần Đình Đại (2001) căn cứ vào kết quả điều tra thực địa, mẫu vật lưu
giữ tại các phòng tiêu bản đã thống kê danh lục các loài thực vật tại vùng Tây
Bắc Bộ (Lai Châu, Lào Cai, Sơn La) gồm 226 họ, 1050 chi và 3074 loài thuộc
6 ngành thực vật bậc cao có mạch [20].
Đặng Kim Vui (2002) [58] nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi
sau nương rẫy để làm cơ sở đề xuất giải pháp khoanh nuôi, làm giàu rừng ở
huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã kết luận: giai đoạn phục hồi 1 - 2 tuổi,
thành phần loài thực vật là 72 loài thuộc 36 họ, trong đó họ Hoà thảo có số
lượng lớn nhất là 10 loài, tiếp đến là họ Thầu dầu (6 loài)…; giai đoạn 3 - 5
tuổi có 65 loài thuộc 34 họ; giai đoạn 5 - 10 tuổi có 56 loài thuộc 36 họ; giai
đoạn 11 - 15 tuổi có 57 loài thuộc 31 họ.
Nguyễn Thế Hưng (2003) đã thống kê trong các trạng thái thảm thực vật
nghiên cứu ở huyện Hoành Bồ, Thị xã Cẩm Phả (Quảng Ninh) có 324 loài
thuộc 251 chi và 93 họ của 3 ngành thực vật bậc cao có mạch [30].
Phạm Ngọc Thường (2003) khi nghiên cứu đặc điểm quá trình tái sinh tự
nhiên sau nương rẫy ở Bắc Kạn kết luận: quá trình phục hồi sau nương rẫy
chịu tác động tổng hợp của các nhóm nhân tố sinh thái như nguồn giống, địa
hình, thoái hoá đất, con người. Mật độ cây giảm dần theo thời gian phục hồi
của thảm thực vật cây gỗ, trên đất tốt nhiều nhất 11 - 25 loài, trên đất xấu 8 -
12 loài [53].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



9
G.N.Vưxoxki (1915) chia thực vật thảo nguyên làm 2 lớp: lớp cây nhiều
năm và lớp cây hàng năm.
Braun - Blanquet (1951) đánh giá cách mọc của thực vật dựa vào tính
liên tục hay đơn độc của loài đó chia thành 5 thang: mọc lẻ; mọc thành vạt;
mọc thành dải nhỏ; mọc thành vạt lớn và mọc thành khóm lớn.
Trong rất nhiều cách phân loại dạng sống thì bảng phân loại dạng sống
của Raunkiaer (1934) là được nhiều người công nhận. Ông đã dùng vị trí chồi
so với mặt đất và đặc điểm của nó vào thời kỳ khó khăn nhất cho sự sinh
trưởng của thực vật (tức là lúc điều kiện khó khăn nhất loài đó tồn tại ở dạng
nào) để làm cơ sở phân loại.
Raunkiaer đó chia 5 nhóm dạng sống cơ bản:
1. Phanerophytes (Ph): nhóm cây có chồi trên mặt đất
2. Chamaetophytes (Ch): nhóm cây có chồi sát mặt đất
3. Hemicryptophytes (He): nhóm cây có chồi nửa ẩn
4. Cryptophytes (Cr): nhóm cây có chồi ẩn
5. Therophytes (Th): nhóm cây sống 1 năm
Cở sở phân chia dạng sống của Raunkiaer là sự khác nhau về khả năng
thích nghi của thực vật qua thời gian bất lợi trong năm, từ tổ hợp các dấu hiệu
thích nghi ông chi chọn một dấu hiệu là vị trí chồi nằm ở đâu trên mặt đất
trong suốt thời gian bất lợi trong năm. Trong nhóm 5 dạng sống đó ông còn
chia ra các nhóm gồm tất cả 30 nhóm dạng sống. Ông đã xây dựng phổ chuẩn
của các dạng sống ở các vùng khác nhau trên Trái đất (SB):
SB = 46Ph + 9Ch + 26He + 6Cr + 13Th
Hệ thống phân chia dạng sống của Raunkiaer có ý nghĩa quan trọng, đảm
bảo tính khoa học, đơn giản, dễ áp dụng. Vì vậy trong công trình nghiên cứu
của mình tôi cũng phân chia dạng sống khu vực nghiên cứu theo Raunkiaer.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Nguyễn Bá Thụ, Phùng Ngọc Lan, Nguyễn Nghĩa Thân (1995) đã xây
dựng phổ dạng sống của hệ thực vật Vườn quốc gia Cúc Phương là:
SB = 57,8 Ph + 10,5Ch + 12,4 He + 8,3Cr + 11,0Th
Phạm Hồng Ban (2000) [1], nghiên cứu tính đa dạng sinh học của hệ sinh
thái sau nương rẫy vùng Tây Nam, Nghệ An ®· phân chia dạng sống, phổ
dạng sống là:
SB = 67,40Ph + 7,33Ch + 12,62He + 8,53Cr + 4,09Th
Phạm Ngọc Thường (2003) [53], khi nghiên cứu thảm thực vật sau nương
rẫy ở Thái Nguyên, Bắc Kạn đã cho kết quả phổ dạng sống của hệ thực vật là:
SB = 56,37Ph + 12,73Ch + 14,23He +8,80Cr + 7,87Th
Nguyễn Thế Hưng (2003) [30], khi nghiên cứu dạng sống thực vật
trong các trạng thái thảm thực vật tại Hoành Bồ, Quảng Ninh đã kết luận về
phổ dạng sống của hệ thực vật là:
SB = 60,9 Ph + 8,02 Ch + 13,27 He + 7,47 Cr + 10,8 Th
Vũ Thị Liên (2005) [36], phân chia dạng sống thực vật trong thảm thực
vật sau nương rẫy ở Sơn La theo thang phân loại của Raunkiaer. Kết quả phổ
dạng sống như sau:
SB = 69,69Ph + 3,76Ch + 9,29He + 10,84Cr + 6,42Th
Hoàng Chung (2008) khi nghiên cứu thực vật trong đồng cỏ vùng núi
Bắc Việt Nam, đã phân chia 8 kiểu dạng sống chính là: kiểu cây gỗ, kiểu
cây bụi, kiểu cây bụi thân bò, kiểu cây bụi nhỏ, kiểu cây bụi nhỏ bò, kiểu
nửa bụi, kiểu thực vật có khả năng tạo chồi mới từ rễ, kiểu cây thảo có hệ
rễ cái sống lâu năm [9].
1.4. Những công trình nghiên cứu về khả năng tái sinh phục hồi rừng
1.4.1. Khái niệm về tái sinh
Tái sinh rừng (Foresty regeneration) là một thuật ngữ được nhiều nhà khoa

Richards, 1933; 1939; Aubreville, 1938; Beard, 1946; Lebrun và Gilbert,
1954; Joné, 1955-1956; Schultz, 1960; Baur, 1964; Rollet, 1969). Do tính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
chất phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có một số loài có giá trị nên
trong thực tiễn, người ta chỉ khảo sát những loài cây có ý nghĩa nhất định.
Van Steenis (1956) đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến của
rừng mưa nhiệt đới là tái sinh phân tán liên tục của các loài cây chịu bóng và
tái sinh vệt của các loài cây ưa sáng.
Vấn đề tái sinh rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là hiệu quả các
cách thức xử lý lâm sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây mục đích ở
các kiểu rừng. Từ đó các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều
phương thức chặt tái sinh. Công trình của Bernard (1954, 1959); Wyatt Smith
(1961, 1963) với phương thức rừng đều tuổi ở Mã Lai; Nicholson (1958) ở
Bắc Borneo ; Taylor (1954), Jones (1960) với phương thức chặt dần tái sinh
dưới tán ở Nijêria và Gana; Barnarji (1959) với phương thức chặt dần nâng
cao vòm lá ở Andamann Nội dung chi tiết các bước và hiệu quả của từng
phương thức đối với tái sinh đã được Baur (1976) [2], tổng kết trong tác
phẩm: Cơ sở sinh thái học của kinh doanh rừng mưa.
Nghiên cứu tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi, Aubreville (1938) đã
khái quát hoá các hiện tượng tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi để đúc kết
nên lý luận bức khảm tái sinh, nhưng phần lý giải các hiện tượng đó còn bị
hạn chế. Vì vậy, lý luận của ông còn ít sức thuyết phục, chưa giúp ích cho
các biện pháp kỹ thuật điều khiển tái sinh rừng theo những mục tiêu kinh
doanh đã đề ra.
P. W. Richards (1952) [66], Bernard Rollet (1974) nghiên cứu về phân
bố tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới đã tổng kết các kết quả nghiên cứu về phân
bố số cây tái sinh tự nhiên đã nhận xét: cây tái sinh có dạng phân bố cụm,

và đánh giá tái sinh. Việc phân tích chi tiết lý luận các phương pháp thống kê
toán học trong điều tra và đánh giá tái sinh rừng được trình bày rõ trong các
công trình nghiên cứu của G. Smith (1967) và V.I. Vasilevich. (Dẫn theo
Phạm Ngọc Thường, 2003 [53] ).
Như vậy, các công trình nghiên cứu về tái sinh trªn thế giới chủ yếu tập
trung vµo phương pháp nghiên cứu, ảnh hưởng của các nhân tố đến cây tái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
sinh, quy luật tái sinh tự nhiên ở một số nơi, đặc biệt ở rừng nhiệt đới. Đó là
cơ sở để xây dựng các phương thức lâm sinh hợp lý nhằm thúc đẩy quá trình
tái sinh có hiệu quả ,bền vững.
1.4.2.2. ViÖt Nam
Một số kết quả nghiên cứu về tái sinh thường được đề cập trong các công
trình nghiên cứu về thảm thực vật, trong các báo cáo khoa học và một phần
công bố trên các tạp chí.
Trong thời gian từ năm 1962 đến năm 1969, Viện Điều tra - Quy hoạch
rừng đã điều tra tái sinh tự nhiên theo các "loại hình thực vật ưu thế" rừng thứ
sinh ở Yên Bái (1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng Bình (1969) và Lạng Sơn
(1969). Đáng chú ý là kết quả điều tra tái sinh tự nhiên ở vùng sông Hiếu
(1962-1964) bằng phương pháp đo đếm điển hình. Từ kết quả điều tra tái
sinh, dựa vào mật độ cây tái sinh, Vũ Đình Huề (1969) [27] đã phân chia khả
năng tái sinh thành 5 cấp, rất tốt, tốt, trung bình, xấu và rất xấu.
Vũ Đình Huề (1975) [28] đã tổng kết: tái sinh tự nhiên rừng miền Bắc
Việt Nam mang những đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt đới. Dưới tán rừng
nguyên sinh, tổ thành loài cây tái sinh tương tự như tầng cây gỗ; dưới tán
rừng thứ sinh tồn tại nhiều loài cây gỗ mềm kém giá trị và hiện tượng tái sinh
theo đám được thể hiện rõ nét tạo nên sự phân bố số cây không đồng đều trên
mặt đất rừng. Với những kết quả đó, tác giả đã xây dựng biểu đánh giá tái

Cây có triển vọng chiếm trên 60%, thành phần cây tái sinh phần lớn là những
cây chịu bóng.
Năm 1994, Nguyễn Ngọc Lung và cộng sự khi nghiên cứu về khoanh nuôi
và phục hồi rừng đã cho rằng, nghiên cứu quá trình tái sinh phải nắm chắc các
yếu tố môi trường và các quy luật tự nhiên tác động lên thảm thực vật. Qua đó
xác định các điều kiện cần và đủ để tác động của con người đi đúng hướng.
Quá trình đó được gọi là xúc tiến tái sinh tự nhiên [43].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Để đánh giá vai trò tái sinh và phục hồi rừng tự nhiên ở các vùng miền
Bắc, Trần Xuân Thiệp (1995) [51], nghiên cứu tập trung vào sự biến đổi về
lượng, chất lượng của tái sinh tự nhiên và rừng phục hồi. Qua đó, tác giả
kết luận: rừng phục hồi vùng Đông Bắc chiếm trên 30% diện tích rừng hiện
có, lớn nhất so với các vùng khác cßn rừng Tây Bắc phần lớn là diện tích
rừng phục hồi sau nương rẫy.
Lê Ngọc Công (2004) [15], khi nghiên cứu quá trình phục hồi bằng
khoanh nuôi trên một số thảm thực vật ở Thái Nguyên cho rằng giai đoạn đầu
của quá trình diễn thế phục hồi rừng (giai đoạn 1- 6 năm) mật độ cây tăng lên
sau đó giảm. Quá trình này bị chi phối bởi quy luật tái sinh tự nhiên, quá trình
nhập cư và quá trình đào thải của các loài cây.
Tóm lại, có nhiều công trình nghiên cứu về tái sinh rừng ë Việt Nam
nhưng tổng kết thành qui luật tái sinh cho từng loại rừng thì còn rất ít.
1.5. Nghiên cứu về tái sinh, phục hồi thảm thực vật sau nƣơng rẫy
1.5.1. Thế giới
F. A. Bazzaz (1968) khi nghiên cứu quá trình diễn thế phục hồi thảm
thực vật trên đất sau trồng trọt bỏ hoang ở vùng núi cao Shawnee, Illios (Mỹ)
đã đi đến kết luận rằng xói mòn đất có ảnh hưởng lâu dài đến diễn thế, ảnh
hưởng này thể hiện ở mật độ cây, tổng diện ngang của rừng đang phục hồi


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status