nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, các yếu tố liên quan và hiệu quả điều trị bệnh rám má bằng bôi melacare tại bệnh viện da liễu trung ương - Pdf 23

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rám má (melasma) là một bệnh da tăng sắc tố thường gặp,lành tính.
Bệnh đã được mô tả trong y văn từ thời cổ đại mà tiếng Hy Lạp gọi là
“Melas”có nghĩa là đen xạm. Bệnh với biểu hiện là các sắc tố màu nâu,nâu
đen hay xanh đen. Vị trí thường gặp là ở vùng hở như mặt,cổ,hai cẳng tay,có
tính chất đối xứng [12]. Bệnh xuất hiện ở cả hai giới nhưng phụ nữ đang có
thai,uống thuốc tránh thai hay bị hơn cả [11]. Có những trường hợp riêng
biệt,rám má tồn tại hàng năm cho đến khi mãn kinh và cả sau thời kỳ mãn
kinh,rám má còn có thể gặp ở phụ nữ bị các bệnh phụ khoa mãn tính (viêm tử
cung,viêm phần phụ) [10].
Bệnh rám má tuy ít ảnh hưởng đến sức khỏe,sức lao động của con
người,nhưng ảnh hưởng đến tâm sinh lý và thẩm mỹ của người bệnh,nhất là
phụ nữ, làm cho người bị rám má nản chí và bi quan,nhiều người cảm thấy
bối rối xấu hổ khi giao tiếp,thậm chí cảm thấy bị bình luận,miệt thị và có
người còn bị xa lánh. Chính vì thế rám má là một trong những biểu hiện sinh
lý ngoài da có ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống người bệnh.
Ở các nước Đông Nam Á, rám má chiếm 0,25 – 4% những bệnh da
thường gặp. Theo Kotrajavas thống kê năm 1982: Thái Lan 3,05% , Malaysia
4% , Indonesia 0,98%. Tỉ lệ nữ/nam 6/1 [13; 14].
Trên thế giới,nhiều tác giả đã nghiên cứu về các phương pháp điều trị
rám má bằng bôi hydroquinone đơn thuần như Spencer (1961), Pathak và
cộng sự (1986), Vervallo-Rowwell (1989), Holland KT, Bojar RA và cộng sự
(2000) … và cho những kết quả khác nhau [33; 50; 51; 59; 64].
Ở Việt Nam rám má là một bệnh tương đối phổ biến,mối quan tâm lo
lắng của nhiều người bệnh đặc biệt là phụ nữ trẻ. Các tác giả như Nguyễn Tài
Thu và Lê Tử Vân đã nghiên cứu điều trị rám má bằng châm cứu và thủy
châm từ những năm 1970 của thế kỷ 20,nhưng kết quả còn hạn chế [9].PGS-
TS Nguyễn Văn Thường nghiên cứu tình hình rám má ở phụ nữ không mang
thai và kết quả điều trị tại chỗ bằng bôi hydroquinon,retinoic acid năm 2005
đạt kết quả tốt 67,7%[11].

lớn hình đa diện. Giữa các tế bào này có các cầu nối bào tương. Ở mức siêu
hiển vi, các cầu nối thực chất là những chồi bào tương của các tế bào nằm
cạnh nhau được liên kết với nhau bởi các thể liên kết làm cho tế bào có hình
gai hay có sợi nối với nhau.
* Lớp hạt: Có từ 3-5 hàng tế bào đa diện dẹt. Trong bào tương của các
tế bào này chứa nhiều hạt nhuộm kiềm đậm, đó là những hạt keratohyalin.
Những hạt keratohyalin này thuộc nhóm protein sợi có liên quan đến hiện
tượng sừng hóa của thượng bì. Dưới kính hiển vi điện tử các hạt này có hình
sao hoặc các khối đa giác đậm đặc điện tử.
* Lớp bóng: Thường khó quan sát, đó là một lớp mỏng như một đường
đồng nhất, sáng. Các tế bào của lớp này kết dính chặt chẽ, rất mỏng. Những tế
bào ở lớp này là những tế bào chết, tất cả các bào quan và nhân đều không
còn. Ở độ phóng đại lớn, có thể thấy chúng hoàn toàn chứa các sợi có đường
kính từ 70Å đến 80Å.
* Lớp sừng: Các tế bào biến thành các lá sừng mỏng, không nhân,
trong bào tương có chứa nhiều keratin, tùy từng vùng có thể có chiều dày
khác nhau.
Lớp thượng bì có nhiệm vụ bảo vệ cơ thể trước những tác động của
môi trường bên ngoài như các tia tử ngoại, các tác động cơ học, ngăn không
cho dịch của cơ thể thoát ra ngoài và nước từ môi trường bên ngoài thấm vào
cơ thể. Ngoài ra nó còn có khả năng tổng hợp và giải phóng ra các loại
cytokin như: IL1, IL6, TNFα
1.1.2 Trung bì
Là một mô liên kết xơ vững chắc có chiều dày thay đổi tùy từng vùng và
được phân cách với thượng bì bởi màng đáy. Trung bì được chia thành 2 lớp:
* Lớp nhú: Mặt ngoài của trung bì tiếp xúc với thượng bì có những
chỗ lồi lõm, chỗ lõm về phía thượng bì tạo thành các nhú trung bì. Lớp nhú có
nhiều ở những vùng phải chịu áp lực và cọ sát mạnh.
* Lớp dưới: Phần chính của trung bì nằm ở phía dưới được tạo bởi mô
liên kết đặc hơn, các sợi tạo keo tạo thành bó, đa số có hướng song song với

các tế bào tạo sừng xung quanh chúng chứa các hạt glycogen. Các tế bào
sắc tố có cấu trúc khác biệt so với các tế bào tạo sừng,từ mặt trên của các tế
bào này có các sợi nhánh phân ly đi vào khe giữa các tế bào tạo sừng của
thượng bì,chủ yếu là lớp đáy và lớp gai. Trên màng của tế bào sắc tố không
còn các thể liên kết cũng như các thể bán liên kết. Các tế bào sắc tố tạo
thành một mạng lưới rộng ở mặt ranh giới giữa thượng bì và trung bì,chúng
cũng có mặt trong các nang tóc và nang lông hoạt động theo chu kỳ phát
triển của lông tóc [3; 5; 31; 34; 42].
- Sự phân bố của các tế bào sắc tố
Các tế bào sắc tố phân bố chủ yếu ở lớp biểu bì da (90%). Ở đó chúng
đứng rải rác và đơn độc. Các tế bào sắc tố phân bố cân đối ở hai bên cơ thể.
Tỷ lệ tế bào sắc tố trên các tế bào thượng bì khác nhau ở các vùng da khác
nhau trên cơ thể. Tỷ lệ này cao nhất ở da đầu và da mặt từ 1/5 đến 1/4 , trung
bình ở da các vùng đùi,cẳng chân và cánh tay từ 1/12 đến 1/10, thấp nhất ở da
thân mình từ 1/35 đến 1/29 và tính trung bình có 1560 tế bào sắc tố/mm2. Tỷ
lệ này không có sự khác nhau theo giới cũng như chủng tộc,nhưng ở người
trưởng thành tỷ lệ này cao hơn ở trẻ em và bào thai. Ở người cao tuổi ( từ 60
tuổi trở lên ) số lượng tế bào sắc tố giảm đi,đồng thời thượng bì cũng bị teo
nên tỷ lệ tế bào sắc tố trên các tế bào thượng bì vẫn là hằng số. Ngoài ra còn
thấy các tế bào tạo sắc tố ở võng mạc mắt,màng não,hệ thống niêm mạc,cấu
trúc vỏ hạch,đôi khi ở cả các tổ chức phần mềm… [31; 42; 44].
+ Đơn vị melanin thượng bì : Là một hệ thống tổ hợp đa tế bào bao gồm
một tế bào sắc tố và các tế bào tạo sừng được nó cung cấp melanin. Đơn vị
melanin thượng bì là đơn vị chức năng về hình thái của quá trình nhiễm sắc tố da.
1.2.2 Sự tổng hợp melanin
Men Tyrosinase có trong các tế bào sắc tố là men tổng hợp nên melanin
từ DOPA. Men tyrosinase được tổng hợp trong các tế bào và được chứa trong
các túi nhỏ của bộ Golgi. Các túi này sát nhập với các tiền hạt melanin có
chứa DOPA,tại đây các melanin được tổng hợp và lắng đọng để trở thành các
hạt melanin. Về phương diện hình thái học,melanin được xem xét dưới dạng

và VI là các hạt melanin mới hình thành và hạt melanin trưởng thành. Đây là
sự mô tả rất chi tiết quá trình hình thành của hạt melanin,nhưng rất phức tạp
và rất khó xác định,mô tả hình thái.
Hình 1.1: Sơ đồ quá trình phát triển các hạt melanin theo Sumkin V.I và
Mikhailov I.N [15].
Các tác giả H.P. Wassermann, Seth J. Orlơ, chia quá trình tạo hạt
melanin thành 4 giai đoạn:
- Giai đoạn I: Các hạt melanin chỉ gồm men tyrosinase và một khuôn protein.
- Giai đoạn II: Các tiền hạt melanin có một cấu trúc lưới đầy đủ nhưng
chưa có nhiễm melanin.
- Giai đoạn III: Lắng đọng của các melanin ở các lưới bên trong nhưng
chưa hoàn toàn.
- Giai đoạn IV: Lắng đọng hoàn toàn tạo ra một cấu trúc thuần nhất.
Cách chia của các tác giả này đơn giản và hiện nay vẫn được sử dụng
để nghiên cứu hình thái siêu cấu trúc của hạt melanin.
Thực tế,giai đoạn I và II của các tác giả này phù hợp với giai đoạn I và II
của các tác giả Nga,còn giai đoạn III bao gồm cả giai đoạn III và IV của các tác
giả Nga. Khi đã tạo thành hạt melanin thì các tác giả này không chia nhỏ thành 2
giai đoạn như các tác giả Nga. Trong nghiên cứu này chúng tôi sẽ sử dụng phương
pháp mô tả của các tác giả Âu,Mỹ để mô tả cấu trúc của hạt melanin.
Hình 1.2. Sơ đồ mô tả 4 giai đoạn phát triển hạt melanin được xác định
bằng kính hiển vi điện tử theo Seth J. Orlơ (1999). (I,II,III,IV: Các giai
đoạn hình thành và phát triển hạt melanin; ER: lưới nội bào; G: Bộ Golgi;
V: Túi chứa men tyrosinase(T) ).
Sắc tố melanin có hai nhóm chính đó là :
- Eumelanin màu đen đến nâu,tan trong tất cả các dung môi,hình thành
do quá trình oxy hóa,chủ yếu là 5,6 – dihydroxy – indole ( DH) và thứ yếu là
acid 5,6 – dihydroxy – indole – cacboxylic (DHICA). Eumelanin là polyme
phức tạp với siêu cấu trúc có tất cả các vòng của dopaquinone. Các hạt
melanin có chứa eumelanin có hình elip.

đặc trưng cho các sắc tố có trong da như melanin,hemoglobin… Chiều dày
thượng bì cũng có vai trò trong việc hình thành màu da. Thượng bì mỏng tạo
điều kiện cho các bức xạ ánh sáng đi sâu được xuống lớp hạ bì,ở đây có sắc tố
carotene,sắc tố này làm biến đổi của màu da vì nó có dải hấp thụ quan phổ
riêng [50; 51; 62].
1.4 TĂNG SẮC TỐ DA VÀ CÁC BỆNH DA TĂNG SẮC TỐ:
1.4.1 Tăng sắc tố da
Tăng sắc tố da điển hình là do tăng melanin ở thượng bì,trung bì hoặc
hỗn hợp.
Nguyên nhân của việc tăng melanin ở da là:
- Do các tế bào sắc tố tăng sản xuất melanin (tăng sắc tố do tăng
melanin),hoặc
- do tăng sinh tế bào sắc tố đang hoạt động (tăng sắc tố do tăng số
lượng tế bào sắc tố).
Ngoài ra, có thể tăng sắc tố do sự kết hợp cả 2 yếu tố trên
1.4.2Các bệnh tăng sắc tố da
Các bệnh có tăng sắc tố da bao gồm một số bệnh có căn nguyên di
truyền hay bẩm sinh,do rối loạn chuyển hóa,nguyên nhân do nội tiết,do hóa
chất hoặc do thuốc,do dinh dưỡng,yếu tố vật lý,sau nhiễm trùng hay viêm,các
khối u sắc tố và các nguyên nhân khác.
1.4.2.1 Di truyền hay bẩm sinh
Hội chứng LEOPARD
- L: Nốt ruồi son
- E: Rối loạn dẫn truyền điện tim
- O: Hai mắt cách xa nhau
- P: Hẹp lỗ động mạch phổi
- A: Bất thường bộ phận sinh dục
- R: Phát triển chậm
- D: Điếc
Hội chứng Peutz – Jeghers: Đây là một rối loạn do nhiễm sắc thể,có

sự teo thượng bì và tăng số lượng tế bào sắc tố.
Rối loạn sắc tố : Có 2 loại,và được phân biệt dựa vào sự phân bố
thương tổn. Một loại lan rộng được gọi là rối loạn sắc tố toàn thể và một loại
chỉ bị ở các chi được gọi là rối loạn sắc tố đối xứng. Trong cả hai trường hợp
đều có các mảng tăng hay giảm sắc tố với các kích thước và hình dạng khác
nhau. Mô học chỉ rõ sự tăng sắc tố lớp đáy không kìm hãm được (dầm dề).
Bớt Ota (Rối loạn sắc tố mắt và da): Sự tăng sắc tố thành chấm lốm
đốm gồm những điểm màu xanh hoặc nâu,xuất hiện trong thời kỳ trẻ nhỏ hay
thanh niên,ở nữ hay gặp gấp 5 lần ở nam. Nó thường ở một bên và hay bị ở
mắt và khu vực da xung quanh chi phối bởi nhánh 1 và 2 của thần kinh 3. Rối
loạn sắc tố ở mắt gặp 63% các trường hợp. Sinh thiết da cho thấy các tế bào
sắc tố thượng bì lưỡng cực hay hình sao ở lớp trung bì võng. Bệnh kéo dài
suốt đời mà không bao giờ tự thuyên giảm.
Bớt Ito: Đây là một biến thể của bớt Ota nhưng vùng da bị ảnh hưởng
được chi phối bởi đám rối thần kinh cánh tay và thần kinh thượng đòn.
Bớt Mông cổ: Sự tăng sắc tố màu xanh đen xuất hiện ngay sau khi
đẻ,thường gặp trên 90% ở chủng tộc châu Á,ít gặp hơn ở người da đen và
dưới 10% ở người da trắng. Nó luôn luôn xuất hiện ở vùng da thắt lưng cùng
hoặc ở mông. Các thương tổn thành mảng với ranh giới không rõ,kích thước
từ vài cm đôi khi rất lớn. Nó thường mất đi trong vòng vài năm.
Nhiễm sắc tố dầm dề: Đây là một bệnh da thần kinh di truyền trên
nhiễm sắc thể X trội,thường xuất hiện ngay sau khi đẻ. Bệnh ảnh hưởng trực
tiếp đến nữ giới và gây chết người ở nam giới. Có 3 giai đoạn tiến triển.
- Giai đoạn bọng nước mụn nước: Xuất hiện khi đẻ hoặc sau đó 2 tuần.
- Giai đoạn hạt cơm : Có thể xuất hiện từ tuần thứ 2 đến tuần thứ 6.
- Giai đoạn nhiễm sắc tố: Từ tuần thứ 12 đến tuần 36. Thông thường có
thể thấy cả 3 giai đoạn nhưng có tới 14% chỉ xuất hiện giai đoạn tăng sắc tố
với các mảng màu nâu bẩn,màu sắc ngày càng tăng cho đến 2 tuổi và sau đó
giảm dần. Các thay đổi ở tóc,móng và mắt cũng đã được mô tả. Chậm phát
triển tinh thần.

có thể đơn thuần khu trú ở lớp thượng bì,cũng có khi ở cả lớp trung bì là do
đại thực bào ăn sắc tố sau đó khu trú ở trung bì nông.
Có thể tăng sắc tố do một bệnh nhiễm nấm như lang ben.
1.4.2.8 Khối U
Các bớt sắc tố,các đám da dày tăng tiết chất bã và tăng sắc tố ở người
trung tuổi,ở mặt,trên thân mình hay các u tế bào sắc tố như lentigo maligna –
melanoma.
1.4.2.9 Nguyên nhân khác
Tăng sắc tố ở một số bệnh hệ thống như: Nhiễm trùng mãn tính(lao,sốt
rét),Lymphoma,Acanthosis – Nigricans,xơ cứng bì,suy thận.
1.5 RÁM MÁ
1.5.1 Triệu chứng lâm sàng của bệnh
Rám má (melasma) là một danh từ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp
(Greek melas) có nghĩa là đen xạm [58].
Các tác giả như Fitzpatrick TB, Sanchez M, Kligman G, Willis I cho
rằng rám má là một bệnh có rối loạn sắc tố da phổ biến nhất. Bệnh lành tính
nhưng ảnh hưởng nhiều đến thẩm mỹ [24; 40].
Bệnh thường có biểu hiện tăng sắc tố da từ từ,đó là những vết màu nâu
hay xanh đen,kích thước thay đổi khi nhỏ khi to,bờ rõ nhưng không đều.
Thương tổn không teo da,không bong vảy da và không ngứa.
Vị trí: Ở hai bên má,trán,cằm,mũi. Thường sắp xếp đối xứng.
1.5.2 Những biến đổi vi thể trong bệnh rám má
Đối với người da trắng sắc tố melanin chỉ được chuyển sang các tế bào
sừng ở lớp đáy,nhưng đối với người da màu thì sắc tố không những chỉ được
chuyển sang các tế bào ở lớp đáy mà còn được chuyển sang các tế bào ở lớp
cận đáy. Theo C.Fleury F và cộng sự (2000) cho thấy trong bệnh rám má các
tế bào sắc tố có tăng về số lượng,nhưng chỉ tăng nhẹ [19]. Cũng theo tác giả
này,các bệnh da tăng sắc tố khác,nhất là các u sắc tố,tế bào sắc tố tăng lên rất
nhiều lần so với bình thường. Nhưng trên thực tế,nhiều bệnh nhân rám má có
tổn thương sắc tố rất đậm và kết quả tăng sắc tố này là do đâu? Với nghiên

52; 53]. Theo những nghiên cứu gần đây của các tác giả Fitzpatrick TB,
Pathak M cho thấy: Có đến 30% bệnh nhân rám má có liên quan đến thai
sản,khoảng trên dưới 20% liên quan đến dùng thuốc tránh thai [52; 53]. Ngoài
ra,rám má còn gặp nhiều ở phụ nữ có viêm nhiễm đường sinh dục như: Viêm
cổ tử cung, viêm âm đạo,viêm vòi trứng,buồng trứng … Nghiên cứu của
Nakayamah, Harada, Toola M (1996) thấy 31% bệnh nhân nữ rám má ở Nhật
có viêm nhiễm ở phần phụ [46; 47]. Gần đây,các yếu tố liên quan khác
thường được đề cập đến là hóa chất,mỹ phẩm,dược phẩm,kim loại …
1.6 HYDROQUINON VÀ RETINOIC ACID TRONG ĐIỀU TRỊ RÁM MÁ
Trên thực nghiệm,người ta đã dung nhiều hóa chất khác nhau (hầu hết
là chất thiol hoặc phenol) để làm giảm sắc tố da. Tuy có tác dụng tốt là làm
giảm sắc tố da trên động vật,nhưng hầu hết đều không có tác dụng trên
người,ngoài ra còn gây độc và tác dụng phụ(trừ hydroquinon).
Tác giả đầu tiên áp dụng bôi tại chỗ hydroquinone trên tổn thương rám
má ở những bệnh nhân tự nguyện là Spencer năm 1961 với kết quả tốt là 45%
[59; 61]. Nghiên cứu của Fitzpatrick ở Boston – Mỹ công bố kết quả còn cao
hơn,18/20 bệnh nhân được bôi kem hydroquinone 2-3% đạt kết quả tốt,chiếm
90% (41).
Đến năm 1975,một số nhà nghiên cứu đưa ra đề nghị kết hợp bôi
hydroquynon với retinoic acid [35; 36; 37; 38]. Nhưng mãi cho tới năm 1985,
Pathak và cộng sự tiến hành thử nghiệm bôi hydroquinon 3% kết hợp với
retinoic acid 0,03% ở những bệnh nhân tình nguyện cho kết quả tốt đạt 62%
[52; 53; 55]. Nhóm chỉ bôi hydroquynon đơn thuần đạt kết quả tốt là 45%
[40; 41; 42]. Các tác giả Edgar Frenke và Vulliemin JF thử nghiệm trên 25
bệnh nhân tình nguyện bằng cách bôi hydroquinon 4% kết hợp với retinoic
acid 0,05% ở nửa mặt,còn nửa mặt bên kia không bôi thuốc gì. Kết quả cho
thấy ở 19 bệnh nhân hoàn thành thử nghiệm,phần không được bôi thuốc gì
không có thay đổi nào,trong khi 100% nửa mặt được bôi thuốc cho kết quả từ
trung bình đến tốt [24].
Hiện tại chưa có thuốc để trung hòa lượng sắc tố sản xuất dư thừa hoặc

tyrosinase qua hệ thống men của màng tế bào là thioredoxin reductase
Hydroquinone
TRR
T-(SH)2 T-S2
Tyrosinase
Hydroquinone
Tyrosine
Dopachrome
Melanin
(TRR),và men oxidase thioredoxin [25]. Tuy nhiên nhiều tác giả khác lại cho
rằng cơ chế phân tử trong việc làm giảm sắc tố da trên chuột và những người
có bệnh da tăng sắc tố chưa được rõ ràng [41; 42; 46; 49]. Nhiều tác giả cho
rằng sở dĩ hydroquinon có tác dụng làm giảm sắc tố da,ngoài tác dụng ức chế
men tyrosinase,nó còn tác dụng lên hệ thống hô hấp của tế bào trong ty, lạp
thể và thậm chí còn tác dụng lên DNA [22; 28; 30; 34; 38]. Theo Hyrobe T,
Flynn E, Sabo G và cộng sự năm 1998 thì hydroquinon ức chế hô hấp của tế
bào do ức chế hoạt động của enzyme trong ty,lạp thể,dẫn đến quá trình tổng
hợp ATP cũng bị ảnh hưởng (47). Khi bôi lên da động vật cho thấy
hydroquinon tăng thải melanin ra khỏi tế bào sắc tố. Các nhà vật lý cho rằng
hydroquinon cũng có thể ngăn chặn quá trình hình thành melanin. Không
giống monobenzen, hydroquinon không gây ra sự phá hủy tế bào sắc tố,cũng
như không làm mất sắc tố vĩnh viễn. Sự tẩy màu có thể xảy ra trong 1 – 4
tháng,khi đó melanin hiện hữu bị mất đi cùng với sự lột da,còn melanin mới
thải ra nhanh hơn [9; 11; 38; 64].
Phơi nắng làm giảm hiệu quả làm mất sắc tố của thuốc. Quá trình làm
mất sắc tố thường kéo dài từ 2 – 6 tháng sau khi không tiếp tục điều trị bằng
hydroquinone [9; 38; 39].
Hydroquinone
NADH
H2O

có gây hại đến phôi thai khi phụ nữ có thai bôi thuốc hoặc thuốc có hấp thu
qua sữa hay không. Do đó chỉ được sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú
khi thật cần thiết.
* Liều lượng và cách dùng
-Cách dùng: Chỉ dùng đường bôi, không được uống.
-Liều lượng
+ Để tẩy sắc tố da, bôi 1 lớp mỏng kem hay dung dịch Hydroquinone và
xoa mạnh lên vùng da bị bệnh 1 đến 2 lần mỗi ngày (buổi sáng và buổi tối).
+ Nếu sau 2 tháng dùng Hydroquinone để điều trị mà không thấy giảm
sắc tố thì không dùng tiếp.
CH2OH
+ Khi đạt được mức độ giảm sắc tố mong muốn thì nên dùng
Hydroquinone giảm liều để duy trì sự khử sắc tố, có thể bôi cách ngày trước
khi dừng bôi. [5; 64].
1.6.2 Retinoic acid ( vitamin A acid)
* Công thức hóa học và nguồn gốc
Retinoic là những chất có tác dụng sinh học giống hoặc tương tự như
vitamin A. Trong tự nhiên nó tồn tại dưới 3 dạng: Retinol (vitamin A gốc
rượu), retinoic acid (vitamin A gốc acid) và retinal (vitamin A gốc aldehyd).
- Công thức hóa học:
Hình 1.6. Công thức hóa học của retinoic
- Nguồn gốc:
+ Cơ thể chúng ta không tự tổng hợp được vitamin A, mà phải lấy từ
bên ngoài vào qua hấp thu ở đường tiêu hóa dưới dạng vitamin A hoàn chỉnh.
Vitamin A có nhiều trong dầu gan cá (nhất là cá thu) hay dưới dạng tiền
vitamin như các carotene (có nhiều trong gấc,bí đao,cà rốt …) sau đó thủy
phân thành vitamin A. Dạng aldehyd và dạng acid chỉ xuất hiện trong cơ thể
trong quá trình chuyển hóa vitamin A diễn ra. Retinoic là chất tổng hợp …
được đưa vào cơ thể bằng đường uống hoặc bôi. Con người đã tổng hợp rất
nhiều retinoic acid và gồm 3 thê hệ, thế hệ 1 và 2 đã có trên thị trường, còn


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status