báo cáo thực tiễn và xu hướng cải cách tài chính tiền tệ ở việt nam - Pdf 23

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
CAO HỌC K20 - LỚP ĐÊM 7
THỰC TIỄN
VÀ XU HƯỚNG CẢI CÁCH
TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn:
TS. Diệp Gia Luật
Nhóm thực hiện:
Họ và tên Ngày sinh Ngành
1. Phan Văn Cương_ nhóm trưởng 27/11/1979 Thương mại
2. Huỳnh Thế Cường 04/9/1981 Tài chính nhà nước
3. Huỳnh Minh Đức 10/01/1975 Kinh tế phát triển
4. Phạm Văn Đức 13/6/1981 Thương mại
5. Nguyễn Thị Thanh Giang 16/7/1985 Thương mại
6. Nguyễn Trọng Hiếu 11/6/1983 Thương mại
7. Thái Thị Lanh 06/6/1985 Thương mại
8. Phạm Gia Lộc 22/11/1986 Thương mại
9. Huỳnh Tấn Tài 09/8/1968 Thương mại
10. Nguyễn Thị Phương Thảo 25/5/1981 Thương mại
(Tháng 03 năm 2011)
MỤC LỤC
CHƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT
TIẾN HÀNH CẢI CÁCH TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
1. Khái quát về tài chính công và thị trường tài chính 4
1.1. Tài chính công 4
1.2. Thị trường tài chính 5
2. Sự cần thiết tiến hành cải cách tài chính - tiền tệ ở Việt Nam 7
2.1. Tài chính công 7
2.2. Thị trường tài chính 7
CHƯƠNG II

có ý nghĩa rất quan trọng. Việc cải cách đang được Đảng và Chính phủ tiến hành trên cả 2
ĩnh vực là tài chính công và tài chính tư (thị trường tài chính) nhằm huy động nguồn lực
cho phát triển kinh tế một cách hiệu quả, sử dụng ngân sách để điều tiết các nguồn thu -
chi trong xã hội một cách hợp lý, tiến tới việc xây dựng thị trường tài chính Việt Nam theo
chuẩn mực của khu vực và thế giới.
Bên cạnh những thành công đạt được, quá trình cải cách cũng gặp nhiều khó khăn,
thách thức, đòi hỏi phải có những cải cách tiếp tục trong thời gian tới. Do đó, tiểu luận này
sẽ tập trung trình bày thực tiễn cải cách tài chính - tiền tệ ở nước ta và xu hướng trong thời
gian tới.
Với mục tiêu trên, kết cấu của tiểu luận sẽ gồm 3 chương:
Chương 1: Sự cần thiết tiến hành cải cách tài chính - tiền tệ ở Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn tài chính - tiền tệ ở Việt Nam
Chương 3: Xu hướng cải cách tài chính - tiền tệ ở Việt Nam
Cuối cùng, nhóm chân thành cảm ơn TS. Diệp Gia Luật cùng toàn thể học viên Lớp
đêm 7 đã góp ý để tiểu luận của nhóm chúng tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
4
CHƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT
TIẾN HÀNH CẢI CÁCH TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
1. Khái quát về tài chính công và thị trường tài chính
1.1. Tài chính công
Tài chính công là một phạm trù gắn với các hoạt động thu và chi bằng tiền của nhà
nước, phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong quá trình hình
thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước nhằm phục vụ việc thực hiện những chức
năng vốn có của nhà nước đối với xã hội (không vì mục tiêu lợi nhuận).
Nội dung của tài chính công bao gồm: ngân sách nhà nước từ trung ương đến địa
phương; dự trữ nhà nước; tín dụng nhà nước; ngân hàng nhà nước; tài chính của các cơ
quan hành chính nhà nước; tài chính của các đơn vị sự nghiệp nhà nước; các quỹ tài chính
nhà nước (đối với nước ta). Trong đó, ngân sách nhà nước được xem là bộ phận quan
trọng nhất, chi phối đến các thành tố khác. Trong phạm vi bài viết này, xin đề cập đến 3

đích gì đều làm nảy sinh một số vấn đề trong việc phân bổ nguồn ngân sách. Thông
thường thì các giao dịch thực hiện từ các quỹ này không được phân loại theo các tiêu chí
như các khoản chi ngân sách, từ đó làm ảnh hưởng đến tính đầy đủ, chính xác của việc
phân tích các chương trình chi tiêu của Chính phủ. Hơn nữa, sự hiện diện của quá nhiều
các loại quỹ tài chính nhà nước trong nền kinh tế sẽ làm cho nguồn lực tài chính nhà nước
bị phân tán, tính minh bạch của ngân sách vì thế cũng sẽ bị hạn chế.
• Tài chính các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp: các cơ quan hành chính, đơn
vị sự nghiệp thuộc bộ máy nhà nước là những đơn vị có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ
công cho xã hội. Nguồn tài chính cho các đơn vị này hoạt động chủ yếu dựa vào những
khoản cấp phát theo chế độ từ ngân sách nhà nước. Ngoài ra, còn một số khoản thu khác
có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, các khoản thu do đơn vị tự khai thác, hoặc từ quyên
góp, tặng, biếu không phải nộp ngân sách nhà nước.
Giữa ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước và tài chính các cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó ngân sách nhà nước
có vai trò quan trọng và chi phối các thành tố khác. Một bộ phận rất lớn của chi ngân sách
nhà nước được các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp sử dụng trực tiếp, do đó, hiệu
quả tài chính của các khu vực này có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả chi ngân sách nhà
nước. Ngược lại, quy mô và hiệu quả của ngân sách nhà nước cũng sẽ quyết định, chi phối
tiềm lực và hiệu quả tài chính các đơn vị hành chính, sự nghiệp.
Quản lý tài chính công được thực hiện theo 4 nguyên tắc cơ bản sau:
• Nguyên tắc hiệu quả: là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong quản lý tài chính
công. Hiệu quả thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội. Hiệu quả xã
hội và hiệu quả kinh tế là 2 nội dung quan trọng phải được xem xét đồng thời khi hình
thành một quyết định hay một chính sách chi tiêu ngân sách.
• Nguyên tắc thống nhất: thống nhất quản lý bằng pháp luật là nguyên tắc không thể
bỏ qua trong quản lý tài chính công. Thực hiện nguyên tắc này sẽ đảm bảo tính bình đẳng,
công bằng, hiệu quả, hạn chế những tiêu cực, nhất là những rủi ro có tính chất chủ quan
khi quyết định các khoản chi tiêu.
• Nguyên tắc tập trung dân chủ: tập trung dân chủ đảm bảo cho các nguồn lực của xã
hội được sử dụng tập trung và phân phối hợp lý. Các khoản đóng góp của dân thực sự phải

vào chứng khoán. Như vậy, thu nhập của tổ chức này có được từ 2 nguồn: thu nhập từ tiền
lãi cho vay và đầu tư chứng khoán, thu nhập từ các khoản phí dịch vụ.
- Các tổ chức không nhận ký gửi bao gồm các tổ chức như: công ty bảo hiểm, quỹ
hưu trí, quỹ đầu tư.
- Nhà đầu tư là những người sẵn sàng bỏ vốn ra để đầu tư cho các dự án. Họ là thành
phần đầu vào tạo ra nguồn vốn cho các doanh nghiệp. Họ là những người gửi tiết kiệm
ngân hàng, mua cổ phiếu, trái phiếu.
• Vai trò của thị trường tài chính
Thứ nhất, hình thành giá các tài sản tài chính. Thông qua tác động qua lại giữa những
người mua và những người bán, giá của tài sản tài chính (chứng khoán) được xác định,
hay nói cách khác, lợi tức cần phải có trên một tài sản tài chính được xác định.
Thứ hai, cung cấp một cơ chế để cho các nhà đầu tư bán tài sản tài chính. Với đặc tính
này, thị trường tài chính tạo ra tính thanh khoản. Thiếu tính thanh khoản, các nhà đầu tư
phải nắm giữ tài sản tài chính cho đến khi nào đáo hạn, hoặc đối với cổ phiếu cho khi nào
công ty tự nguyện thu hồi hoặc nếu không tự nguyện thì phải chờ thanh lý tài sản. Mặc dù
tất cả các thị trường tài chính đều có tính thanh khoản, nhưng mức độ thanh khoản giữa
chúng là khác nhau.
Thứ ba, giảm bớt chi phí tìm kiếm và chi phí thông tin. Để các giao dịch có thể được
diễn ra thì những người mua và người bán phải tìm được nhau. Họ phải mất rất nhiều tiền
và thời gian cho việc tìm kiếm này, ảnh hưởng đến lợi nhuận kỳ vọng của họ. Chi phí đó
là chi phí tìm kiếm. Bên cạnh, để tiến hành đầu tư họ cần có các thông tin về giá trị đầu tư
như khối lượng và tính chắc chắn của dòng tiền kỳ vọng. Thị trường tài chính nhờ có tính
trung lập này - là nơi để người mua, người bán đến đó tìm gặp nhau, là nơi cung cấp các
thông tin một cách công khai và đầy đủ - nên có khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch
lớn, vì thế nó cho phép giảm đến mức thấp nhất những khoản chi phí trên.
Thị trường tài chính phát triển cùng với trình độ phát triển của nền kinh tế, đi từ đơn
giản đến phức tạp. Ở trình độ phát triển ngày càng cao, thị trường tài chính ngày càng có
nhiều loại trung gian tài chính tham gia. Các trung gian tài chính ngày càng tạo ra nhiều
7
loại sản phẩm tài chính đa dạng, đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu của các bên tham gia

động xử lý các công việc ở địa phương; phân biệt cơ quan hành chính công quyền với tổ
chức sự nghiệp, dịch vụ công; đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách, chuyển từ cấp kinh phí
theo biên chế sang cấp kinh phí căn cứ vào kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào
kiểm soát đầu ra, tăng quyền chủ động của đơn vị sử dụng ngân sách
Những kết quả bước đầu của cải cách tài chính công ở Việt Nam thời gian gần đây đòi
hỏi phải tiếp tục cải cách mạnh mẽ hơn nữa trong giai đoạn tới.
2.2. Thị trường tài chính
Cấu trúc của thị trường tài chính còn chưa thật phù hợp với yêu cầu phát triển của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo thể chế kinh tế này, nền kinh tế tồn
tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp. Mỗi thành phần kinh tế và loại
hình doanh nghiệp đều có nhu cầu về dịch vụ tài chính cũng như nguồn vốn phù hợp với
mức độ phát triển của thành phần kinh tế đó. Do vậy, cấu trúc của thị trường tài chính đòi
8
hỏi phải có những định chế tài chính tương thích đáp ứng nhu cầu đa dạng của các thành
phần kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế dịch vụ tài chính ngân hàng và sự phân bổ nguồn vốn
ngân hàng hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu cho các thành phần kinh tế đa dạng này,
làm hạn chế khả năng vận hành có hiệu quả của thị trường tài chính.
Hệ thống chính sách, cơ sở phát lý cho hoạt động của thị trường chưa đầy đủ, các quy
định điều tiết thị trường chưa hoàn chỉnh, đồng bộ. Khả năng của ngân hàng nhà nước còn
hạn chế trong điều tiết, can thiệp thị trường một cách chủ động, linh hoạt. Thị trường thiếu
hệ thống giám sát rủi ro và cảnh báo sớm; chưa hình thành được hệ thống chỉ tiêu chuẩn
để phản ánh tình trạng thị trường và định hướng kỳ vọng cho các thành viên, đặc biệt chưa
có được đường cong lãi suất chuẩn. Hoạt động thị trường liên ngân hàng còn đơn điệu,
chủ yếu là các giao dịch tiền gửi và tín dụng truyền thống, các nghiệp vụ phái sinh tiền gửi
và đầu tư liên ngân hàng chưa được triển khai (đầu thầu tiền gửi, giao dịch kỳ hạn vốn…).
Thị trường còn tiểm ẩn những rủi ro về mất cân đối kỳ hạn, năng lực kiểm soát rủi ro tín
dụng, rủi ro thanh khoản và rủi ro thị trường của các tổ chức tín dụng còn yếu. Nhiều tổ
chức tín dụng chưa có khả năng kiểm soát và quản lý vốn tập trung toàn hệ thống, chưa
thiết lập lên bộ phận kinh doanh vốn, hệ thống quản lý rủi ro độc lập và năng lực tài chính
của các tổ chức tín dụng còn nhiều yếu kém.

về Việt Nam. Ngoài ra, với việc phải cắt giảm thuế nhập khẩu, chúng ta cũng chuyển hình
thức bảo hộ thuế quan sang hình thức bảo hộ phi thuế quan đối với các ngành công nghiệp
non trẻ trước sức ép của hàng ngoại. Đối với thuế xuất khẩu, chúng ta vẫn đang tiến hành
cải cách theo hướng giảm thuế xuất khẩu cho các mặt hàng có hàm lượng chế biến cao và
tăng thuế đối với nguyên liệu thô hoặc các sản phẩm chưa qua chế biến (gỗ, khoáng
sản…)
• Thuế thu nhập
Đổi mới các chính sách về thuế thu nhập đóng vai trò quan trọng trong xu hướng cải
cách lĩnh vực thuế. Tỷ trọng đóng góp của thuế trực thu vào ngân sách nhà nước tăng qua
các năm và đây sẽ là nguồn thu chủ yếu trong những năm tới theo định hướng của Nhà
nước. Đây chính là xu hướng phù hợp với các nước phát triển trên thế giới. Trong các loại
thuế trực thu thì thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp là 2 loại thuế chính.
o Thuế thu nhập cá nhân
Hòa cùng xu hướng phát triển chung của các nước phát triển về các chính sách thuế,
Chính phủ đã ban hành Nghị định 147/2004/NĐ-CP quy định chi tiết về việc thực hành
pháp lệnh thuế đối với người có thu nhập cao. Trên cơ sở đó, Quốc hội đã ban hành luật số
04/2007/QH12 về thuế thu nhập cá nhân. Có thể thấy rõ những đổi mới trong luật thuế thu
nhập cá nhân như quy định rõ ràng thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường
xuyên. Thu nhập chịu thuế của các cá nhân được mở rộng ra bao gồm các thu nhập về
chuyển nhượng bất động sản, chuyển nhượng vốn, thu nhập từ lãi cho vay…
10
Một đổi mới quan trọng trong luật thuế thu nhập cá nhân đó là việc giảm mức thuế suất
(mức thuế suất thấp nhất giảm xuống còn 5% và mức thuế suất cao nhất giảm xuống còn
35%). Biểu thuế suất mới của luật thuế thu nhập cá nhân đảm bảo công bằng hơn trong
việc điều tiết thu nhập do chênh lệch về thuế suất giữa các bậc thuế giảm đi. Mặt khác,
việc hạ mức thuế suất cao nhất (từ 40% xuống còn 35%) càng khuyến khích người lao
động sản xuất kinh doanh và làm giàu chính đáng. Tuy nhiên, Luật thuế thu nhập cá nhân
mới vẫn còn bộc lộ một số khuyết điểm, như quy định các khoản giảm trừ gia cảnh chưa
được hợp lý, chưa tính đến mặt bằng thu nhập chung của các địa phương.
o Thuế thu nhập doanh nghiệp

việc bồi dưỡng cho các cán bộ ngành thuế am hiểu về chuyên môn nghiệp vụ cũng như
thái độ khi tiếp cá nhân và các doanh nghiệp. Ngoài ra, việc tuyên truyền các chính sách
thuế cho cá nhân và doanh nghiệp cũng đang được triển khai một cách thành công.
1.1.2. Chi ngân sách nhà nước
• Giai đoạn 1991 - 1995
11
Trong giai đoạn này, chi đúng đối tượng, có hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội được đặt ra. Nhờ những giải pháp trên, số thâm hụt ngân sách nhà nước đã giảm dần
qua từng năm và được bù đắp bằng vay trong nước và vay nước ngoài. Trong giai đoạn
1991 - 1995, tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so với GDP chỉ ở mức 1,4% đến 4,17%
(1991: 1,4%, 1992:1,5%, 1993: 3,9%, 1994: 2,2% và năm 1995 là 4,17%). Như vậy, có
thể thấy bội chi ngân sách nhà nước trong những năm 1991 - 1995 là rất thấp, thể hiện
chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính phủ.
• Giai đoạn 1996 - 2000
Tình hình thu - chi ngân sách nhà nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, thu không
những đủ chi thường xuyên mà còn cho đầu tư phát triển, thâm hụt ngân sách nhà nước
được khống chế ở mức thấp. Tuy nhiên, giai đoạn 1996 - 2000, do tác động của khủng
hoảng tài chính ở các nước Đông Nam Á nên nền kinh tế có gặp không ít khó khăn. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế giảm dần từ năm 1996 đến năm 1999 và đến năm 2000 mới tăng
lên chút ít, chặn đứng đà giảm sút. Trong những năm này, tỷ lệ bội chi ngân sách nhà
nước ở mức từ 3,0% GDP năm 1996 lên 4,95% GDP năm 2000 (năm 1996: 3%, năm
1997: 4,05%, năm 1998: 2,49%, năm 1999: 4,37%, năm 2000: 4,95%). Tỷ lệ bội chi bình
quân 5 năm là 3,87% GDP, cao hơn mức bình quân năm 1991 - 1995 (2,63%). Năm 2000
có mức bội chi cao nhất là 4,95% GDP và năm 1998 có mức bội chi thấp nhất là 2,49%.
Đây là thời kỳ suy thoái và thiểu phát, nên mức bội chi ngân sách nhà nước như trên
không tác động gây ra lạm phát mà có tác động làm cho nền kinh tế chuyển sang giai đoạn
đi lên.
• Giai đoạn 2001 - 2007
Giai đoạn 2001 - 2007, ngân sách nhà nước cũng đã có chuyển biến đáng kể. Tốc độ
tăng thu hằng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ tăng chi bình quân hằng năm đạt 18,5%.

Quỹ bảo hiểm xã hội là một quỹ tài chính độc lập được hình thành trên cơ sở đóng góp
của người lao động, người sử dụng lao động và có sự hỗ trợ một phần của Nhà nước. Với
mức đóng góp 5% của người lao động và 15% của người sử dụng lao động theo Điều lệ
bảo hiểm xã hội đã làm cho quỹ bảo hiểm xã hội hình thành trên thực tế và trở thành quỹ
tài chính độc lập với ngân sách nhà nước. Như vậy, các quan hệ tài chính trong bảo hiểm
xã hội đã được thể hiện rõ ràng các nguồn thu và các khoản chi bảo hiểm xã hội đã được
cân đối một cách tổng thể. Sự đóng góp bảo hiểm xã hội của các bên còn thể hiện quyền
lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ trong bảo hiểm xã hội.
Việc tổ chức bảo hiểm xã hội được tập trung thống nhất và phân định rõ chức năng của
cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội và cơ quan quản lý sự nghiệp bảo hiểm xã
hội. Sự quản lý quỹ bảo hiểm xã hội tập trung thống nhất đã tạo điều kiện để các doanh
nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với người lao động, nâng cao trách nhiệm đảm
bảo quyền lợi cho người lao động của cơ quan bảo hiểm xã hội và nâng cao hiệu quả quản
lý Nhà nước về bảo hiểm xã hội của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Việc thực hiện các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội theo cơ chế mới dựa trên nguyên
tắc có đóng bảo hiểm xã hội mới được hưởng các quyền lợi về bảo hiểm xã hội. Nguyên
tắc này đã làm thay đổi một cách cơ bản nhận thức của hàng triệu lao động và người sử
dụng lao động trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, làm cho chính sách
bảo hiểm xã hội của Đảng và Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống, bảo đảm sự công bằng
những người lao động và người sử dụng lao động về nghĩa vụ bảo hiểm xã hội.
1.3. Tài chính ở các đơn vị hành chính, đơn vị sự nghiệp
1.3.1. Các đơn vị hành chính, sự nghiệp
Do định mức, chế độ chi tiêu lạc hậu, thiếu cụ thể, không đồng bộ; cơ chế quản lý biên
chế, quản lý kinh phí còn bất cập chưa tạo động lực khuyến khích sử dụng tiết kiệm, hiệu
quả, dẫn đến tình trạng lãng phí khá phổ biến.
1.3.2. Khối doanh nghiệp nhà nước
Tính đến đầu năm 2009, cả nước đã thực hiện sắp xếp được 5.556 doanh nghiệp và 8
tổng công ty nhà nước, trong đó cổ phần hóa được 3.854 doanh nghiệp và bộ phận doanh
nghiệp, giao 196 doanh nghiệp, bán 155 doanh nghiệp, khoán và cho thuê 30 doanh
nghiệp, sáp nhập 531 doanh nghiệp, còn lại các hình thức khác là 790 doanh nghiệp.

• Về chi ngân sách nhà nước
Ngân sách này đã được cơ cấu lại theo hướng giảm các khoản chi bao cấp, tăng dần tỷ
lệ chi cho đầu tư phát triển, tập trung ưu tiên chi cho những nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội quan trọng và giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc. Công tác quản lý và phân
cấp ngân sách đã có những đổi mới cơ bản, nâng cao quyền chủ động và trách nhiệm của
các đơn vị, các địa phương và các ngành sử dụng ngân sách; giảm được nhiều khâu, thủ
tục không cần thiết trong cấp phát ngân sách, tập trung vào công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát tài chính. Bội chi ngân sách nhà nước được xử lý theo hướng tích cực và được
kiềm chế trong giới hạn cho phép. Giải quyết thành công cơ cấu lại nợ nước ngoài, tỷ lệ
nợ nước ngoài được khống chế ở mức an toàn theo thông lệ quốc tế, tạo điều kiện giữ
vững an ninh tài chính quốc gia. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính bước đầu đã thu
được kết quả tích cực.
• Về các quỹ tài chính nhà nước
Nhìn chung, chính sách bảo hiểm xã hội hiện hành đã góp phần tích cực vào việc làm
lành mạnh hóa thị trường lao động ở nước ta, góp phần thực hiện bình đẳng xã hội và ổn
định xã hội.
Bảo hiểm y tế được triển khai ở nước ta đến nay được 12 năm. Mặc dù những năm đầu
còn gặp rất nhiều khó khăn, song từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 58/1998/NĐ-
CP kèm theo Điều lệ bảo hiểm y tế mới, công tác quản lý và tổ chức thực hiện chính sách
bảo hiểm y tế từ trung ương đến các địa phương đã đi vào nền nếp.
14
Bảo hiểm y tế với bản chất nhân văn, có tính cộng đồng cao đã đáp ứng được nhu cầu
khám chữa bệnh cho người dân. Số người tham gia bảo hiểm y tế liên tục tăng qua các
năm, kể cả dạng bắt buộc và tự nguyện. Nếu như năm 1993 (năm đầu triển khai bảo hiểm
y tế) chỉ có 3,8 triệu người tham gia, số thu đạt 111 tỷ đồng, thì đến năm 2003, số người
tham gia đã lên tới 16,8 triệu người, chiếm 21% dân số cả nước.
• Đối với các đơn vị hành chính, sự nghiệp
Trên cơ sở phân định rõ các đơn vị hành chính với đơn vị sự nghiệp, tiến hành áp dụng
cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan hành chính, Nhà nước đã ban hành Nghị định số
130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử

quyết định kinh doanh vào thị trường Việt nam. Thêm vào đó, do hạn chế trong nhận thức
về vai trò của tài chính và thị trường vốn trong việc mở đường, thúc đẩy sự phát triển kinh
tế xã hội nên tư duy trong hoạch định chính sách tài chính và phát triển thị trường tài
chính chậm đổi mới, thiếu tính đột phá trong hoạch định chính sách.
Vẫn còn duy trì phương thức quản lý truyền thống hay còn gọi là quản lý ngân sách
theo các khoản mục đầu vào vốn dĩ đã bộc lộ nhiều yếu kém, đó là: không chú trọng các
đầu ra và kết quả trong thực hiện mục tiêu chiến lược ưu tiên của quốc gia; không khuyến
15
khích các đơn vị tiết kiệm ngân sách, đầu tư dàn trải, nguồn tài trợ cho những kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội không được quan tâm đúng mức dẫn đến sự hụt hẫng về tài
chính, nhiều công trình đang khát vốn chờ kinh phí; việc soạn lập ngân sách thiếu mối liên
kết chặt chẽ giữa kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung hạn với nguồn lực trong một
khuôn khổ kinh tế vĩ mô được dự báo nên dẫn đến các kết quả ngân sách nghèo nàn. Còn
nặng về tư duy “tài chính phục vụ sản xuất”, “tài chính bảo đảm vốn cho mọi hoạt động”
dẫn đến người có thẩm quyền quyết định đầu tư không gắn với thẩm quyền bỏ vốn, kết
quả là quyết định đầu tư vượt quá khả năng nguồn vốn đầu tư, làm cho vốn đầu tư dàn trải,
nợ xây dựng cơ bản lớn mà đầu tư thì kém hiệu quả.
Ba là, chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược phát triển các ngành kinh tế với
chiến lược tài chính, chiến lược thuế…dẫn đến có sự chấp vá không xuyên suốt trong cơ
chế hình thành chính sách; đồng thời làm cho chính sách thường xuyên thay đổi, gây mất
ổn định trong môi trường đầu tư. Mặt khác, công tác phân tích dự báo chưa được coi trọng
đúng mức khi nghiên cứu hoạch định chính sách dẫn đến phải bổ sung, sửa đổi tạo ra sự
không đồng bộ, không nhất quán.
Bốn là, tư tưởng bao cấp, tâm lý muốn được Nhà nước bảo hộ còn nặng nề. Trong
quản lý còn nặng về tư tưởng “xin - cho”, nhiều doanh nghiệp còn trông chờ vào nguồn tín
dụng ưu đãi, không muốn huy động tên thị trường vốn. Chưa thúc đẩy nhanh tiến trình sắp
xếp, chuyển đổi sở hữu và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các doanh
nghiệp nhà nước lớn, làm hạn chế sự phát triển của thị trường chứng khoán
Năm là, chưa kiên quyết trong việc chuyển nhanh các đơn vị sự nghiệp sang thực hiện
cơ chế tự chủ tài chính. Việc triển khai thực hiện cải cách hành chính song song với cải

nhau không thực hiện thông qua ngân hàng nhà nước. Các ngân hàng thỏa thuận phương
thức giao dịch, thời hạn, lãi suất cũng như điều kiện bảo đảm tiền vay dựa trên mức độ tín
nhiệm và có sự tham gia tích cực của ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên
doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Hiện nay, phần lớn các giao dịch liên ngân hàng
được thực hiện dưới các hình thức tín chấp, bảo đảm bằng số dư tiền gửi đối ứng tại ngân
hàng cho vay.
Doanh số giao dịch thị trường liên ngân hàng từ năm 2002 đến nay, theo đánh giá của
các chuyên gia ngân hàng thì doanh số giao dịch tăng khoảng 20% mỗi năm. Bên cạnh đó,
thời hạn của các giao dịch trong thời gian gần đây đã được áp dụng khá linh hoạt. Trước
đây, thời hạn giao dịch chủ yếu từ 3 đến 6 tháng, đến nay thời hạn giao dịch có thể là qua
đêm, 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng.
Môi trường pháp lý cho hoạt động của thị trường liên ngân hàng ngày càng được hoàn
thiện. Từ những cơ sở pháp lý nền tảng ban đầu, Thống đốc ngân hàng nhà nước ban hành
thêm những quyết định như: Quyết định số 114/QĐ-NĐ14 ngày 21/6/1993 ban hành quy
chế tổ chức và hoạt động của thị trường liên ngân hàng, Quyết định số 190/QĐ-NH14
ngày 06/10/1993 bổ sung, sửa đổi quy chế tổ chức và hoạt động về thị trường liên ngân
hàng, Quyết định số 189/QĐ-NH14 ngày 06/10/1993 ban hành quy chế bảo lãnh vay vốn
trên thị trường liên ngân hàng, Quyết định số 1310/2001/QĐ-NHNN ban hành quy chế
vay vốn giữa các tổ chức tín dụng…giúp cho hoạt động thị trường liên ngân hàng được cải
thiện rõ rệt, từng bước phù hợp với thông lệ của quốc tế.
• Hoạt động cho vay tái cấp vốn giữa ngân hàng nhà nước và ngân hàng
thương mại
Bên cạnh phát triển thị trường liên ngân hàng, nghiệp vụ tái cấp vốn đã được ngân
hàng nhà nước từng bước đổi mới, hoàn thiện theo hướng nâng cao hiệu quả điều tiết tiền
tệ, thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng của nền kinh tế. Tái cấp vốn của ngân
hàng nhà nước cho các ngân hàng thương mại chủ yếu được thực hiện dưới các hình thức
chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá.
Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu ngày càng được điều hành linh hoạt, phù hợp
với mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Từ năm 2003 đến nay, lãi suất tái cấp
vốn và lãi suất tái chiết khấu được điều chỉnh dần để hình thành khung lãi suất định hướng

phiên
Số phiên mua Số phiên bán
Tần suất giao
dịch
Mua
hẳn
Mua có kỳ
hạn
Bán hẳn
Bán có kỳ
hạn
2000 17 4 10 3 0 10 ngày/phiên
2001 48 3 39 5 1 1 tuần/phiên
2002 85 1 58 26 0 1 tuần/2 phiên
2003 107 0 52 55 0 1 tuần/2 phiên
2004 123 0 109 0 14 1 tuần/3 phiên
2005 158 0 150 6 2 1 tuần/3 phiên
2006 155 148 7 1 tuần/5 phiên
2007 165 153 7 5 1 tuần/5 phiên
Tổng số 858 8 719 109 22
Chủng loại giấy tờ có giá được giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở cũng được mở
rộng (năm 2004, ngân hàng nhà nước cho phép trái phiếu công trình trung ương được sử
dụng trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở).
• Thị trường ngoại hối
Quy chế hoạt động giao dịch hối đoái được ban hành nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các
hoạt động kinh doanh hối đoái, đa dạng hoá các loại hình giao dịch trên thị trường; tạo các
công cụ phòng ngừa rủi ro trước những biến động của tỷ giá và lãi suất trên thị trường
trong tương lại; giúp cho các nhà xuất khẩu, nhập khẩu, các đơn vị kinh tế chủ động trong
kinh doanh; thúc đẩy và phát triển các giao dịch hối đoái để góp phần hoàn thiện thị
trường hối đoái ở Việt Nam.

Số lượng công ty chứng
khoán
3 8 9 11 13 14
Số tài khoản khách hàng 2.908 8.774 13.520 15.735 21.616 31.316
.
Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự quan tâm
đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động xã
hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống
của người dân. Tính đến hết năm 2005, tổng giá trị thị trường chứng khoán Việt Nam đạt
gần 40.000 tỷ đồng, chiếm 0,69% tổng thu nhập GDP.
• Giai đoạn 2006 - giữa năm 2007 chứng kiến sự phát triển đột phá của thị
trường chứng khoán. Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006, thị
trường chứng khoán Việt Nam trở thành “điểm” có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ hai thế
giới, chỉ sau Zimbabwe. Sự bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày càng hấp dẫn
các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỷ USD cuối năm 2006
chiếm 22,7% GDP. Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên đến
193 công ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn mười vạn, gấp 3 lần năm 2005.
19
• Giai đoạn cuối năm 2007 - 2010 thị trường chứng khoán Việt Nam sụt giảm
cùng trong xu thế nền kinh tế. Trong năm 2007 - 2008, khi dòng vốn nước ngoài gia tăng,
nhất là dòng vốn đầu tư gián tiếp đã thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, thị trường
tín dụng tăng quá mức cùng với các yếu tố tác động bất lợi khác của thị trường tài chính
quốc tế đã gây áp lực tăng lạm phát, tăng thâm hụt thương mại, qua đó gây hoang mang
với nhà đầu tư nước ngoài, từ đó tác động làm suy giảm thị trường chứng khoán. Cùng với
sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 và 2009 ảnh hưởng mạnh đến thị trường chứng
khoán Việt Nam. Lợi nhuận các công ty năm 2008 giảm đến 30%. Năm 2009, thị trường
chứng khoán Việt Nam là thị trường tăng trưởng tệ nhất châu Á. Tổng giá trị vốn hóa thị
trường rơi xuống mức khoảng 10 tỷ. Trong bối cảnh đó, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
đã can thiệp bằng các biện pháp mạnh tay (thay đổi 4 lần biên độ giao động), tái cấu trúc
vốn doanh nghiệp.

mạnh.
o Về khung pháp lý, thể chế chính sách
20
Luật Chứng khoán được Quốc hội ban hành ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành kể
từ ngày 01/01/2007, đã tạo lập được khuôn khổ pháp lý cao, đồng bộ và thống nhất cho
hoạt động của thị trường chứng khoán, từng bước loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột với
các văn bản pháp luật khác.
o Về quy mô và hàng hóa của thị trường
Quy mô thị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng vai trò
là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước. Trong suốt thời kỳ 2000 - 2005, vốn hóa thị trường chỉ đạt
trên dưới 1% GDP. Quy mô thị trường đã có bước nhảy vọt mạnh mẽ lên 22,7% GDP vào
năm 2006 và tiếp tục tăng lên mức trên 43% vào năm 2007. Giá trị vốn hóa thị trường cổ
phiếu tính đến cuối năm 2009 đã đạt 37,71% GDP. Ước tính đến cuối năm 2010 sẽ đạt
khoảng từ 40 - 50% GDP.
Việc gắn kết công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước với công tác tạo hàng cho
thị trường chứng khoán là nhân tố chủ đạo quyết định thành công trong việc tạo ra một
nguồn hàng phong phú, góp phần thúc đẩy tăng trưởng quy mô của thị trường.
Hoạt động phát hành trái phiếu qua Sở giao dịch chứng khoán dần trở thành một kênh
huy động vốn quan trọng cho Chính phủ. Dư nợ trái phiếu Chính phủ tính đến cuối 2009
vào khoảng 16,9% GDP. Các trái phiếu doanh nghiệp được phát hành chủ yếu theo hình
thức phát hành riêng lẻ, do vậy, số trái phiếu doanh nghiệp được niêm yết không nhiều.
o Về hệ thống cơ sở nhà đầu tư
Từ khoảng gần 3.000 tài khoản nhà đầu tư tham gia khi mới mở cửa thị trường vào
năm 2000, tính đến nay đã có trên 90.000 tài khoản giao dịch, trong đó số nhà đầu tư tổ
chức trong nước là 2.662, số nhà đầu tư cá nhân trong nước là 807.558, số nhà đầu tư
nước ngoài là hơn 13.000 nhà đầu tư.
o Về hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán
Hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán phát triển nhanh về quy mô và
năng lực nghiệp vụ, với hệ thống mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch trải khắp các tỉnh,

thị trường khá mờ nhạt.
o Nghiệp vụ thị trường mở
Mặc dù về quy định là kỳ hạn giao dịch đã được đa dạng hoá từ 7 ngày đến 182 ngày
nhưng trên thực tế, ngân hàng nhà nước thường chỉ giao dịch với các kỳ hạn từ 7 - 30
ngày, dẫn đến các khoản thanh toán với ngân hàng nhà nước đến hạn dồn dập trong một
thời gian ngắn và tăng gánh nặng thanh toán cho các ngân hàng thương mại.
Tốc độ và chất lượng đường truyền kết nối qua mạng giữa ngân hàng nhà nước và các
thành viên còn chậm và đôi lúc bị ngắt quãng, nhất là khi nhiều thành viên đồng thời giao
dịch với ngân hàng nhà nước. Những hạn chế do cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đã ảnh
hưởng đến tốc độ giao dịch trên thị trường mở.
Bên cạnh đó, các ngân hàng khi muốn lưu ký giấy tờ có giá để tham gia các giao dịch
với ngân hàng nhà nước đều phải đến trực tiếp Sở giao dịch ngân hàng nhà nước để hoàn
thành các thủ tục. Ngân hàng nhà nước chưa cho phép đăng ký lưu ký giấy tờ có giá thông
qua website.
o Thị trường ngoại hối
Nguồn cung ngoại tệ vẫn còn thiếu hụt. Mức dự trữ ngoại tệ chưa đáp ứng hiệu quả
nhu cầu ngoại tệ trong nước. Điều này tạo tâm lý khan hiếm ngoại tệ đối với người dân,
các tổ chức kinh tế trong nước, làm tạo áp lực làm tăng tỷ giá, ảnh hưởng không nhỏ đến
xuất nhập khẩu trong nước.
Các nghiệp vụ phái sinh vẫn còn sơ khai, kém phát triển thể hiện ở doanh số giao dịch
thấp. Chính vì vậy, việc ứng dụng các công cụ phái sinh nhằm bảo hiểm rủi ro tỷ giá tại
Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn
Sự thiếu hụt ngoại tệ còn kéo theo những hệ lụy ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường
ngoại hối Việt Nam. Cụ thể đó chính là sự ra đời của thị trường ngoại tệ chợ đen. Chênh
lệch tỷ giá giữa thị trường chợ đen rất lớn so với tỷ giá chính thức cao. Điều đó gây ra
quan ngại lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài có ý định đầu tư vào Việt Nam.
• Thị trường vốn
Hàng hóa chưa đa dạng; tính minh bạch công khai còn hạn chế, số lượng nhà đầu tư
chuyên nghiệp không nhiều. Bên cạnh đó, công tác quản lý giám sát thị trường, điều hành
22

- Trình độ, năng lực của đội ngũ quản trị của các tổ chức tín dụng, công ty chứng
khoán tham gia thị trường đã được nâng cao nhưng vẫn chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu thị
trường.
23
CHƯƠNG III
XU HƯỚNG CẢI CÁCH TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
1. Định hướng của Đảng và Chính phủ
Kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu to lớn, làm thay
đổi rõ rệt tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi tình trạng khủng hoảng, hoạt động ngày càng
năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội ngày càng nhiều, hàng hóa ngày càng phong
phú. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đất nước chẳng những giữ vững được
ổn định chính trị mà còn từng bước phát triển kinh tế đi lên, hòa nhập vào nền kinh tế của
thế giới: đánh dấu Việt Nam là thành viên của tổ chức APEC, ngày 07/11/2006, Việt nam
trở thành thành viên thứ 150 của WTO ; GDP tăng bình quân 7% /năm; nông nghiệp phát
triển liên tục, đặc biệt là về sản xuất lương thực, nuôi trồng và khai thác thủy sản; giá trị
sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm; hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường; các
ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu phát triển; quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế
quốc tế không ngừng được mở rộng…
Tuy nhiên, trước sức ép về phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập với nền kinh tế
thế giới nhưng vẫn hướng nền kinh tế Việt Nam theo đúng chủ trương đường lối chính
sách của Đảng đã đề ra; nhu cầu xã hội về nâng cao chất lượng hàng hoá công thì việc cải
cách tài chính công là một yêu cầu cấp thiết. Trong đó đáng kể nhất là việc xác định thuế
là nguồn thu ngân sách nhà nước chủ yếu thay cho dầu thô, cải cách hành chính trong các
lĩnh vực công, xác lập lại khu vực công cạnh tranh với khu vực tư, tiếp tục quá trình cổ
phần hóa các doanh ngiệp nhà nước, phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực tài chính
công, giảm bất bình đẳng trong xã hội.
2. Xu hướng cải cách
2.1. Tài chính công
2.1.1. Xác lập lại khu vực công, hình thành khu vực công cạnh tranh với khu

công việc đi đôi với việc cải cách các thủ tục hành chính về thuế. Chống chuyển giá đối
với các công ty đa quốc gia nhằm truy thu nguồn thuế bị thất thu. Xử phạt các vi phạm
hành chính về thuế theo hướng tăng lên cũng như xử lý vấn đề tham nhũng trong ngành
thuế.
2.2.3. Chuyển từ phương thức soạn thảo ngân sách theo đầu vào sang phương
thức soạn thảo ngân sách theo đầu ra.
Phân cấp rõ ràng về quản lý ngân sách, đảm bảo cho các cấp chính quyền địa phương
có sự chủ động lớn hơn về nguồn thu và thẩm quyển quyết định chi ngân sách, trên cơ sở
đó chủ động bố trí và thực hiện kế hoạch hoạt động quản lý nhà nước và công tác chuyên
môn tại địa phương mình.
Thực hiện nguyên tắc ngân sách của Bộ, ngành, địa phương nào vay, tạm ứng thì ngân
sách của Bộ, ngành, địa phương đó phải bố trí nguồn để trả, ngân sách trung ương không
bố trí nguồn để trả thay. Khắc phục tình trạng tạm ứng vốn quá lớn, thời gian tạm ứng vốn
quá dài hoặc không quy định cụ thể thời gian phải hoàn trả, nhất là đối với các khoản tạm
ứng ngân sách năm sau: kế hoạch năm 2011 sẽ phát hành 45.000 tỷ đồng vốn trái phiếu
Chính phủ để đầu tư các dự án, công trình trong danh mục do Uỷ ban thường vụ Quốc hội
quyết định. Các địa phương tích cực khai thác, sử dụng nguồn vốn ngân sách địa phương
và các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật để thực hiện các dự án, công trình
được trung ương hỗ trợ bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Không bố trí vốn cho các
dự án, công trình không đúng đối tượng, không đủ thủ tục đầu tư, không thật sự cấp bách,
không hiệu quả; bố trí vốn tập trung, nhất là các dự án có khả năng hoàn thành trong năm
2011 - 2012.
Việc phân cấp từng cấp chính quyền có nguồn thu độc lập tương đối khi đó mỗi cấp sẽ
tích cực và chủ động hơn trong việc bồi dưỡng và khai thác nguồn thu. Khoản thu độc lập,
có tính ổn định cao sẽ giúp chính quyền địa phương chủ động bố trí các khoản chi tiêu cố
định của mình, không bị lệ thuộc vào cấp trên vào trung ương.
Tăng cường quản lý chu trình ngân sách với mục tiêu giúp cho các cơ quan, đơn vị
thực hiện hài hoà giữa kế hoạch hoạt động với kế hoạch tài chính; từ đó có đầy đủ và kịp
thời các nguồn lực tài chính để chủ động thực thi nhiệm vụ đó. Cần linh động, đổi mới các
hoạt động từ lập dự toán ngân sách cho đến chấp hành và quyết toán ngân sách có tính


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status