sáng kiến kinh nghiệm phương pháp bình văn trong giờ giảng văn học - Pdf 23

Đề tài : Phơng pháp bình văn trong giờ giảng văn học
PHềNG GIO DC V O TO HUYN ễNG TRIU
TRNG TRUNG HC C S MO KHấ II
**************************************
SNG KIN KINH NGHIM
Phng phỏp bỡnh vn trong gi
ging vn hc
H v tờn : Bựi Th Thu
Trng : THCS Mo Khờ II
Huyn : ụng Triu - Qung Ninh
Nm hc 2008- 2009
Giáo viên thực hiện : Bùi Thị Thuỷ - Trờng THCS Mạo Khê II
1
Đề tài : Phơng pháp bình văn trong giờ giảng văn học
MC LC
Nội dung
Trang
I. Phần mở đầu.
3
I.1. Lý do chọn đề tài.
3
I.2. Tính cần thiết của đề tài.
4
I.3. Mục đích nghiên cứu.
4
I.5. Đóng góp mới về mặt lý luận thực tiễn.
4
II. Phn ni dung 5
II.1. Thc trng vn 5
II.2. p dng trong ging dy 8
II.3. Phng phỏp nghiờn cu v kt qu sau

Quan điểm dạy học theo yêu cầu đổi mới của chơng trình và sách
giáo khoa hiện nay là phải tích cực hoá hoạt động, nâng cao năng lực tự
học, tự khám phá tri thức của các em học sinh. Quan điểm này cũng đợc
thể hiện rõ trong các phơng pháp dạy học môn Ngữ Văn. Song các ph-
ơng pháp: đọc diễn cảm, gợi tìm, đàm thoại, giảng bình vẫn là những
hoạt động thiết yếu trong giờ dạy các tác phẩm văn học. Điều quan
trọng nhất đối với môn Ngữ Văn là bình văn trong văn học theo hớng
tiếp nhận sáng tạo để thực hiện dạy tốt, học tốt phân môn .
Giảng Bình trong giờ giảng dạy văn học là điều không mới
song lâu nay giảng bình vào lúc nào ; giảng bình thế nào thì đợc coi
là đủ? Nên chọn nội dung nào để bình? Chuẩn bị lời bình ra sao và thể
hiện lời bình nh thế nào trong từng bài dạy cụ thể cũng là những điều
gây không ít lúng túng cho ngời giáo viên đứng lớp.
Mặt khác, lực bình văn của học sinh ( qua giờ học trên lớp và qua
bài kiểm tra ) còn nhiều hạn chế . Chính điều đó đã làm giảm hứng thú
niềm yêu thích, sự say mê học bộ môn của các em.Thực tế trên làm cho
những ngời thầy dạy văn tâm huyết với nghề không thể không trăn trở.
Vấn đề mà tôi quan tâm là sử dụng phơng pháp bình văn trong giờ dạy
phân môn văn nh thế nào để tạo đợc hiệu quả cao nhất trong giờ dạy
học tác phẩm văn chơng.
Giáo viên thực hiện : Bùi Thị Thuỷ - Trờng THCS Mạo Khê II
3
Đề tài : Phơng pháp bình văn trong giờ giảng văn học
I.3. Mục đích nghiên cứu.

- Việc nghiên cứu vấn đề Ph ơng pháp bình văn trong giờ giảng
văn học nhằm chỉ ra những khó khăn của Giáo viên khi dạy giờ
giảng văn học. Trên cơ sở đó, đề xuất các phơng pháp rèn kỹ năng
bình văn cho giáo viên nhằm góp phần tích cực cho việc đổi mới ph-
ơng pháp dạy học, nâng cao chất lợng và hứng thú học tập môn Văn

nm 1959. Vo u nhng nm 70 nh trng sỏt nhp vi trng tiu
hc Vnh Khờ mang tờn l trng PTCS Vnh Khờ. n nm 1995
trng c tỏch riờng thnh hai trng: Trng tiu hc Vnh Khờ v
Trng THCS Mo Khờ II.
Qua 50 nm xõy dng v trng thnh nh trng ó t c
nhng thnh tớch ỏng k, gúp phn phỏt trin giỏo dc a
phng.i ng giỏo viờn khụng ngng phn u nõng cao trỡnh o
to v tay ngh, s giỏo viờn gii, hc sinh gii luụn luụn t mc
cao, t l hc sinh lờn lp, tt nghip v trỳng tuyn vo trng THTP
Hong Quc Vit, cỏc trng chuyờn ca tnh, quc gia gi vng t
l cao. C s vt cht thit b ngy cng c ci thin, tng bc hon
thin theo quy mụ trng chun quc gia giai on 2. Vi nhng c
gng ú nhiu nm liờn tc nh trng t c danh hiu trng tiờn
tin xut sc ca Tnh, ca B; Liờn i nh trng nhiu nm liờn tc
c Trung ng on tng bng khen v c liờn i xut sc mang
chõn dung Bỏc. Trng c tng nhiu bng khen ca tnh, ca B
Giáo viên thực hiện : Bùi Thị Thuỷ - Trờng THCS Mạo Khê II
5
Đề tài : Phơng pháp bình văn trong giờ giảng văn học
giỏo dc & o to v ca Th tng Chớnh ph. Nm 1994 trng
c Ch tch nc tng Huõn chng lao ng hng ba, nm 2000
Ch tch nc tng Huõn chng lao ng hng nhỡ, nm 2007 trng
c Th tng Chớnh ph tng Bng khen, nm hc 2007 - 2008
trng c nhn c dn u phong tro thi ua khi THCS trong
ton tnh. Trng l mt trong hai trng u tiờn ca tnh c cụng
nhn trng chun quc gia giai on 2000 - 2010, ang chun b iu
kin t chun quc gia giai on 2
Trng THCS Mo Khờ II cú 1018 hc sinh chia lm 28 lp theo cỏc
khi 6, 7, 8, 9 mi khi 7 lp, a phng trng úng l mt th trn
cú nn kinh t - xó hi phỏt trin, i sng nhõn dõn n nh, nhõn dõn

II.1.3. Một số tồn tại và nguyên nhân.
Sáng kiến kinh nghiệm đợc áp dụng trong lớp 8C6 và lớp 8C7, tuy
nhiờn khả năng nhận thức và cảm thụ của học sinh không đồng đều, còn
một số học sinh còn thiếu động cơ học tập, lời học, không tích cực học
tập vì vậy việc phát huy tính tích cực của một số học sinh đó rất hạn
chế. Hơn nữa những học sinh trên ít đợc sự quan tâm của gia đình.Vì
vậy đòi hỏi sự cố gắng tận tâm của ngời thầy dần giúp các em hòa nhập
với khả năng nhận thức chung của cả lớp.
II.1.4. Một số vấn đề đặt ra:
Giáo viên thực hiện : Bùi Thị Thuỷ - Trờng THCS Mạo Khê II
7
Đề tài : Phơng pháp bình văn trong giờ giảng văn học
Qua nhiều năm giảng dạy, qua sự tích lũy kinh nghiệm của bản
thân, sự học hỏi từ tài liệu và đồng nghiệp. Từ những kết quả đã đạt đợc
và ý thức đợc sự tồn tại và nguyên nhân trên tôi thấy rằng phơng pháp
bình văn trong giờ giảng văn học sẽ góp phần nâng cao chất lợng các
giờ giảng văn học và tạo đợc sự say mê, hứng thú cho học sinh. Vỡ vy
tụi ó mnh dn ỏp dng SKKN trong giảng dạy nhằm nâng cao chất l-
ợng bộ môn.
II.2. áp dụng trong giảng dạy
II.2.1. Cỏc bc tin hnh.
1.1. Thế nào là giảng bình ? Vị trí, vai trò của giảng bình trong
dạy tác phẩm văn chơng trong nhà trờng phổ thông .
Nh chúng ta đã biết, giảng bình là một phơng pháp đặc thù của
dạy và học tác phẩm văn chơng và hình nh đã trở thành một thứ bí quyết
trong dạy, học văn . Ai biết bình và bình giỏi, giờ dạy văn sẽ gây đợc
hứng thú, tạo đợc cảm xúc văn học rõ rệt. Không một giờ dạy tác phẩm
văn chơng nào thành công mà lại thiếu đợc lời bình của giáo viên. Bởi
chỉ có bình giảng mới tạo ra đợc sự lắng đọng cảm xúc trong giờ dạy
văn học. Dạy văn và đặc biệt là dạy thơ mà thiếu lời bình thì theo chúng

hiểu biết về tác phẩm nhuần nhuyễn đến độ biến thành rung động cảm
xúc, tình cảm chủ quan mới có khả năng gây cảm và truyền cảm - khi
đó ngời giáo viên mới có khả năng bình văn.
Ngời giáo viên bình văn, thơ là giúp nhà văn, nhà thơ đa tiếng nói đến
với ngời nghe, ngời đọc một cách nhanh nhạy, sâu lắng, điều đó có
nghĩa ngời giáo viên làm nhiệm vụ chiếc cầu nối cho sự gặp gỡ, tiếp
xúc của nhà văn với độc giả - học sinh. Vì vậy ngời giáo viên dạy văn
không bao giờ đợc quên nhiệm vụ cầu nối của mình, nhng lại không
vợt quá giới hạn của ngời bình, nghĩa là không để tiếng nói của mình át
tiếng nói của nhà thơ, nhà văn. Làm nh thế không những mối quan hệ
giữa học sinh với tác phẩm không còn mà có khi còn làm cho học sinh
hiểu không đúng, cảm thụ không đúng tác phẩm. Để khỏi lấn át hay nói
lại tiếng của nhà văn, ngời giáo viên bao giờ cũng phải ý thức về mức
độ: bình cái gì và bình đến đâu? Ví dụ trong bình thơ nói cha đền thì
không đạt, nói quá thì là tán, nói nhiều cũng không nên. Tóm lại là phải
biết dừng đúng lúc, đúng chỗ để ngời đọc - học sinh biết suy ngẫm, mở
rộng
Để bình đợc tốt, ngời giáo viên cũng phải biết kết hợp nhuần
nhuyễn giữa giảng và bình; phân biệt giữa giảng và bình cũng nh
giúp các em hiểu sự khác nhau cơ bản giữa bình trong bình luận với
bình trong bình giảng . Bình trong bình giảng là những nhận
xét, đánh giá, cảm thụ giá trị đích thực của văn chơng trên cơ sở giảng
để nắm bắt những giá trị về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn
học. Nhờ bình mà bài giảng thêm sâu, nhng bình lại phải dựa trên
giảng . Giảng không bình thì ý gọn , tinh chắc nhng khô, bình mà
không giảng thì ý lan man, xa vời. Muốn bình đợc có khi phải giảng cho
Giáo viên thực hiện : Bùi Thị Thuỷ - Trờng THCS Mạo Khê II
9
Đề tài : Phơng pháp bình văn trong giờ giảng văn học
vỡ nghĩa , bởi không giảng đợc thì không hiểu đợc cái hay , cái đẹp của

b- Bình về cấu tứ nghệ thuật
Cấu tứ nghệ thuật trong thơ là sự sắp xếp các ý thơ theo mạch cảm
xúc của tác giả. Cấu tứ nghệ thuật trong văn xuôi là kết cấu nghệ
Giáo viên thực hiện : Bùi Thị Thuỷ - Trờng THCS Mạo Khê II
10
Đề tài : Phơng pháp bình văn trong giờ giảng văn học
thuật, là sự sắp xếp các ý tởng sao cho phù hợp t tởng chủ đề của tác
phẩm. Ngời bình phát hiện ra ý đồ kết cấu nghệ thuật của tác phẩm
và bằng lời bình của mình làm nổi bật giá trị cũng nh t tởng chủ đề
cua áng văn, thơ ấy.
3.3. Các khâu chuẩn bị cho giảng bình đợc tốt
a- Bài soạn của giáo viên: Phải chú ý đến câu hỏi bình. Câu hỏi
bình phải phù hợp với từng đối tợng học sinh, từng tác phẩm.
Những câu hỏi đa ra phải kích thích khả năng tự học, t duy sáng
tạo của học sinh. Trong bài soạn giáo viên phải chuẩn bị lời bình
thật hay, thạt đắt để học sinh tham khảo rồi từ đó thúc đẩy các
em tự mình cố gắng viết đợc những lời bình hay.
b- Giáo viên: Phải chú ý tạo không khí giờ học văn thật sôi nổi để
các em tự nói và đợc nói những điều mình suy nghĩ. Qua việc thảo
luận nhóm nhiều em đã có những suy nghĩ rất mới mẻ ngoài giáo
án của giáo viên
c- Giáo viên:Phải chú ý rèn kĩ năng viết cho học sinh . Qua các bài
tập viết đoạn văn :phân tích một câu thơ, câu văn, một đoạn thơ,
đoạn văn học sinh sẽ đ a ra ý kiến đánh giá, lời bình của mình.
Bài tập viết này giáo viên cho học sinh tự viết sau đó trao đổi, thảo
luận nhóm và có sự nhận xét góp ý của cô giáo, học sinh sẽ học
hỏi đợc nhiều trong việc rèn kĩ năng viết.
d- Thông qua câu lạc bộ, sinh hoạt chuyên đề do lớp, nhà trờng tổ
chức. Đây là hình thức rất tốt để giúp học sinh tự viết ra, nói ra
những cảm xúc của mình.

Với cách lựa chọn mày, giáo viên đã tạo ra bầu không khí lớp học
xúc động, đa các em sống cùng nhân vât bé Hồng năm 1940.
Trớc khi vào phân tích văn bản - đoạn trích, giáo viên nêu câu hỏi để
học sinh có cảm nhận chung nhất về đoạn trích: Hãy cho biết nội
dung của đoạn trích? Học sinh trả lời: Tình cảnh đáng thơng của bé
Hồng, tình yêu thơng mãnh liệt của chú bé đối với mẹ và giáo viên
tiếp lời Trong văn học hiện đại của nớc ta, có không ít nhà văn đã
thành công trong việc thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng, nhng có lẽ
cha có nhà văn nào diễn tả tình cảm ấy một cách chân thật, sâu sắc,
thấm thía và xúc động nh Nguyên Hồng. Đó chính là những rung
động cực điểm của một linh hồn trẻ dại - lời Thạch Lam. Đó cũng là
lời bình khái quát của giáo viên về đoạn trích góp phần tạo ra những
rung cảm ban đầu và tâm thế tiếp nhận bài học cho học sinh.
Trong tiến trình giờ dạy,khi phân tích nhân vật bà cô, sau khi học
sinh đã khái quát đợc tính cách của nhân vật này là ngời phụ nữ lạnh
lùng, độc ác, thâm hiểm giáo viên bình: Là một ngời phụ nữ , một
ngời cũng làm mẹ mà ngời cô bé Hồng lại cố tình nhồi nhét vào đầu
Giáo viên thực hiện : Bùi Thị Thuỷ - Trờng THCS Mạo Khê II
12
Đề tài : Phơng pháp bình văn trong giờ giảng văn học
óc đúa cháu mồ côi nhỏ những ý nghĩ xấu xa để cháu khinh miệt và
ruồng rẫy mẹ, cố ý xúi bẩy cháu đi ngợc lại đạo lí làm ngời. Bà ta
không chỉ là ngời lạnh lùng đến tàn nhẫn mà còn là kẻ bất nhân, độc
ác. Lời bình ngắn nh vậy, theo tôi sẽ tạo ấn tợng sâu đậm hơn trong
học sinh về nhân vật - là sản phẩm, hiện thân của những định kiến xã
hội cổ hủ, hẹp hòi.
Nh đã nói ở trên, khi bình giáo viên phải tìm đợc những hình ảnh,
những chi tiết có giá trị hớng dẫn các em bình. Cũng trong giờ dạy
tiết 2 của văn bản này, giáo viên chọn chi tiết nớc mắt tôi đã ròng
ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm, ở cổ để

hoàn cảnh sống. Trong truyện, Lão Hạc là lão nông lơng thiện bị xã
hội xô đẩy đến cảnh sống khốn cùng. Dù vậy, lão vẫn cố gắng đến
cùng để giữ cho đợc nhân cách trong sạch, phẩm giá cao quý của
mình. Tột cùng của sự cố gắng ấy chính là cái chết thê thảm mà lão
tự chọn cho mình. Chính vì vậy, tôi nghĩ chúng ta không thể không
chọn bình về cái chất của Lão Hạc khi dạy tác phẩm văn chơng này .
Giáo viên hớng dẫn các em hiểu đợc ý nghĩa cái chế của Lão Hạc
trong tác phẩm: Lão tìm đến cái chết bởi không còn con đờng sống.
Cái chết của lão có ý nghĩa tố cáo chế độ xã hội tàn ác, bất công. Lão
chết để giữ đợc lòng tự trọng của mình; lão chết là vì con.
Giáo viên nâng cao bằng lời bình: Với cái chết đau đớn, dữ dội mà
lão Hạc tự chọn lấy cho mình, lão đã trở thành một vị thánh trong
lòng ngời đọc. Lão nhất quyết chết chứ không để nhân cách của mình
bị hoen ố. Lão chọn cái chết để bảo toàn phẩm giá của mình. Đó là
một sự lựa chọn nghiệt ngã, âm thầm mà cao thợng. Là một lão nông
dân cùng khổ nhng lão đã thể hiện một khí tiết cao quý, một ý thức
nhân phẩm sâu sắc. Lão là một nhân cách đáng kính, đáng trọng
ngàn đời. Cái chế của lão Hạc có giá trị tố cáo xã hội thực dân nửa
phong kiến tàn ác bất nhân đơng thời. Trong cái xã hội ấy, con ngời
muốn sống đợc có khi phải vứt bỏ nhân cách của mình nh Binh T và
ngợc lại muốn giữ đợc nhân cách, phẩm giá của mình thì phải chọn
cái chết nh lão Hạc. Ngòi bút của Nam Cao sâu sắc và nhân đạo cũng
chính là bởi sự phát hiện đó.
Lời bình phải có giá trị khắc sâu đợc chủ đề của tác phẩm vừa tạo
đợc những rungcảm mãnh liệt nơi ngời đọc, ngời nghe - học sinh:
hiểu, cảm thông, trân trọng, yêu thơng sâu sắc đối với cuộc đời cơ
cực, số phận bi thảm và vẻ đẹp tâm hồn cao quý của ngời nông dân
trớc cách mạng .
Khi dạy bài Cô bé bán diêm của nhà văn An-đéc-xen giáo viên
hớng dẫn học sinh phát hiện lúc cô bé quẹt diêm để tìm chút hơi ấm

mái ấm gia đình. Hãy biến những mộng tởng đằng sau ánh lửa diêm
thành hiện thực cho trẻ em. Đó cũng là lời bình khái quát về giá trị
của tác phẩm giúp các em nắm bắt về tác phẩm toàn diện hơn, sâu
hơn .
Một ví dụ khác: Bình để khái quát nội dung vừa phân tích để
nâng cao vấn đề. Sau khi đã hỡng dẫn học sinh phân tích nhân vật
Đôn - ki - hô -tê trong văn bản Đánh nhau với cối xay gió, giáo
viên nêu câu hỏi: Em đánh giá nh thế nào về nhân vật này?
Học sinh trả lời: vừa tốt vì đã dũng cảm diệt ác, trừ gian vừa buồn cời
vì đầu óc hoang tởng đã đánh nhau với cối xay gió và bị thất bại đau
đớn. Giáo viên đã bình: Những khát vọng sống, những hành động
dũng cảm diệt ác, trừ gian của chàng hiệp sĩ Đôn- ki -hô - tê thật đẹp,
thật cao thợng nhng đối tợng hớng tới của chàng không phải là lũ xấu
xa, độc ác thực sự ở cuộc đời mà chỉ là những chiếc cối xay gió hiền
lành vô tội. Vì đầu óc hoang tởng nên động cơ tốt đẹp và hành động
dũng cảm kia trở thành hão huyền và nực cời, còn bản thân chàng
hiệp sĩ thì bị thất bại một cách đau đớn. Ta vô cùng cảm phục trớc
hành động xả thân vì chính nghĩa và lòng hào hiệp cao cả nơi chàng
Giáo viên thực hiện : Bùi Thị Thuỷ - Trờng THCS Mạo Khê II
15
Đề tài : Phơng pháp bình văn trong giờ giảng văn học
nhng cũng không thể nín cời trớc trận đánh kì quặc của chàng .
Chàng vừa đáng thơng vừa đáng trách.
Bình thơ văn là một việc khó. Hớng dẫn các em biết bình văn thơ
lại càng khó dù rằng mới chỉ ở mức độ nêu ra một ý kiến, một nhận
định về nhân vật hay chi tiết, hình ảnh để các em bày tỏ quan
điểm, cách đánh giá, tức là để cho học sinh đợc chủ động thể hiện
cảm nhận riêng của mình sau khi đợc cô giáo hớng dẫn, gợi ý Dạy
văn chơng trong nhà trờng phổ thông là không chỉ dạy cho học sinh
thấy đợc cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chơng mà còn hớng dẫn

nhóm tổ, phát biểu:đặt ra những vấn đề về lòng nhân ái, yêu thơng
giữa con ngời với con ngời. Trong từng ý, các em có những sự cảm
nhận khá tốt. Giáo viên chỉ nhấn mạnh thêm vào một ý cơ bản : Cả
ba đều là những hoạ sĩ nghèo đang bị chính cuộc sống áo cơm làm
mỏi mòn, vơi cạn dần khát vọng dâng hiến cho nghệ thuật. Nhng ở
họ vẫn chan chứa tình yêu thơng chân thành và giản dị, Xiu an ủi,
động viên, chăm sóc Giôn- Xi. Cô lo sợ khi nhìn thấy những chiếc lá
thờng xuân tha dần, xót xa nhìn Giôn xi héo hon vì bệnh tật và
tuyệt vọng; hoang mang không hiểu mình sẽ ra sao nếu Giôn- xi
chết. Với Giôn-xi cô vừa là đồng nghiệp, là bạn, là ngời chị. Cụ Bơ-
men chế nhạo cay độc ý nghĩ vớ vẩn của Giôn- xi, nổi giận khi nghe
Xiu kể về sự tuyệt vọng của Giôn xi, cũng sợ sệt khi nhìn dây lao
thờng xuân vơi dần lá , cụ đã hành động cao cả để cứu sống Giôn
xi mà không một chút toan tính thiệt hơn bởi cụ có tấm long vàng.
Câu chuyện là bài ca bất tận ca ngợi lòng nhân ái, yêu thơng con ng-
ời - điều tuyệt vời nhất trên thế gian.
Lời bình sẽ gây xúc động và góp phần giáo dục sâu sắc về tình
cảm cao đẹp của con ngời cho các em hơn bất cứ một lời rao giảng về
đạo đức nào .
Khi dạy bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên, giáo viên hớng dẫn
các em hiểu và cảm nhận sâu sắc hình ảnh ông đồ ở vào thời tàn để
từ đó hiểu đợc niềm cảm thông chân thành của nhà thơ với một lớp
ngời nh ông bằng cách nêu câu hỏi : Cảm nhận của em về hình ảnh
thơ: Ông đồ vẫn ngồi đấy, qua đờng không ai hay ?

Học sinh đã nêu đợc các ý: Ông đồ vẫn ngồi đó, vẫn hiện hữu bên
phố đông mỗi độ tết đến xuân về nhng hình ảnh ông đã chết trong
tâm trí mọi ngời. Ông đã bị xã hội loại trừ, bỏ quên thật thơng cảm
biết bao!
Giáo viên bình: Ông đồ vẫn ngồi đấy, vẫn cố bám lấy sự sống, vẫn

Ngời thuê viết nay đâu
Hình ảnh ông trở nên tàn tạ, buồn thơng biết bao! Câu thơ gợi cả
niềm bâng khuâng tiếc nuối về một thời vàng son đã qua. Nỗi buồn
tủi ấy lan sang cả những vật vô tri vô giác. Tờ giấy đỏ cứ phơi ra đấy
mà chẳng ai đụng đến trở nên bẽ bàng, màu đỏ của nó trở thành vô
duyên, ủ ê đến mức không thắm lên đợc. Nghiên mực không đợc bút
lông chấm vào, mực đọng lại nh đọng bao sầu tủi. Giấy mực cũng bẽ
bàng, buồn tủi nh lòng ngời. Bằng nghệ thuật nhân hoá tài tình, Vũ
Đình Liên đã thổi vào vật thế giới những tình cảm, cảm xúc của con
ngời. Những vật vô tri vô giác cũng nh thấu
Giáo viên thực hiện : Bùi Thị Thuỷ - Trờng THCS Mạo Khê II
18
Đề tài : Phơng pháp bình văn trong giờ giảng văn học
hiểu, đồng cảm sâu sắc với con ngời. Và vì thế, vợt qua thời gian, câu
thơ vẫn có sức ám ảnh, lay động sâu sa đến tâm hồn bao ngời đọc.
Còn với câu thơ Lá vàng rơi trên giấy, ngoài trời mua bụi bay,
sau lời phát biểu của học sinh, giáo viên tiếp: Không trực tiếp thể
hiện hình ảnh ông đồ nhng câu thơ Lá vàng rơi trên giấy , ngoài trời
ma bụi bay đã diễn tả hay nhất, xúc động nhất nỗi lòng của ông đồ,
của nhà thơ. Câu thơ tả cảnh thiên nhiên bình dị, rất đỗi quen thuộc
mà ta dễ nhận ra: đó là cảnh xuân đã về nhng vẫn còn rơi rớt lại một
chút giá lạnh, úa tàn của lúc cuối đông. Ma xuân phủ lên mọi vật, lên
đờng phố một màu trắng nh sơng mỏng nhng sao mà lạnh lẽo, tê tái .
Maù vàng của lá bất động trên màu đỏ của giấy, màu trắng của của
ma bụi, tất cả đã tạo nên một cảnh ảm đạm, lạnh lẽo, buồn thơng da
diết. Trời đất cũng buồn vắng, tê tái nh lòng ngời. Tác giả đã mợn
quy luật của tự nhiên để diễn tả quy luật đào thải nghiệt ngã của cuộc
đời. Ma ngoài trời hay ma trong lòng ngời. Chỉ là ma bụi mà sao
buốt giá làm con ngời xót xa đến nát ruột!
Khi dạy bài Quê hơng của Tế Hanh, Giáo viên hớng dẫn các

đã chớp đợc khoảnh khắc rất đắt để thể
hiện chân dung ngời chài lới: vừa thực, vừa ảo; vừa có tầm vóc, hình
khối vừa có những khát vọng bay bổng lớn lao. Ngời dân chài lới đợc
miêu tả vừa chân thực vừa lãng mạn diệu kì và vì thế trở nên lớn lao
phi thờng. Một tấm lòng yêu quê, yêu những con ngời quê mình đã
khiến tâm hồn nhà thơ thăng hoa và viết đợc những câu thơ để đời
nh vậy.
Khái quát lại toàn bài thơ, giáo viên bình ngắn: Quê hơng, hai
tiếng ấy gợi lên trong sâu thẳm tâm hồn con ngời những tình cảm
thiêng liêng, da diết. Hình ảnh quê hơng đã đi vào thơ ca với những
dòng thơ yêu thơng và ăm ắp nghĩa tình. Với Tế Hanh, nhà thơ của
quê hơng, tình cảm ấy càng đằm thắm, sâu nặng biết bao. Thuỷ
chung với một miền quê - một miền thơ, những vần thơ quê hơng của
Tế Hanh có một vẻ đẹp riêng, độc đáo, hấp dẫn bạn đọc nhiều thế hệ.
Đọc, học thơ ông, ta nh thấy lòng mình đợc rộng mở, tâm hồn đợc tới
mát bởi dòng suối tình cảm ngọt ngào và trong trẻo ấy .
Giảng bài Ngắm trăng( Vọng nguyệt) của Hồ Chí Minh , giáo
viên hớng dẫn các em hiểu và thấy đợc cái hay của hai câu thơ đầu :
Trong tù không rợu cùng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Giáo viên đã bình: Phải là ngời có tâm hồn nghệ sĩ, chất nghệ sĩ
bay bổng lãng mạn ngời tù mới có một tâm trạng nh thế: Xốn xang,
bối rối, rạo rực . Cái thần tình ở đây là Ngời nêu ra hai thứ thiếu rất
quan trọng để ngắm trăng Không rợu, không hoa vì ba thứ ấy vốn
đi liền với nhau để cuộc thởng trăng đợc mĩ mãn: Rợu thêm men cho
ý thơ thêm nồng, trăn toả sáng cho lời thơ thêm lai láng. Và đặc biệt
hơn nữa là chẳng đợc tự do mà thởng nguyệt, vậy mà ngời đọc vẫn
Giáo viên thực hiện : Bùi Thị Thuỷ - Trờng THCS Mạo Khê II
20
Đề tài : Phơng pháp bình văn trong giờ giảng văn học

21
Đề tài : Phơng pháp bình văn trong giờ giảng văn học
* Cho học sinh làm bài khảo sát ( kiểm tra năng lực cảm thụ của học
sinh )
+ Kết quả trắc nghiệm
TT Nôi dung Tỷ lệ ( %)
1 ý kiến A 26,2
2 ý kiến B 50
3 ý kiến C 20,1
4 ý kiến D 3,7
+ Kết quả khảo sát
TT Nôi dung Tỷ lệ ( %)
1 Khá giỏi 58,2
Giáo viên thực hiện : Bùi Thị Thuỷ - Trờng THCS Mạo Khê II
22
Đề tài : Phơng pháp bình văn trong giờ giảng văn học
2 Trung bình 28,3
3 Yếu 13,5
Tôi đã tích cực dự giờ đồng nghiệp, tham khảo ý kiến đồng nghiệp
về vấn đề mình quan tâm; tham dự các chuyên đề cấp cụm, cấp Tỉnh để
tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm cho mình, sau mỗi bài dạy, tự rút ra để
bài sau dạy tốt hơn . Đặc biệt là lời bình phải sắc hơn, có giá trị hơn,
làm cho giờ dạy văn hay hơn, hiệu quả hơn .
II.3.2. Kết quả:
Qua thực tế giảng dạy, chú ý hớng dẫn các em bình văn và có ý
thức về sử dụng lời bình của giáo viên trong giờ dạy phân môn văn, tôi
nhận thấy có những chuyển biến về kết quả học tập ( qua phiếu trắc

phơng pháp giảng bình vào mỗi giờ dạy tác phẩm văn học. Điều đó đòi
hỏi ngời thầy phải có tâm với nghề nghiệp, yêu nghề, yêu trẻ có trách
nhiệm với học sinh thì mới có thể làm đợc.
Góp thêm một ý kiến nhỏ theo cảm nhận của cá nhân vào việc dạy
và học văn sao cho hiệu quả nhất sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.
Rất mong nhận đợc sự trao đổi góp ý của bạn đồng nghiệp.
Đông Triều , ngày 15 tháng 05 năm 2009
Ngời thực hiện
Bùi Thị Thuỷ
Giáo viên thực hiện : Bùi Thị Thuỷ - Trờng THCS Mạo Khê II
24
Đề tài : Phơng pháp bình văn trong giờ giảng văn học
NH GI CA HI NG KHOA HC
TRNG THCS MO KHấ II PHềNG GD & T HUYN ễNG TRIU
Tài liệu tham khảo
1. Sách giáo khoa: Văn học 8 Nhà xuất bản Giáo dục - 2007
2. Sách bài tập: Văn học 8 Nhà xuất bản Giáo dục - 2007
3. Bình giảng văn học 8
4. Sách Thiết kế bài giảng: Văn học 8
5. Cảm thụ văn học 8
Giáo viên thực hiện : Bùi Thị Thuỷ - Trờng THCS Mạo Khê II
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status