giao trinh khao co hoc viet nam - Pdf 23


TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
F 7 G
GIÁO TRÌNH
KHẢO CỔ HỌC VIỆT NAM

(Giáo trình dùng cho hệ đại học từ xa)TRẦN VĂN BẢO
2002
www.Beenvn.com
Khảo cổ học Việt Nam - 2 -
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................3
CHƯƠNG I: THỜI ĐẠI KIM KHÍ Ở TRUNG VÀ NAM TRUNG BỘ ....................4
I. LỊCH SỬ PHÁT HIỆN VÀ NGHIÊN CỨU........................................................4
1. Giai đoạn trước 1975.........................................................................................4
2. Giai đoạn sau 1975............................................................................................5

Trần Văn Bảo Khoa Lịch Sử
www.Beenvn.com
Khảo cổ học Việt Nam - 3 -

MỞ ĐẦU

Môn Khảo cổ học được giảng cho sinh viên Khoa Lòch sử, Đại học Đà Lạt là
môn học bắt buộc. Nội dung môn học này được chia thành hai phần.

Phần thứ nhất: Cơ sở Khảo cổ học
Bao gồm 3 chương
Chương một. Dẫn luận
Chương hai. Phương pháp nghiên cứu khảo cổ
Chương 3. Các thời đại khảo cổ
Phần này giảng cho sinh viên năm thứ nhất, nhằm cung cấp cho sinh viên
những khái niệm cơ bản của khảo cổ học, phương pháp điều tra và khai quật khảo
cổ. Nội dung chính của phần này là giới thiệu nhận thức của giới Khảo cổ học Việt
nam hiện đại về thời kỳ tiền sử ở khu vực miền Bắc và Bắc Trung bộ, từ sơ kỳ đá
cũ đến thời đại kim khí.
Phần thứ hai: Khảo cổ học Việt Nam
Phần này cũng chia thành 3 chương
Chương một. Thời đại kim khí ở Nam Trung bộ
Chương hai. Thời đại kim khí ở Đông Nam bộ
Chương ba. Vài nét đặc trưng hậu kỳ đá mới-sơ kỳ kim khí Nam Tây nguyên.
Ngoài ra còn có phần phụ lục về văn hóa Đông Sơn
Trong các thập kỷ 60 và đầu 70 những đóng góp của Saurin và Fontaine đã
nhận thức về văn hoá Sa Huỳnh lên một bước mới. Năm 1966, Saurin công bố về
phát hiện đòa điểm Dầu Giây (Đồng Nai). Năm 1973, ông công bố tiếp phát hiện
đòa điểm Hàng Gòn (Đồng Nai). Hai đòa điểm mới này là những khu mộ chum đã
bò đào phá để xây dựng. Năm 1972, Fontaine công bố phát hiện một cánh đồng
chum mới ở Phú Hoà cũng thuộc tỉnh Đồng Nai. Năm 1973, Fontaine và Hoàng Thò
Thân công bố tiếp một ghi chú mới về khu mộ Phú Hoà.
Trần Văn Bảo Khoa Lịch Sử
www.Beenvn.com
Khảo cổ học Việt Nam - 5 -
Những phát hiện mới ở lưu vực sông Đồng Nai đã mở rộng đòa bàn phân bố
văn hóa Sa Huỳnh về phía nam và cung cấp những niên đại C14 đầu tiên cho nhóm
di tích mộ chum thuộc văn hoá Sa Huỳnh ở Đồng Nai.
Đáng lưu ý là trong giai đoạn nghiên cứu này, người có nhiều công lao nghiên
cứu và đặt văn hoá Sa Huỳnh trong bối cảnh Đông Nam Á là học giả Mỹ
W.C.Solheim II. Tại Philippiness, Solheim đã nghiên cứu gốm các đòa điểm ở
Kalanay trong sự so sánh với gốm Sa Huỳnh và nêu lên một “phức hệ gốm Sa
Huỳnh - Kalanay". Sau này, ông đưa ra cái gọi là “truyền thống gốm Sa Huỳnh -
Kalanay" ở Đông Nam Á. Nếu “phức hệ gốm Sa Huỳnh - Kalanay" được Solheim
chấp nhận niên đại khoảng nửa cuối thiên niên kỷ I trước Công nguyên, thì “truyền
thống gốm Sa Huỳnh - Kalạnay" được ông mở rộng khung niên đại đến thiên niên
kỷ II trước Công nguyên. Trong nhiều bài viết cùa mình, Solheim đã nêu lên những
đồ gốm thuộc truyền thống Sa Huỳnh - Kalanay có mặt tại Việt Nam và
Philippines như ở Thái Lan, Malaixia, Indonexia…và gắn chủ nhân của truyền
thống gốm này với cư dân nói ngôn ngữ Nam Đảo (Malays - Polynesian). Đi xa
hơn, ông còn xác đònh quê hương đầu tiên của chủ nhân gốm Sa Huỳnh - Kalanay
là ở vùng Đông Bắc Indonexia và Nam Philippines. Tuy nhiên, nhiều giả thuyết
của ông không phải đã được mọi nhà khảo cổ học nghiên cứu về Đông Nam Á
đồng tình.
Tóm lại, thời kỳ nghiên cứu của các học giả nước ngoài về văn hoá Sa Huỳnh

trước đây đã bò đào phá và 3 mộ chum còn khá nguyên vẹn.
Tóm lại trong vòng 20 năm nghiên cứu của giai đoạn sau năm 1975, chúng ta
đã phát hiện và nghiên cứu một loạt di tích mới, phấn bố trên hầu hết các tỉnh ven
biển miên Trung từ Quảng Trò đến Bình Thuận và cả ở một số tỉnh miền núi như
Gia Lai - Kontum hay các tỉnh miền Đông Nam Bộ như Đồng Nai, Bình Dương,
Bình Phước…cung cấp nhiều tư liệu mới, phong phú đa dạng. Đặc biệt phải nhấn
mạnh đến việc tìm ra vết tích cư trú của văn hoá Sa Huỳnh mà trong giai đoạn
nghiên cứu trước các học giả nước ngoài không phát hiện ra như ở khu vực Sa
Huỳnh hay chưa khẳng đònh được như ở Hàng Gòn, Dầu Giây…
Điều cần nhấn mạnh nữa là trong khi nghiên cứu văn hoá Sa Huỳnh giai đoạn
này, chúng ta đã tìm ra một loạt các di tích Tiền Sa Huỳnh có niên đại sớm thuộc
thời đại đồng thau, có mối liên hệ nguồn gốc và phát triển nối tiếp với các di tích
Sa Huỳnh cổ điển - Sa Huỳnh thuộc thời đại sắt sớm. II.CÁC DI TÍCH TIỀN SA HUỲNH
1. Giai đoạn Xóm Cồn
1.1. Đòa vực phân bố
Khác với giai đoạn Long Thạnh hay Bình Châu, giai đoạn Xóm Cồn đã được
xác lập thành một văn hoá khảo cổ riêng biệt. Cho đến nay đã phát hiện được 8 đòa
điểm thuộc văn hoá Xóm Cồn. Các di tích này phần bố ở đồng bằng ven biển và
các đảo ven bờ hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà. Đây là những đồng bằng nhỏ hẹp,
không tách biệt với vùng núi về mặt nguồn gốc phát sinh. Trên đồng bằng người ta
còn thấy có những cồn cát trằng bọc những đầm phá lớn, đường bờ biển lô nhô
dạng răng cưa, xen kẽ là những vùng vònh tự nhiên khá kín, che chắn cho các bãi
biển trong vùng. Cư dân văn hoá Xóm Cồn đã tụ cư ở những cồn cát trên dải đồng
bằng ven biển ấy, hoặc trên các hòn đảo không xa bờ.
Trong số 8 đòa điểm văn hoá Xóm Cồn, về mặt tự nhiên có thể nhận rõ 2 loại
đòa hình cư trú: trong đất liền (Xóm Cồn, Gò Ốc, Giồng Đồn) và các đảo gần bờ
(Bình Hưng, Bình Ba, Bích Đầm, Bãi Trủ và Đầm Già). Dù cư trú ở đất liền hay

Ốc có 1900 mảnh… Đồ gốm trong các di tích văn hóa Xóm Cồn khá đồng nhất về
chất liệu, kỹ thuật chế tạo, loại hình và hoa văn trang trí. Loại gốm có xương màu
đen chiếm đa số (86%), còn loại xương đỏ chiếm ít hơn (14%). Phần lớn gốm trong
văn hoá Xóm Cồn đã sử dụng đấùt sét pha cát biển, hạt cát tương đối mòn (đối với
loại gốm xương đen).
Xét về loại hình gốm thì đơn điệu, nhưng rất phong phú về kiểu dáng, với
những biến thể khác nhau. Ví như, trong cùng một loại nồi đáy tròn miệng loe, có
dáng loe vừa, có dáng loe gãy; có dạng vành miệng hơi khum lòng máng; có kiểu
miệng mép tròn, có kiểu miệng mép vuông. Có nồi vai hơi xuôi, có nồi vai cong
tròn.v.v.
Đồ gốm ở đây chủ yểu đước nặn bằng tay kết hợp với bàn đập – hòn kê. Kỹ
thuật bàn xoay dường như chỉ được áp dụng ở khâu hoàn thiện. Mặt ngoài đồ gốm
Trần Văn Bảo Khoa Lịch Sử
www.Beenvn.com
Khảo cổ học Việt Nam - 8 -
thường được phủ bằng văn chải, rất ít văn thừng. Hoa văn trang trí là văn khắc
vạch, in chấm, dán thêm, tô màu. Loại văn in chấm với phương pháp dùng que
nhiều răng tạo những đường in chấm ziczắc rất đặc trưng cho gốm Xóm Cồn. Bên
cạnh đó đã thấy xuất hiện văn vẽ màu trên nền áo đỏ hoặc da cam với những
đường xoắn ốc, tương tự hoa văn gốm Ban Chiang (Thái Lan). Điều ghi nhận nữa là
ngoài các kiểu dạng nồi gốm, trong văn hoá Xóm Cồn còn tìm thấy một số loại
hình bát và đóa mâm bồng có tô màu đỏ, nhưng lại thiếu vắng bi gốm, dọc xe chỉ và
chì lưới.
Hiện nay vấn đề chủ nhân và niên đại của văn hoá Xóm Cồn còn quá ít tư
liệu. Kết quả giám đònh răng người cổ ở Bình Ba gợi ra rằng, chủ nhân văn hoá
Xóm Cồn cóthể thuộc chủng Australo – Mongoloid, trong đó nét Mongoloid nổi trội
hơn.
Hiện nay mới có 2 niên đại C14 cho 2 đòa điểm văn hoá Xóm Cồn. Tại Xóm
Cồn mẫu ốc ở lớp cuối là 4140 80 năm cánh ngày nay và Bích Đầm (lớp dưới) là
2935 65 năm cách ngày nay. Vũ Quốc Hiền cho rằng, Xóm Cồn thuộc thời đại

2. Giai đoạn Long Thạnh
2.1. Đòa vực phân bố
Nhìn trên bản đồ phân bố các di tích văn hoá Sa Huỳnh, chúng ta nhận thấy
rằng hầu hết các di tích văn hoá Sa Huỳnh đều phân bố dọc ven biển Nam Trung
bộ Việt Nam. Vò trí phân bố hoặc trên các đồi gò cát ven biển hoặc trên các đồi
đất, chân núi. Thỉnh thoảng chúng ta cũng gặp các khu mộ hoặc các khu cư trú ở
gần các dòng sông đổ ra biển hoặc trên các đảo cát nhỏ gần bờ do các dòng hải lưu
tạo nên. Những phát hiện ở Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Đònh gần
đây cung cấp thêm những tư liệu mới về những loại hình Sa Huỳnh vùng núi, cách
xa biển 50 – 60 km có những sắc thái văn hoá núi rất đặc sắc trong nội dung văn
hoá của các di tích đó. Phần lớn đây là những di tích Sa Huỳnh khá muộn, thuộc sơ
kỳ sắt, trừ một vài di tích có thể thuộc sơ kỳ đồng thau như Gò Miếu, Trà Xuân,
Tònh Thọ…
Cư dân Sa Huỳnh trong quá trình vận động đã chiếm lónh, hòa điệu và biến cải
môi trường sống với thể trước mặt là biển khơi, phía sau là dải đồng bằng trước núi
và xa hơn là các dãy núi điệp trùng, đã trải dài qua hàng nghìn năm vật lộn với
sóng biển và bão cát, khác nhau về độ cao và quy mô, có xu hướng chuyển dần
vào nội đòa và lấn dải đồng bằng vốn đã nhỏ hẹp.
Một loạt các đòa điểm thuộc nhóm di tích sơ kỳ đồng thau trong văn hoá Sa
Huỳnh đều phân bố dọc duyên hải miền Trung, trên các dải đồng bằng ven sông,
trên các đồi gò trước núi, chứng tỏ sự chiểm lónh đồng bằng của các cư dân thời đại
đồng thau xảy ra nhanh chóng và đều khắp trên nhiều đòa bàn, sau một thời kỳ biển
tiến và rút đi đã tạo nên một dải đồng bằng phù sa mầu mỡ, thuận tiện cho việc
trồng trọt và nông nghiệp trồng lúa. Đáng chú ý là phần lớn các di tích sớm của
giai đoạn này lại là các di tích cư trú xen lẫn khu mộ táng cùng thời hoặc muộn
hơn, như di tích Long Thạnh, Bầu Trám, Suối Chồn, Mỹ Tường, Hòn Đỏ (lớp I và
II), Truông Xe, Núi Sứa.v.v.

2.2. Các đặc trưng văn hoá
Để nhận thức đầy đủ tính chất văn hoá giai đoạn sơ kỳ đồng thau của các di

Trong các di tích sơ kỳ đồng thau, chúng ta vẫn thường gặp hiện vật phổ biến
trong các văn hoá hậu kỳ đá mới là chày nghiền và hòn kê. Trong các di tích nhóm
Long Thạnh nhiều tiêu bản của chày nghiên và hòn kê cũng đã được phát hiện.
Chày nghiền là những viên cuội hình trụ, mặt tác dụng thường bò mòn vẹt ở hai
đầu. Hòn kê cũng là loại đá cuội biển, trên bề mặt có các vết lõm lỗ chỗ ăn sâu
xuống do lực tác dụng vào. Rải rác trong một số di tích ở Ninh Thuận, Bình Thuận,
Quảng Nam, Đà Nẵng chúng ta thấy hiện diện các dao hái bằng đá, một số đục
nhỏ bằng đá, chày đập vỏ cây..v.v..
Đồ trang sức bằng đá giai đoạn Long Thạnh có khuyên tai, vòng tai và hạt
chuỗi. Không phải đồ trang sức bằng đá đều được phát hiện trong tất cả các di tích.
Nhưng những di tích phát hiện được hạt chuỗi hay khuyên tai đều cung cấp những
tiêu bản rất đặc trưng và độc đáo. Trong di tích Long Thạnh đã phát hiện thấy 2 đôi
khuyên tai trong mộ số 7. Một đôi khuyên tai có bản dẹt, làm từ Nephrit màu trắng
ngà. Khuyên tai có bản rộng và mỏng, bên trong có lỗ nhỏ. Bản vòng có khe hở để
đeo vào tai. Khuyên tai có đường kính 5 cm. Đôi khuyên tai khác có hình tròn như
chiếc đóa, xung quanh có 4 mấu dẹt. Trên mấu có khắc hình tai thú.
Trần Văn Bảo Khoa Lịch Sử
www.Beenvn.com
Khảo cổ học Việt Nam - 11 -
Vòng tai có khe hở nhỏ để kẹp vào tai. Đường kính vòng 8,5 cm, bản vòng
rộng 0,7 cm.
Hạt chuỗi có 3 loại. Loại hình ống có khấc ngoài nổi như đốt trúc, loại hình
ống trơn và loại hạt chuỗi gần tròn giống hạt cườm. Tất cả đều được làm từ đá
Nephrit màu trắng hoặc xanh nhạt. Ngoài việc sử dụng đá ngọc để làm đồ trang
sức chúng ta còn phát hiện thấy cư dân Sa Huỳnh giai đoạn này đã dùng vỏ sò, chế
tác thành đồ trang sức như hạt chuỗi hoặc ghè mặt lưng vỏ ốc tiền để
đeo.v..v..Trong di tích Mỹ Tường đã phát hiện được 800 vỏ ốc có lỗ ở mặt lưng
trong một ngôi mộ chum.
Hiện vật bằng xương trong các di tích giai đoạn này rất hiếm gặp. Các nhà
khảo cổ mới chỉ phát hiện được một số lưỡi câu và mũi lao xương trong di tích cư

6 - 8 cm.
Ngoài bát có chân đế, chúng ta thỉnh thoảng cũng gặp những bát không chân
đế có đáy tròn như hiện vật phát hiện trong mộ 5 di tích Long Thạnh II. Có thểloại
hiện vật này có chức năng là nắp đậy hơn là bát. Trên thân có trang trí hoa văn làn
sóng đuổi nhau. Hiện vật có đường kính 15 cm, cao 8 cm.
Nồi là loại đồ gốm thường gặp trong các mộ táng và di chỉ cư trú. Hầu hết đều
có thân phình, đáy tròn, miệng loe, dáng thấp. Có dạng nồi thường dùng và có dạng
nồi minh khí. Nồi dạng minh khí được làm bằng tay có trang trí hoa văn. Đáng chú
ý là một vài nồi lớn cũng có trang trí hoa văn ở thân. Tuy nhiên hoa văn của nồi có
phần giản đơn hơn so với hoa văn trên các bình vò.
Trong nhóm đồ gốm còn có loại chì lưới bằng đất nung hình bầu dục. Loại chì
lưới này rất phổ biến trong các di tích hậu kỳ đá mới - sơ kỳ đồng ở Việt Nam.
Cũng cần kể đến những dọi xe sợi độc đáo hình ống chỉ hai đầu loe có trang trí các
vòng tròn trên mặt, các khuyên tai đất nung có mặt cắt hình tròn, vật có hình trụ
bóp hai đầu, trên thân có trang trí các đường vạch, vật có dáng tương tự như các con
lăn in hoa văn bằng gốm, vật hình sinh thực khí nữ độc đáo.
Nét nổi bật trong đồ gốm Tiền Sa Huỳnh giai đoạn Long Thạnh cũng là nét tạo
thành một trong những đặc trưng cho văn hoá Sa Huỳnh sau này là các chum hay
vò lớn, có nắp đậy hình bát được dùng làm quan tài giai đoạn sớm, chum có dáng
hình trứng và nắp đậy là những bát mâm bồng hình nón cụt, đế thấp. Thân bát bên
ngoài trang trí các hoa văn khắc vạch uốn lượn như trên các bình hình lọ hoa và
trên mép miệng được cắt thành hình răng cưa, cụm thành từng nhóm.
Bên cạnh loại hình, hoa văn trang trí đóng vai trò rất quan trọng để nhận thức
đầy đủ hơn đặc trưng đồ gốm ở đây. Trong tổng số 8693 mảnh gốm ở hố II di tích
Long Thạnh có 6893 mảnh có trang trí hoa văn bao gồm văn thừng, văn khắc vạch,
văn tô màu, văn in.
Văn thừng là văn chủ đạo trang trí trên các mộ chum, trên thân nồi, trên thân
vò và đáy bình. Trên các mộ chum, văn thừng là thừng thô trang trí từ vai tới đáy.
Trên các nồi, bát, bình trang trí văn thừng mòn và kết hợp với các loại văn khác để
tạo nên các đồ án khác nhau.

ngoài. Vò táng có nhiều loại. Cỡ to hơn là các chum với hình dạng khác nhau. Chủ
yếu phổ biến loại chum có dáng thuôn về đáy, đáy tròn. Loại này chúng ta thường
gọi là chum hình trứng. Loại có kích thước nhỏ hơn ta gọi là các vò táng. Vò táng
thường có dạng hình cầu. Vò táng (nồi) có kích thước cao 30 - 40 cm, đường kính
miệng 25 - 35 cm, bụng rộng 35 - 45 cm. Loại chum có đường kính miệng 40 - 60
cm, đường kính thân 50 - 70 cm, cao 70 -100 cm.
Đồ tuỳ táng được đặt có ý thức trong vò. Qua xem xét chúng tôi cho rằng một
số loại hiện vật dễ vỡ được đặt sau khi vò táng đã hạ huyệt. Trong một số ít vò
táng có phát hiện được một ít xương răng trẻ em, còn phần lớn không có vết tích
xương cốt.
Mộ táng đều không bò cắt phá nhau và chôn trên cùng một bình diện đòa tầng.
Các chum gốm dùng cho việc mai táng đều được chế tác chắc chắn và chỉ phục vụ
cho chức năng này. Đáng chú ý là các nắp đậy mộ vò. Dáng cơ bản của chúng là
hình mâm bồng hay lồng bàn. Các chân đế (hay núm cầm) đều bò đập vỡ khi đậy
lên mộ chum. Các khu mộ điển hình có phong cách táng như trên là Long Thạnh,
Mỹ Tường, Truông Xe, Núi Sứa…
Qua tính chất và thành phần các đồ tuỳ táng, chúng tôi cho rằng đã có sự phân
hoá tài sản trong cư dân Tiền Sa Huỳnh ngay từ giai đoạn sớm. Điều này cũng nói
Trần Văn Bảo Khoa Lịch Sử
www.Beenvn.com
Khảo cổ học Việt Nam - 14 -
lên sự phân hoá xã hội đã hình thành trong từng cộng đồng người thân tộc. Việc
chôn người chết ngay trong khu cư trú biểu hiện một tư duy tôn giáo nguyên thủy,
một mối quan hệ mật thiết giữa người sống và người chết.

3. Giai đoạn Bình Châu
3.1. Các đặc trưng văn hoá
Hiện nay việc xác đònh có giai đoạn đồng thau phát triển trước văn hoá Sa
Huỳnh cổ điển được tạm chấp nhận qua phân tích tư liệu (còn khá tản mạn) của
một số di tích. Đặc biệt là trong các di tích giai đoạn này đã xuất hiện nghề luyện

Khảo cổ học Việt Nam - 15 -
Trong giai đoạn này có sự đổi mới về phong tục chôn cất. Các khu mộ đã tách
khỏi khu cư trú và đã được chôn ở một khu vực riêng cách không xa nơi ở.
Trong di tích Bình Châu, hầu hết các mảnh gốm đều tô màu, chủ yếu là màu
đỏ, màu đen ánh chì. Cách tô màu gốm giai đoạn Bình Châu thường được phối hợp
với những yếu tố khác như văn thừng, văn khắc vạch, văn chấm dải…
Về tục mai táng, trong giai đoạn này đã xuất hiện các phương thức mai táng
khác nhau nhưng chủ đạo vẫn là chôn trong vò. Đây là phong cách mai táng truyền
thống của cư dân văn hoá Sa Huỳnh. Trong khu mai táng ở Bầu Trám đã phát hiện
được nhiều cum mộ vò và có thể xác đònh được 3 mộ vò. Mộ vò được chôn đứng
và có nắp đậy. Vò lớn có hình cầu, đường kính 40cm, cao khoảng 40-50cm. Các vò
táng loại nhỏ thuộc dạng nồi cỡ trung bình. Nắp đậy mộ vò lớn nhất hình nón cụt
nhưng nắp đậy loại vò nhỏ có hình lồng bàn. Đây là loại nắp đậy phổ biến trong
giai đoạn sơ kỳ đồng của văn hoá Sa Huỳnh. Riêng ở Bình Châu đã tồn tại một tục
táng khá độc đáo là các nồi vò thường được đặt úp miệng xuống đất.
Trong mỗi mộ thường có khoảng 3-5 nồi, vò hoặc bát bồng xếp gần nhau.
Trong đồ gốm to nhất thường đặt các đồ tuỳ táng nhỏ hơn như các nồi vò cỡ nhỏ,
đồ đồng thau, quả cân gốm, khuyên tai gốm ..v..v.Mộ thường nằm ở độ sâu 0,50 –
0,85 so với mặt gò. Trong mộ không có hiện tượng rải gốm hay rải đá và không còn
dấu tích xương người.
Trong giai đoạn này, công cụ đá vẫn chiếm vò trí chủ đạo, thường gặp loại
cuốc hình “lưỡi mèo” có dáng nở rộng về phần lưỡi, đốc hẹp rất thuận lợi cho việc
canh tác nông nghiệp trên các dải đồng bằng đất pha cát vùng duyên hải. Loại
cuốc này rõ ràng là tiêu chí xác đònh đặc trưng văn hoá cho các di tích tiền Sa
Huỳnh. Chúng có mặt ở giai đoạn Long Thạnh và tiếp nối truyền thống ở giai đoạn
Bình Châu. Loại rìu đá đốc nhọn, thân hình tam giác của giai đoạn sơ kỳ đồng vẫn
tồn tại ở giai đoạn này và vẫn bảo lưu khá lâu dài

4. Các di tích Sa Huỳnh
4.1. Những mối quan hệ văn hoá

không phổ biến loại hình trứng như trong giai đoạn sơ kỳ đồng mà phổ biến loại
hình trụ với nắp đậy hình nón cụt và loại mộ vò hình cầu đáy tròn.
Với một số niên đại C14 có được ở Quế Lộc: 2100năm, sai số 50 năm cách
ngày nay, ở Hàng Gòn: 2100năm, sai số 150 năm ; 2190năm, sai số150; 2300năm,
sai số 150 năm cách ngày nay, ở Phú Hoà (Đồng Nai): 2590năm, sai số 290;
2400năm, sai số 140 năm cách ngày nay, chúng ta có thể xem giai đoạn sơ kỳ sắt
này của văn hoá Sa Huỳnh tồn tại trong khoảng thiên niên kỷ I trước Công nguyên
đến đầu Công nguyên.

4.2. Con người và cuộc sống
Có thể khẳng đònh rằng cư dân thời đại kim khí ở Việt Nam là cư dân nông
nghiệp. Cư dân Phùng Nguyên – Đông Sơn, Cầu Sắt – Dốc Chùa là những cư dân
làm nông trên các dải đồng bằng châu thổ Sông Hồng, Sông Mã, Sông Cả, sông
Đồng Nai. Họ là những cư dân trồng lúa nước. Chứng tích khảo cổ học, cổ thực vật
học đã nói lên điều đó. Đòa hình phân bố của cư dân Sa Huỳnh chủ yếu ở ven biển
nên cơ tầng kinh tế của người Sa Huỳnh là làm nông trên đồng bằng duyên hải.
Các khu cư trú của người Sa Huỳnh nằm ven các cửa sông gần biển, các đầm nước
ngọt ven biển. Với các lớp văn hoá dày, có nơi tới 2m, chứng tỏ họ đã tụ cư liên
tục, ổn đònh và gắn quyện với nhau thành một khối cộng đồng. Trong giai đoạn văn
hoá sớm, họ đã sử dụng công cụ đá như cuốc, rìu, dao… Nền nông nghiệp dùng
Trần Văn Bảo Khoa Lịch Sử
www.Beenvn.com
Khảo cổ học Việt Nam - 17 -
cuốc đã chi phối toàn bộ cơ tầng kinh tế của cư dân Sa Huỳnh từ sớm tới muộn. Chỉ
khác là ở giai đoạn phát triển hưng thònh nhất, cuốc sắt đã ra đời và tạo nên bước
ngoặt lớn trong nông nghiệp.
Đồ sắt trong giai đoạn này chủ yếu là công cụ sản xuất như cuốc, thuổng, liềm,
dao, rìu. Công cụ sản xuất bằng đá đã mất hẳn vò trí như trước đây và bóng dáng
của chúng không còn in đậm trong nội dung văn hóa giai đoạn này.
Chúng ta chưa phát hiện được các hạt lúa nguyên dạng trong văn hoá Sa

các cư dân Đông Nam Á rất ưa chuộng. Sự có mặt của chúng ở nhiều khu vực khác
Trần Văn Bảo Khoa Lịch Sử
www.Beenvn.com
Khảo cổ học Việt Nam - 18 -
nhau ở Đông Nam Á đã nói lên điều đó. Trong văn hoá Đông Sơn, khu mộ Làng
Vạc (Nghệ An) chứa nhiều đồ thuỷ tinh nhất, trong khi đó ở các nới khác rất hiếm
gặp. Chính trong khu vực này cũng phát hiện được chiếc mấu nhọn của loại khuyên
tai ba mấu Sa Huỳnh.
Buôn bán trao đổi cũng là một nghề nghiệp. Buôn bán nói lên mối giao tiếp
văn hoá, mối quan hệ tộc người, ngôn ngữ. Một cư dân có nền văn hoá phát triển
phải có nghề buôn bán phát đạt. Hàng hoá, sản phẩm là chỉ số đo một nền văn
minh. Có hàng hoá mới có buôn bán trao đổi. Cư dân Sa Huỳnh đã làm ra sản
phẩm, hàng hoá để thực hiện công việc này. Hàng hoá, sản phẩm của người Sa
Huỳnh là đồ sắt, đồ thuỷ tinh, đồ gốm với kỹ thuật và mỹ thuật cao. Người Sa
Huỳnh có quan hệ buôn bán với người Việt cổ ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, với cư
dân lưu vực sông Đồng Nai. Bằng đường biển họ đã tới Philippines, Indonesia,
Malaysia, Hương Cảng và có thể còn đi xa hơn. Buôn bán ở đây hàm nghóa các
nhóm, các hội buôn nhỏ làm thành những đường dây liên hệ văn hoá. Có bán thí có
mua, ngưới Sa Huỳnh cũng đã mang về quê hương họ những sản phẩm của các văn
hoá láng giềng và những đặc sản từ các nơi xa. Đồ đồng Đông Sơn, đặc biệt là
trống đã có mặt ngay trong đòa bàn Sa Huỳnh. Sản phẩm văn hoá Dốc Chùa cũng
xuất hiện trong văn hoá Sa Huỳnh như ở Suối Chồn, Bàu Hoè (đồ đồng). Vai trò
của buôn bán có ý nghóa rất quan trọng trong sự phát triển văn hoá của các cư dân
Đông Nam Á. Giáo sư Hutteer, nhà nghiên cứu nổi tiếng người Mỹ về khảo cổ học
Đông Nam Á đặc biệt nhấn mạnh yếu tố này. Ông viết :”…Hoạt động buôn bán
đóng vai trò lớn trong sự phát triển văn hoá ở Đông Nam Á và làm động lực gián
tiếp để biến đổi văn hoá”
Bên cạnh cuộc sống vật chất đa dạng của cư dân Sa Huỳnh, người Sa Huỳnh
cũng có đầu óc thẩm mỹ cao, một nền nghệ thuật phát triển. Họ cũng là những cư
dân có những yếu tố tâm lý riêng, phong tục, nghi lễ riêng trong cái nền chung của

nghệ thuật điêu khắc đá của cư dân Sa Huỳnh, đồng thời cũng biểu hiện thế giới
quan của của người Sa Huỳnh. Sinh vật, vũ trụ tồn tại được nhờ kết hợp giữa các
cặp đối lập âm dương, trống mái, nước lửa… Đây chính là quan điểm phồn thực
của cư dân Sa Huỳnh.
Khuyên tai hai đầu thú Sa Huỳnh làm chúng ta liên tưởng đến nghệ thuật trang
trí trong văn hoá Xít ở Bắc Biển Đen. Mẫu hình động vật trang trí là những cặp đôi
cách điệu giống khuyên tai Sa Huỳnh. Hẳn trong thời đại sắt sớm, các cư dân cổ
trên thế giới đã có môi giao tiếp văn hoá rộng rãi. Đặc biệt bằng đường biển họ đã
vươn tới nhiều miền xa xôi ngoài sức tưởng tượng của chúng ta hiện nay. Tài liệu
khảo cổ chỉ nói lên một phần nhỏ mối giao tiếp văn hoá này.
Nghệ thuật Sa Huỳnh còn toát lên cho chúng ta những sắc thái tâm lý riêng
của cư dân Long Thạnh - Sa Huỳnh. Họ là những cư dân ưa chuộng màu sắc tươi
mát của tự nhiên. Màu vàng, trắng, đỏ của đồ gốm, màu xanh nước biển của thuỷ
tinh, màu đen ánh chì của hoa văn gốm.. Tất cả hội tụ lại đã nói lên một cuộc sống
nội tâm của người Sa Huỳnh, bộc lộ sự tươi mát, giản dò và yêu tự nhiên.
Cư dân Sa Huỳnh có phong tục mai táng trong vò, chôn trên các cồn cát, cồn
đất ven biển, ven sông, gần hoặc ngay trong nơi cư trú. Hiện nay chúng ta chưa có
nhiều cứ liệu để xác đònh đó là tục cải táng, hoả táng, chôn nguyên hay chôn từng
bộ phận tử thi. Chắc chắn một điều là một bộ phận trong đó dùng để mai táng trẻ
em nguyên tử thi, tức là chôn lần đầu.
Tục mai táng trong vò của người Sa Huỳnh – chôn đứng, có nắp đậy, là một
trong những truyền thống mai táng nổi bật ở Đông Nam Á, đặc biệt là ở hải đảo
Đông Nam Á trong thời đại kim khí. Trong giai đoạn hậu kỳ đá mới - sơ kỳ đồng
thau và muộn hơn, mộ vò ở Đông Nam Á có phong cách chôn nguyên và cải táng.
Đến giai đoạn sắt sớm và muộn hơn, tục hoả táng lan rộng ở Đông Nam Á từ các
trung tâm văn minh Trung Quốc, n Độ và vò gốm được dùng rộng rãi để thực
Trần Văn Bảo Khoa Lịch Sử
www.Beenvn.com
Khảo cổ học Việt Nam - 20 -
hiện nghi lễ này. Trong các mộ táng Sa Huỳnh, chúng ta không tìm thấy mộ nào

mộ vò ở Đông Nam Á cũng nằm trong khu vực cư trú của người Nam Đảo khu vực
này.
Hiện nay, chúng ta vẫn chưa có tư liệu khảo cổ học để chứng minh mối quan
hệ tiếp nối giữa người Sa Huỳnh và cư dân Chăm Pa. Tuy vậy, bằng sự liên tục
không đứt quãng về thời gian, sự trùng hợp về không gian phân bố, nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng chính người Sa Huỳnh, từ khi tiếp xúc, du nhập văn hóa n
Độ, đã xây dựng nên vương quốc cổ Chăm Pa.

Trần Văn Bảo Khoa Lịch Sử
www.Beenvn.com
Khảo cổ học Việt Nam - 21 -

CHƯƠNG II:
THỜI ĐẠI KIM KHÍ Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ

I. LỊCH SỬ PHÁT HIỆN VÀ NGHIÊN CỨU
Vùng lưu vực sông Đồng Nai ngày nay cũng được gọi là vùng Đông Nam
bộ, bao gồm các tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Ròa,
Vũng Tàu, một phần Lâm Đồng, Bình Thuận, Long An và Thành phố Hồ Chí
Minh.
Khu vực này có diện tích tự nhiên khoảng 2.448.000 ha, độ cao trung bình
so với mặt biển khoảng 100 – 200m, khí hậu nóng ẩm, ánh sáng nhiều, thời tiết
thuận lợi, hầu như không có bão.
Đây là một vùng thổ nhưỡng cơ bản thuộc đất phù sa cổ. Theo các nhà đòa
chất, vào khoảng đầu Kỷ thứ ba và Kỷ thứ tư (tức đầu Pliocene hay đầu đại
Tân sinh) trên diện tích tương ứng với đồng bẳng Nam Bộ hiện nay đã bắt đầu
hình thành một vùng trũng rộng lớn. Từ đó, các thành tạo đòa chất của Kỷ thứ
ba và Kỷ thứ tư dần dần lấp đấy vùng trũng này, tạo nên một trầm tích với bề
dầy còn thấy được từ trên 2000 m. Đây chính là đồng bằng Nam Bộ màu mỡ
và trù phú hiện nay.

doi đất cao ven sông suối, ven theo các bờ biển cổ trong vùng đồng bằng thấp
thành tạo muộn… có độ cao không đều nhau, từ 1m đến 150m so với mặt biển như
Cái Vạn, An Sơn, Rạch Núi…(vùng thấp) Hưng Thònh, Suối Chồn, Cầu Sắt, Phước
Tân…(vùng cao).
Mật độ phân bố của các di tích này khá đậm đặc và gần gũi nhau. Cũng giống
như các di tích cùng thới vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, các di tíchỉ¬ Đông
Nam bộ có diện tích cư trú khá lớn, thậm chí rất lớn, đến hàng vạn mét vuông (như
Cầu Sắt, Bến Đồ) hay hàng chuc vạn mét vuông (như Cái Vạn…).
Ở lưu vực sông Đồng Nai, cũng có mặt đầy đủ dạng hình di tích. Có những di
chỉ cư trú (Cầu Sắt, Bến Đò, ND11…), có những di tích vừa là di chỉ cư trú, vừa là
khu mộ táng (Suối Chồn, Dốc Chùa, An Sơn, Rạch Núi…) có di tích là công xưởng
chế tác (Bưng Bạc, Suối Linh, Đồi Phòng Không, Mỹ Lộc…).
Về cấu trúc, các di tích khảo cổ học khu vực này cũng khá đa dạng, độ dày
mỏng của tầng văn hóa khảo cổ không đều nhau. Có di tích chỉ có một tầng văn
hoá (Cầu Sắt, Bến Đò, Hội Sơn, Ngãi Thắng…), có di tích có nhiều tầng văn hoá
sớm muộn khác nhau (Dốc Chùa, An Sơn…). Độ dày tầng văn hoá mỏng nhất
0,40m (Gò Đá), dày nhất từ 3m đến 5m (Bình Đa, Rạch Núi, An Sơn). Một đòa tầng
tích tụ dày, xen kẽ các lớp cứng, mềm, màu sắc không đồng nhất là một đặc điểm
phổ biến của các di chỉ tiền sử miền Đông Nam Bộ nằm ở phức hệ đòa lý - văn hoá
a, b. Đó là các di chỉ Rạch Núi, Lộc Giang, An Sơn, Cổ Sơn Tự, gò Ô chùa (Long
An), Dinh Ông (Tây Ninh), Bình Đa (Đồng Nai) và Dốc Chùa (Bình Dương).
Cấu tạo đòa chất đồng bằng Nam Bộ không thuần nhất là điều kiện tạo nên sự
đa dạng trong cấu tạo tầng văn hoá trong các di tích khảo cổ ở nơi đây. Những di
tích nằm trong vùng thấp kề bên vùng sình lầy ven biển chưa được bồi tụ (Cái Vạn,
An Sơn, Rạch Núi) tầng văn hoá là loại đất phù sa pha cát mòn. Ở di tích Rạch Núi,
trong lớp sinh thổ còn thấy những tích tụ cát sét lẫn tàn tích thực vật vùng đầm lầy.
Ngược lại, các di tích nằm trong vùng đất đỏ badan, tầng văn hoá là loại đất badan
Trần Văn Bảo Khoa Lịch Sử
www.Beenvn.com
Khảo cổ học Việt Nam - 23 -

giữa các di chỉ khảo cổ vùng Đồng Nai với các di chỉ khảo cổ thuộc văn hóa Phùng
Nguyên và Gò Mun ở Bắc Bộ và đều nhận thấy rằng mật độ phân bố các di vật ở
các di chỉ phía Bắc thấp hơn các di chỉ phía Nam.
Chất liệu dùng chế tác công cụ đá trong các đòa điểm khảo cổ vùng Đồng Nai
chủ yếu là đá badan, một số ít hơn được chế tác từ đá granít. Ở đây hầu như vắng
bóng loại đá ngọc Nephrit vốn được các cư dân vùng châu thổ Sông Hồng ưa
chuộng trong việc chế tác công cụ và đồ trang sức. Kỹ thuật chế tác chủ đạo của cư
dân cổ Đồng Nai là ghè tạo dáng và mài hoàn chỉnh. Người thời đại kim khí miền
Đông Nam Bộ ít sử dụng kỹ thuật khoan hơn người miền Bắc. Trong chế tác công
cụ hay đồ trang sức, kỹ thuật cưa hầu như vắng mặt, việc ghè đẽo tạo phác vật
vòng dường như chiếm ưu thế hơn kỹ thuật khoan (di chỉ Đồi Phòng Không hay di
Trần Văn Bảo Khoa Lịch Sử
www.Beenvn.com
Khảo cổ học Việt Nam - 24 -
chỉ Bưng Bạc). Thủ pháp thường dùng để tu chỉnh lại công cụ đá là ghè nhỏ tạo lại
rìa lưỡi sau một thời gian sử dụng, rồi mài lại. Chính thói quen này khiến cho di vật
công cụ có lưỡi tù, đầy vết tu chỉnh “thanh xuân hoá” rìa lưỡi. Bước sang thời đại
đồ sắt, trình độ kỹ thuật hai vùng có những nét tiến bộ tương tự nhưng biểu hiện ra
cũng có những nét khác biệt. Điều này, chủ yếu là do chất liệu quyết đònh.
Về hình loại, bộ hiện vật đá vùng lưu vực sông Đồng Nai cũng hết sức đa
dạng. Chúng ta gặp ở đây các loại rìu vai, rìu không vai, rìu tứ giác, bàn mài, đục
mũi nhon, mai, cuốc kích thước lớn. Trong phần lớn các đòa điểm, bắt gặp loại dao
cắt, dao hái, đồ trang sức chủ yếu là vòng tay….Loại hình hiện vật chiếm số lượng
nhiều nhất, thể hiện một phong cách riêng của khu vực này trong bộ hiện vật đá là
rìu bôn với đặc trưng nổi bật là rìu bôn có vai. Bên cạnh loại rìu bôn có vai là loại
rìu bôn không vai. Tuy nhiên tỷ lệ giữa hai loại này có sự khác biệt. Phạm Quang
Sơn đã nghiên cứu số lượng rìu bôn ở bốn đòa điểm: Phước Tân, Bến Đò, Hội Sơn,
Cù Lao Rùa. Kết quả cho thấy:
bôn với một số lượng khá lớn. Ở đòa điểm Rạch Núi (Long An) kết quả khai quật
cho thấy loại rìu có vai bằng đá hầu như vắng bóng (chỉ phát hiện được một tiêu
bản ký hiệu O
5
nhưng lại có cấu tạo đặc biệt, chưa thấy ở đồng bằng Nam Bộ).
Tuy nhiên, đây lại là nơi cho đến nay, phát hiện được nhiều nhất loại công cụ có
vai được chế tác từ mai rùa: 18 chiếc trong tổng số 25 hiện vật xương đã phát hiện
được ở đây. Tuy nhiên, sự chênh lệch chỉ diễn ra ở các di chỉ có niên đại sớm như
Trần Văn Bảo Khoa Lịch Sử
www.Beenvn.com
Khảo cổ học Việt Nam - 25 -
Phước Tân, Bến Đò và giảm dần ở các di chỉ có niên đại muộn hơn sau này mà rõ
nét nhất là Cù Lao Rùa, Dóc Chùa, Đồi Xoài, Đồi Mít…
Rìu bôn có vai tìm được ở đây có nhiều loại khác nhau: vai ngang, vai xuôi,
rộng, hẹp…Chiếm số lượng nhiều hơn cả là loại rìu bôn vai xuôi. Rìu bôn vai xuôi
tồn tại khá phổ biến ở các nền văn hoá đá mới muộn - đồng sớm. Ở Thạch Lạc,
Bàu Tró cũng có loại rìu này. Ở các đòa điểm kim khí sớm vùng Đông Nam Bộ,
loại rìu này có cấu tạo chuôi dài, vuông cạnh, mặt cắt gần vuông. Những yếu tố
này đã trở thành một đặc trưng độc đáo của vùng này. Bên cạnh đó là loại rìu bôn
có vai nhọn cũng tìm được khá nhiều trong các đòa điểm. Cuộc khai quật Bến Đò
đã tìm được 14 chiếc loại này.
Rìu bôn tứ giác ở các di chỉ vùng lưu vực sông Đồng Nai có cấu tạo khác hẳn
những hiện vật cùng loại vùng lưu vực Sông Hồng, Sông Mã.
Nếu ở vùng lưu vực Sông Hồng, Sông Mã, rìu bôn tứ giác có dạng vuông hoặc
gần vuông thì ở đây, rìu bôn tứ giác lại có dạng hình thang rõ rệt, rìu có phần đốc
hẹp, lưỡi xoè rộng, chiều dài có khi lớn gấp 2 hay gấp 3 lần chiều rộng. Có loại rìu
đốc thu hẹp gần như nhọn tạo cho rìu có dáng gần như hình tam giác, loại rìu này
hình như mới chỉ thấy ở các đòa điểm có niên đại sớm và được coi như một đặc
trưng cho công cụ đá giai đoạn này với các đòa điểm Cầu Sắt và muộn hơn, ở Bến
Đò, Phước Tân, Hội Sơn…


Nhờ tải bản gốc
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status