đánh giá kết quả bước đầu phẫu thuật cắt dịch kính bóc màng xơ điều trị bệnh võng mạc trẻ đẻ non giai đoạn 4 và 5 - Pdf 23

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh võng mạc trẻ đẻ non (BVMTĐN) là một tình trạng bệnh lý của mắt
thường gặp ở những trẻ đẻ thiếu tháng, nhẹ cân do sự phát triển bất thường
của mạch máu võng mạc và là nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa ở các nước
đang phát triển nếu bệnh không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời [1], [2].
Vào cuối những năm 1950 khi máy soi đáy mắt gián tiếp trở nên phổ
biến, việc thăm khám đáy mắt ở những trẻ đẻ non trở nên dễ dàng hơn và
chính xác hơn. Các tổn thương ở đáy mắt được mô tả theo từng giai đoạn
khác nhau và được gọi với một thuật ngữ mới “bệnh võng mạc trẻ đẻ non”[3].
Ở Việt Nam, chương trình khám sàng lọc BVMTĐN đã được triển khai
tại một số thành phố lớn từ năm 2001. Đã có nhiều nghiên cứu như Nguyễn
Xuân Tịnh [4], Nguyễn Thị Hà [5], Đinh Thị Thanh [6], về đặc điểm tổn
thương của BVMTĐN và đánh giá hiệu quả của laser đối với BVMTĐN giai
đoạn sớm thu được kết quả rất khả quan.Tuy nhiên một số trường hợp vẫn tiếp
tục tiến triển đến giai đoạn 4 và 5, gây bong võng mạc ảnh hưởng đến chức
năng thị giác của trẻ. Việc điều trị bệnh ở giai đoạn 4, 5 xẽ khó khăn phức tạp và
cần những can thiệp phù hợp mới có hy vọng hạn chế mù lòa cho trẻ.
Khi BVMTĐN tiến triển sang giai đoạn 4, 5 thì việc điều trị không dừng
lại ở laser hay lạnh đông mà cần phối hợp cắt dịch kính hoặc ấn độn củng
mạc.Theo Hirose và cộng sự, ở những mắt được điều trị BVMTĐN giai đoạn
5 bằng cắt dịch kính có 58,2% số mắt nhận dạng được đồ vật, số còn lại thị
lực chỉ ở mức bóng bàn tay hoặc cảm giác sáng tối [7 ].Tỷ lệ thành công của
cắt dịch kính có khác nhau giữa các tác giả [ 8], [ 9].
Ở Việt Nam, cho đến thời điểm này vẫn chưa có công trình nghiên cứu
nào đi sâu về đánh giá đặc điểm lâm sàng BVMTĐN giai đoạn 4, 5 và
phương pháp điều trị bệnh. Năm 2012, Viện mắt Trung Ương đã được trang
2
bị đầy đủ máy, thiết bị cần thiết và bắt đầu tiến hành điều trị BVMTĐN giai
đoạn 4 và 5 bằng phương pháp phẫu thuật cắt dịch kính bóc màng xơ. Để có
cái nhìn sơ bộ về đặc điểm lâm sàng bệnh ở giai đoạn 4, 5 và kết quả phẫu

4
Trong những tháng cuối cùng của thai kỳ, tất cả mạch máu phải biến mất
hoàn toàn bởi sự thoái triển dần dần từ sau ra trước. Sự tồn tại một phần của hệ
thống phôi thai có thể dẫn đến tất cả các loại bất thường của dịch kính hoặc tiền
phòng và có thể kèm theo sự xuất hiện đục thủy tinh thể bẩm sinh [TDT 4].
1.2. Bệnh sinh của bệnh võng mạc trẻ đẻ non
1.2.1. Sự phát triển bình thường của mạch máu võng mạc.
Mắt được hình thành vào tuần thứ tư của thời kỳ phôi thai. Mạch máu
của võng mạc bắt đầu xuất hiện vào tuần thứ 16 của thời kỳ thai nghén. Từ
đĩa thị các mạch máu phát triển dần ra phía trước, sự phát triển này kết thúc ở
võng mạc phía mũi vào khoảng tuần thứ 35, còn các mạch máu của võng mạc
phía thái dương vẫn tiếp tục phát triển cho tới khi trẻ được đủ tháng
1.2.2. Sự phát triển của mạch máu võng mạc trong BVMTĐN
Ở một số trẻ đẻ non quá trình phát triển bình thường của mạch máu võng
mạc bị dừng lại giữa chừng, vùng võng mạc phía trước chưa có mạch máu gọi
là vùng võng mạc vô mạch. Giữa vùng võng mạc đã có mạch máu ở phía sau
và vùng võng mạc vô mạch ở phía trước hình thành một đường ranh giới.
Người ta cho rằng chính vùng võng mạc phía trước đường ranh giới này
không đựơc cung cấp đủ oxy và có lẽ đã tiết ra quá nhiều yếu tố phát triển nội
mô mạch máu (VEGF - vascular endothelial growth factor) kích thích sự phát
triển của tân mạch. Khi các tân mạch phát triển sẽ hình thành nên các thông
(shunt) động - tĩnh mạch ở tại vị trí đường ranh giới trên bề mặt của võng
mạc. Các chỗ nối này ngày một lớn lên, trở nên dày hơn và nhô lên trên bề
mặt võng mạc. Các nguyên bào xơ phát triển cùng với tân mạch hình thành
nên một gờ tổ chức xơ và mạch máu bám vào võng mạc và dịch kính, có khi
gờ xơ lan rộng toàn bộ chu vi 360 độ của mặt trong nhãn cầu, phát triển ra tới
tận cực sau của thể thuỷ tinh. Khi tổ chức xơ này co kéo vào võng mạc sẽ gây
bong võng mạc [TDT 5].
5
1.2.3. Vai trò oxy và cơ chế bệnh sinh của BVMTĐN.

Qua nghiên cứu, tất cả các tác giả đều nhận thấy rằng cân nặng và tuổi
thai khi sinh của trẻ có liên quan chặt chẽ đến BVMTĐN[12][13]. Cân nặng
và tuổi thai khi sinh càng thấp thì trẻ càng có nguy cơ mắc bệnh, bệnh càng
nặng và càng có khả năng phải điều trị.Theo khuyến cáo của tổ chức Y tế thế
giới , tất cả các trẻ đẻ non có cân nặng khi sinh dưới 1500g và tuổi thai dưới
31 tuần cần được khám sàng lọc để phát hiện bệnh [14].Theo Nguyễn Xuân
Tịnh ở Việt Nam tiêu chuẩn khám sàng lọc thích hợp cho trẻ đẻ non là cân
nặng khi sinh dưới 2000g và tuổi thai khi sinh dưới hoặc bằng 34 tuần.
1.3.2. Đặc điểm tổn thương tại mắt BVMTĐN
Bệnh võng mạc trẻ đẻ non tiến triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi
giai đoạn đều có những tổn thương đặc trưng riêng. Phân loại quốc tế
BVMTĐN đã mô tả chi tiết đặc điểm tổn thương của bệnh theo giai đoạn, vị
trí và phạm vi tổn thương trên võng mạc. Phân loại quốc tế BVMTĐN là
thành quả của hội nghị quốc tế về BVMTĐN tổ chức vào năm 1983 tại Mỹ với
sự tham gia của 23 nhà nhãn khoa đến từ 11 nước trên thế giới dưới sự chủ trì
của John Flynn và công bố lần đầu năm 1984, được sửa lại năm 1987 và được
bổ sung thêm năm 2005.
Phân loại quốc tế BVMTĐN căn cứ vào các yếu tố như vị trí, phạm vi
tổn thương, giai đoạn tiến triển của bệnh và mức độ giãn của mạch máu võng
mạc ở hậu cực.
1.3.2.1. Phân loại theo giai đoạn
BVMTĐN là một bệnh tiến triển theo thời gian, bắt đầu bằng những thay
đổi nhẹ của mạch máu và có thể tiếp tục tiến triển với những thay đổi nặng
7
hơn. Dựa vào mức độ tiến triển của bệnh người ta phân chia bệnh ra làm 5
giai đoạn với những đặc điểm tổn thương sau:
Giai đoạn 1
Tổn thương BVMTĐN đặc trưng bằng một đường ranh giới mỏng
tương đối dẹt và có màu trắng, phân cách vùng võng mạc vô mạch (màu xám)
ở phía trước với vùng võng mạc có mạch máu (màu vàng cam) ở phía sau.

- Bản chất bên trong của võng mạc: là quá trình tăng sinh bên trong gờ
xơ. Đây là hướng vectơ co kéo không thể di chuyển được bằng phẫu thuật. Sự
co kéo theo chu vi võng mạc dẫn đến nếp gấp võng mạc.
- Lực co kéo từ gờ xơ đến mặt sau thể thủy tinh: đây là hướng co kéo
phổ biến, thường gặp nhất nhưng có thể loại bỏ hoàn toàn bằng phẫu thuật.
Dải xơ thường trải ra theo chu vi võng mạc xuất phát từ gờ xơ và hướng đến
vùng giữa chu biên của thể thủy tinh.
- Lực co kéo từ gờ xơ đến gờ xơ: vectơ này mở rộng giống như một dải
màng vắt ngang qua miệng bong võng mạc dạng phễu.
- Lực co kéo từ gờ xơ đến thể mi: sự co kéo này bắt nguồn từ gờ xơ ra
phía trước đến thể mi.
- Lực co kép từ gờ xơ đến võng mạc: hướng vectơ co kéo xuất phát từ
gờ xơ đến phần võng mạc ở phía trước vị trí đầu tiên của gờ xơ.
- Sự co kéo xuất phát từ đĩa thị: có 3 loại tăng sinh xơ xuất phát từ đĩa thị.
+ Thứ nhất: là dải màng trước võng mạc kéo dài, dọc theo bề mặt võng mạc
đến gờ xơ. Dạng này khá điển hình, bám rất chặt vào võng mạc và thường
thấy ở những mắt có gờ xơ ở phía sau nhiều so với xích đạo.
9
+ Thứ 2: dải xơ phát triển trong buồng dịch kính đến bám vào gờ xơ thường
thấy ở những mắt có gờ xơ ở vùng xích đạo.
+Thứ 3: co kéo từ buồng dịch kính đến bám vào dải màng từ gờ xơ – gờ xơ
thường gặp ở mắt có gờ xơ khu trú ở phía trước vùng xích đạo. Một vài hoặc tất
cả các thành phần trên có mặt trong BVMTĐN có kèm theo bong võng mạc.
Hình dạng của vùng bong được xác định bởi hướng vectơ tổng hợp từ
các thành phần co kéo trên và được chia làm 2 giai đoạn 4 và 5
Giai đoạn 4: Bong võng mạc chưa hoàn toàn.
Khi tổ chức xơ phát triển mạnh vào trong buồng dịch kính sẽ gây co kéo
vào võng mạc và làm cho một phần võng mạc bị bong ra khỏi thành nhãn cầu.
Dựa vào vị trí võng mạc bị bong đã lan tới vùng hoàng điểm chưa để
phân ra giai đoạn 4A và 4B:

- Phạm vi tổn thương vừa: thường từ 5- 8 múi giờ.
- Phạm vi tổn thương rộng : tổn thương từ 9- 11 múi giờ.
- Tổn thương toàn bộ chu vi võng mạc: 12 múi giờ.
BVMTĐN giai đoạn 4 và 5 gặp ở hai phạm vi tổn thương sau
1.3.2.4. Một số hình thái tổn thương đặcbiệt
Bệnh võng mạc cộng (plus disease): là bệnh võng mạc trẻ đẻ non thông
thường, ngoài các tổn thương đặc trưng ở vùng võng mạc ngoại vi, còn có
thêm một dấu hiệu quan trọng ở vùng hậu cực là hiện tượng giãn và ngoằn
ngoèo của mạch máu võng mạc xung quanh gai thị. Ngoài ra, có thể còn có
thêm các dấu hiệu khác như giãn các mạch máu trên bề mặt của mống mắt, bờ
đồng tử có màu đỏ, đồng tử giãn kém hoặc mất phản xạ và vẩn đục dịch kính.
12
Bệnh võng mạc trẻ đẻ non thể hung hãn ở cực sau: đặc trưng bởi vị trí tổn
thương ở vùng I, có thể sang cả phần sau vùng II, kèm theo dấu hiệu bệnh
võng mạc cộng nặng, khó phân biệt giữa động mạch và tĩnh mạch, có thể kèm
theo xuất huyết ở vùng ranh giới giữa vùng võng mạc có mạch với vùng võng
mạc vô mạch, bệnh tiến triển rất nhanh chóng dẫn đến bong võng mạc.
1.3.3. Chẩn đoán phân biệt
- Ung thư võng mạc: đồng tử trắng hay dấu hiệu “mắt mù mèo” kinh điển
là ánh phản chiếu của khối u qua đồng tử. Đây là dấu hiệu thường gặp nhất và
có giá trị trong chẩn đoán, dị sắc mống mắt cũng là biểu hiện khá hay gặp
thường là do tân mạch mống mắt gây ra. Siêu âm, chụp cắt lớp cho phép ta
xác định vị trí, kích thước của khối u.
- Tồn lưu và tăng sinh dịch kính nguyên thủy: hay gặp ở một mắt, đặc
trưng bởi sự tồn tại của những tế bào trung phôi trong buồng dịch kính, có
dấu hiệu đồng tử trắng nhưng không có sự phát triển bất thường của mạch
máu võng mạc.
- Bệnh Coats: vô căn, hay gặp ở bé trai, có dấu hiệu đồng tử trắng, mạch máu
võng mạc bị rò rỉ dẫn đến tình trạng ứ đọng dịch và lipid ở dưới lớp võng mạc.
1.4. Điều trị Bệnh võng mạc trẻ đẻ non

lại ở laser hay lạnh đông mà cần phải phối hợp cắt dịch kính hoặc ấn độn
củng mạc. Ở giai đoạn này kỹ thuật điều trị khó khăn hơn và kết quả cũng hạn
chế hơn. Theo Prenner và cộng sự thì phẫu thuật cắt dịch kính điều trị
BVMTĐN ở giai đoạn 4A có thể giúp võng mạc áp lại 100% và thị lực có thể
đạt tối thiểu là 1/10 [23 ]. Theo Hubbard và cộng sự thì tỷ lệ võng mạc áp sau
14
phẫu thuật ở giai đoạn 4 là 86% và 78% trẻ sau điều trị có thể định thị hoặc
nhìn theo đồ vật [24 ].
Quan điểm mới hiện nay chứng minh sự cần thiết của phẫu thuật cắt dịch
kính khi bệnh tiến triển sang giai đoạn 4A với bong võng mạc một phần và
hoàng điểm vẫn chưa bị bong. Số liệu nghiên cứu của CRYO- ROP về quá
trình diễn biến tự nhiên cho thấy BVMTĐN giai đoạn 4A thường tiến triển
sang giai đoạn 4B và 5. Phẫu thuật cắt dịch kính điều trị bong võng mạc do
BVMTĐN được các nhà nhãn khoa thực hiện từ cuối những năm 70 đến nay
với nhiều kỹ thuật khác nhau như cắt thể thuỷ tinh, cắt dịch kính; cắt dịch
kính lộ thiên, cắt dịch kính để lại thể thuỷ tinh, cắt dịch kính với 3 đường vào
có dùng đèn soi nội nhãn
Cho dù với kỹ thuật nào đi nữa thì kết quả của phẫu thuật phụ thuộc rất
nhiều vào giai đoạn của bệnh. Khi bệnh ở vào giai đoạn V thì kết quả phẫu
thuật rất hạn chế.Theo một báo cáo của Michael Trese [25] trong số 40 mắt bị
tăng sinh xơ sau thể thuỷ tinh được phẫu thuật cắt dịch kính, kèm theo có cắt
thể thuỷ tinh, bóc màng xơ và có cả đai củng mạc. Với thời gian theo dõi ít
nhất là 6 tháng, kết quả chung về giải phẫu chỉ có 45% số mắt được phẫu
thuật võng mạc áp sau điều trị. 30% số mắt được xem là phẫu thuật thành
công về chức năng chỉ đạt thị lực ở mức trẻ có thể nhình theo được ánh sáng
hoặc có thể nắm bắt được đồ vật.
Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh phẫu thuật cắt dịch kính bảo tồn
thể thủy tinh (lens- sparing vitrectomy) đối với giai đoạn sớm của bong võng
mạc là sự lựa chọn hiệu quả để đạt được sự tái áp hoàn toàn của võng mạc
bong, không gây xoắn vặn hậu cực và bảo tồn được thể thủy tinh. Phẫu thuật

năng rất hạn chế, chỉ có 7.3% bệnh nhân đạt được mức thị lực 20/ 200.
16
Hirose và cộng sự, khi đánh giá thị lực trên những mắt đã được điều trị
BVMTĐN giai đoạn 5 bằng phẫu thuật cắt dịch kính lộ thiên ngay cả khi
võng mạc áp sau phẫu thuật, kết quả thị lực tối đa chỉ là nhận dạng được đồ
vật ở 58,2%, số mắt còn lại thị lực chỉ ở mức bóng bàn tay hoặc cảm giác
sáng tối.
Phẫu thuật cắt dịch kính kín so với phương pháp trên có ưu điểm là ít gây
chấn thương lên nhãn cầu, cho phép kiểm soát nhãn áp trong quá trình phẫu
thuật. Đối với mắt bị BVMTĐN giai đoạn 5 đã được điều trị bằng laser hoặc
lạnh đông và vùng võng mạc chu biên vẫn áp hoặc bong võng mạc hậu cực,
thì kỹ thuật cắt dịch kính kín được lựa chọn đầu tiên và có thể bảo tồn được
thể thủy tinh. Do những ưu điểm trên nên phương pháp cắt dịch kính kín dần
hoàn thiện về mặt kỹ thuật. Trên thế giới vào những năm 90 đã phổ biến kỹ
thuật cắt dịch kính 3 đường với dao chọc củng mạc 20 G.
Tất cả các phương pháp điều trị đối với những mắt BVMTĐN đều tập
trung đánh giá theo hai tiêu chí là chức năng và giải phẫu. Đối với nhóm trẻ
này hầu hết đều chưa biết nói và sự phối hợp rất kém do vậy về kết quả chức
năng chỉ tập trung vào thu thập kết quả thị lực và ngay thị lực cũng là vấn đề
lớn cho nhóm đối tượng này. Điều này cũng được Cusick M, Tresse MT,
Prener… đề cập.
Vấn đề thị lực: hầu hết kết quả đánh giá về chức năng đối với BVMTĐN
được đánh giá là thị lực và tất cả các báo cáo đều cho thấy các mắt BVMTĐN
được điều trị dù bằng các phương pháp đều có thị lực kém thường ở mức độ
khiếm thị hoặc mù. Đánh giá thị lực ở các lứa tuổi khác nhau hoàn toàn khác
nhau và phải sử dụng nhiều phương pháp như ở trẻ sơ sinh là định hướng theo
ánh sáng, trẻ chưa biết nói phải thử theo bảng Lea Gratings. Với những trẻ từ
6 tháng đến 12 tháng tuổi việc đánh giá thị lực bằng bảng thị lực thông
17
thường không thực hiện được nên người ta đánh giá chức năng thị giác bằng

bóc màng xơ cho những mắt BVMTĐN giai đoạn 4 và 5.
Đầu năm 2000 các tác giả Andres K và cộng sự [34] đã thực hiện cắt
dịch kính bóc màng xơ trong điều trị BVMTĐN giai đoạn 4,5 có bong võng
mạc co kéo cho thấy tỷ lệ thành công về mặt giải phẫu khá cao tới 90% đối
với BVMTĐN giai đoạn 4A trong khi đó của Christine là 73% [35].
Các nghiên cứu gần đây chứng minh rằng, phẫu thuật cắt dịch kính bảo
tồn thể thủy tinh đối với giai đoạn sớm của bong võng mạc là sự lựa chon
hiệu quả để đạt được sự tái áp hoàn toàn của võng mạc bong, không gây xoắn
vặn hậu cực và bảo tồn được thể thủy tinh. Tỷ lệ thành công về mặt giải phẫu
khá cao thay đổi từ 82- 97% tùy theo từng nghiên cứu. Hơn nữa, kết quả về
mặt thị lực khá ấn tượng sau cắt dịch kính bảo tồn thể thủy tinh đối với
BVMTĐN giai đoạn 4A đã được báo cáo tới 70% các trường hợp có thị lực
tốt hơn 20/ 80 và gần một nửa các trường hợp đạt được thị lực 20/ 40 hoặc
hơn. Năm 2005 Lakhanpal [36], cho thấy kỹ thuật cắt dịch kính với 3 đường
vào và để lại thể thuỷ tinh (3 port lens sparing vitrectomy) để điều trị bong
19
võng mạc co kéo giai đoạn 4A và 4B của BVMTĐN sau 1 lần phẫu thuật duy
nhất, có tỷ lệ võng mạc áp 1 phần hoặc toàn bộ đạt 94,4%, với thời gian theo
dõi trung bình 32 tháng (6-48 tháng ). Toàn bộ 32 mắt 100% bị bệnh ở giai
đoạn 4A có võng mạc áp hoàn toàn và 70/76 mắt ( 92,1%) bị bệnh giai đoạn
4B võng mạc áp một phần hoặc toàn bộ. Qua nghiên cứu, các tác giả nhận
thấy rằng cần cắt dịch kính điều trị BVMTĐN từ giai đoạn 4A để tránh bong
võng mạc lan rộng tới hoàng điểm, còn khi bệnh đã sang giai đoạn 5 thì phẫu
thuật rất ít có kết quả.
20
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng: nghiên cứu được tiến hành tại Khoa mắt trẻ em Bệnh viện
Mắt TW thời gian từ 1/2012- 6/2013.

- Máy laser Diode xách tay nhãn hiệu Iridex với bước sóng 810nm.
- Bộ dụng cụ vi phẫu (pince giác mạc, kéo Vanas,vành mi dành cho trẻ
sơ sinh ).
- Bộ dụng cụ phẫu thuật cắt dịch kính 23- hoặc 25- gauge: Dao chọc
củng mạc 23/ 25G, đầu cắt dịch kính 23/25G, đèn nội nhãn endoscope, lăng
kính phẳng, nghiêng, đinh nước 23/25G
- Pince bóc màng xơ.
- Dây Silicon đai độn củng mạc
- Chất nhầy Healon
22

Backflude 23-g Pince bóc màng 23-g
Hình 2.1. Dụng cụ phẫu thuật
2.2.4. Quy trình nghiên cứu
2.2.4.1. Thu thập thông tin
- Mỗi bệnh nhân khám có một phiếu nghiên cứu để thu thập các thông tin
cần thiết về lí do đến khám bệnh, tuổi thai, giới tính, cân nặng khi sinh, tình
trạng bệnh lần điều trị trước cũng như cách thức điều trị và kết quả.
23
- Hỏi và lấy các thông tin từ hồ sơ cũ về:
+ Lý do vào viện.
+ Tiền sử tuổi thai và cân nặng
+ Các yếu tố nguy cơ khác về bệnh toàn thân, có thở oxy
+ Tiền sử bệnh về mắt? Được chẩn đoán BVMTĐN và điều trị bằng
phương pháp gì?
+ Tuổi thai khi điều trị trước, điều trị kết quả ra sao, có được theo dõi
liên tục không
- Thị lực (TL): đo thị lực tưng mắt nhìn xa và thị lực hai mắt bằng bẳng
thị lực Snellen, bảng hình (đối với trẻ nhỏ). Đánh giá thị lực bằng bảng Lea
Gratings là đánh giá khả năng đáp ứng về thị giác của trẻ nhỏ chưa biết nói

- Băng mắt kết thúc phẫu thuật.
- Sau khi kết thúc phẫu thuật, bệnh nhân được lưu lại phòng mổ 2- 3 giờ.
Nếu bệnh nhân tự thở được thì sẽ chuyển về khoa điều trị nằm và tiếp tục
được theo dõi về nhiệt độ, nhịp thở, nhịp tim và toàn trạng.
25
Ghi nhận biến chứng.
Biến chứng trong và sau phẫu thuật.
- Xuất huyết dịch kính.
- Xuất huyết võng mạc.
- Rách võng mạc do chạm đầu cắt dịch kính.
- Chạm thể thủy tinh.
- Xuất huyết kết mạc.
Theo dõi sau điều trị: 1 tuần, 1 tháng, 3 ,6 và 12 tháng để đánh giá tình trạng
chức năng và giải phẫu của mắt đặc biệt là khả năng trải áp của võng mạc và
các biến chứng.
2.2.5.4. Đánh giá kết quả điều trị: sau phẫu thuật, bệnh nhân được hẹn khám
lại sau khi ra viện 1tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng để đánh giá
Về giải phẫu:
Tốt: võng mạc bong áp tốt
Trung bình:
- Võng mạc bong áp không hoàn toàn.
- Tổ chức xơ tiếp tục phát triển co kéo võng mạc bong.
Xấu: Bong võng mạc tái phát hoặc teo nhãn cầu.
Về chức năng: thị lực đánh giá theo các mức độ:
- Không phân biệt được sáng tối
- Phân biệt được sáng tối, bóng bàn tay
- Mắt có định thị nhìn theo đồ vật


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status