Báo cáo KH "XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH VÀ KHUYỀN NGHỊ CHO VIỆT NAM" - Pdf 23

BỘ GIÁO DỤC VÀ
Đ
ÀO

TẠO
TRƯỜNG
Đ
ẠI
HỌC KINH TẾ
TP.HCM
==
==
==
==
0==
0==
=
=
=
=
CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
“NHÀ KINH TẾ TRẺ – NĂM 2009”
TÊN CÔNG TRÌNH:
XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẢNH
BÁO
KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH
VÀ KHUYỀN NGHỊ CHO VIỆT
NAM
THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ

Khủng hoảng kép thế hệ thứ nhất....................................................................................
.5
Khủng hoảng kép thế hệ thứ hai.....................................................................................
..8
1.1.5 Nguyên nhân của khủng hoảng tài chính…………………........................ ...........
.10
1.2.Các mô hình cảnh báo khủng hoảng ................................................................................
12
1.3.1.Mô hình Probit ...........................................................................................................
12
1.3.2.Mô hình Neuro Nuzzy ...............................................................................................
13
Mờ hóa .............................................................................................................. ..........
13
Suy luận ............................................................................................................ ...........
15
Khở mờ ............................................................................................................. ...........
15
1.3.3.Mô hình Signal Approach..........................................................................................
16
Giải thích Stj ................................................................................................................
17
Giải thích ωj …………………………………………………………......…… ..........
18
CHƯƠNG 2. XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG
T
ÀI
CHÍNH CHO VIỆT NAM ........................................................... ......... 20
2.1 Lựa chọn mô hình cảnh báo khủng hoảng tài chính phù hợp cho
Việt

CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ CÁC KHUYỀN NGHỊ THÊM VỀ MÔ
HÌNH ………………………………............................................ ......
37
3.1 Nhận xét kết quả dự báo của mô hình ………………………………………….... ..... ....
37
3.1.1
Đ
ánh
giá rủi ro quốc gia Việt Nam của EIU………... ………………............... ....
.37
Rủi ro chủ quyền …………………………………………………………..…… .........
38
Rủi ro riền tệ ……… .........
…………………………………………………................38
Rủi ro ngân
hàng…………
.........
……………………………………………………...38
3.1.2 IMF và đánh giá tính dễ tổn thương của hệ thồng tài chính Việt
Nam
......
...…….38
Khả năng dễ bị tổn thương của hệ thống ngân hàng .........
…………………...…..…..38
Thị trường chứng khoán sụt giảm và những rủi ro trên thị trường
chứng
khoán ………………………… ...........
………………………………………...............39
3.1.3 Nét tương đồng giữa các báo cáo và mô hình Signal Approach .......
……..............40

Xây dựng mô hình cảnh báo khủng hoảng cho toàn bộ nền kinh tế
Việt
Nam………………………………………… ...........
………………………………….47
DANH MỤC TỪ VIẾT
TẮT
VN
Việt
Nam
NHTW
Ngân hàng trung
ương
NH
Ngân
hàng
TTCK
Thị trường Chứng
khoán
B
Đ
S
Bất động
sản
WTO
Tổ chức thương mại thế
giới
IMF
Quỹ tiền tệ thế
giới
E

và xác suất xảy ra khủng hoảng có điều
kiện.
Bảng 2.8: Chuỗi chỉ số xác xuất xảy ra khủng hoảng thực nghiệm của Việt
Nam
Bảng 2.9: Các mức cảnh báo khủng hoảng tương ứng với các mức xác suất khủng
hoảng
Bảng 2.10 : Các mức cảnh báo khủng hoảng đối với Việt Nam giai đoạn
1998-2008
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1 : Hàm xuất
khẩu
Hình 1.2 : Hàm dự trữ ngoại
tệ
Hình 2.1: Chuỗi chỉ số khủng hoảng thực nghiệm 13 biến giai đoạn 1998 –
2008.
Hình 2.2: Biểu đồ so sánh chuỗi chỉ số khủng hoảng cho 10 biến và 13
biến
Hình 2.4: Lãi suất tiền gửi thực tại Việt Nam giai đoạn
1998-2008
Hình 2.3: Chuỗi chỉ số Tín dụng nội địa/GDP Việt Nam giai đoạn
1998-2008
Hình 2.5: Chỉ số M2/Dự trữ ngoại hối Việt Nam giai đoạn
1998-2008
Hình 2.6: Chuỗi xác suất xảy ra khủng hoảng có điều kiện cho Việt Nam 1998 –
2008
Hình 2.7:Chuỗi xác suất khủng hoảng thực nghiệm VN giai đoạn 1998 –
2008.
Hình 3.1: Biểu đồ tăng trưởng tỷ số M
2
/GDP giai đoạn


vậy, trong tác phẩm: “Hãy kết toán cuộc sát phạt”, Helen Hayward đã viết: “…các cuộc
khủng
hoảng tài chính đã làm đảo lộn cuộc sống của hàng triệu con người. Cái giá đối với con
người
rất nghiêm trọng, có lẽ không thể nào tính nổi và hậu quả của khủng hoảng vẫn tiếp tục
được
phơi bày. Người nghèo bị tác động bởi thất nghiệp, đồng lương bị giảm, giá cả các nhu
yếu
phẩm tăng cao và các dịch vụ xã hội bị thu hẹp. Trẻ em phải rời ghế nhà trường, lương
thực
và thực phẩm khan hiếm, nạn bạo hành và mại dâm tăng lên. Thất nghiệp và cạnh tranh
sinh
tồn làm cho cộng đồng bị rạn nứt, chính trị trở nên bất ổn, bạo động vì thực phẩm và sắc
tộc
tại Indonesia, nông dân phản kháng ở Thái Lan và công nhân bất bình ở Hàn
Quốc…”
(1)
Tuy nhiên, “Việc bùng nổ khủng hoảng chắc chắn không thể dự báo được. Tuy nhiên, có
thể
xác định được các dấu hiệu mất cân bằng tài chính. Nói cách khác, chắc chắn có thể xác
định
được các yếu kém và nó khiến các cơ quan chức năng cẩn trọng hơn. Tuy nhiên, không
nên
viển vông nghĩ rằng có thể dự báo được khủng hoảng.”
2
Việc xây dựng công cụ cảnh
báo
khủng hoảng đã được thực hiện từ lâu tại các quốc gia khác nhau. Cho tới nay, tại VN
vẫn

Françoise Nicolas Nghiên cứu viên, Trung tâm châu Á , Viện Quan hệ quốc tế Pháp ,Giảng viên
Đ
ại
học Paris-Est - Tham luận đánh giá, dự báo và các biện pháp phòng ngừa khủng hoảng tiền tệ và
hệ
thống ngân hàng –
2008.
giúp VN có thể tránh được những cú sốc tài chính và xa hơn là những cuộc khủng hoảng
tài
chính trong tương
lai.
3. CÂU HỎI VÀ MỤC
Đ
ÍC
H
NGHIÊN
CỨU
Các hình thức khủng hoảng tài chính nào đã diễn ra trong quá khứ ? Cách thức
các
cuộc khủng hoảng này diễn ra như thế nào
?
Đ
âu
là nguyên nhân gây ra các cuộc khủng hoảng tài
chính?
Các mô hình cảnh bảo khủng hoảng tài chính nào đang được sử dụng và đâu là

hình phù hợp với điều kiện của VN hiện
nay?
Những bước đi cần thiết hiện nay để giúp thị trường tài chính vững mạnh và có

sử
dụng trong nghiên cứu này, chúng tôi dùng phương pháp phi tham số dựa trên mô hình
Signal
Approach nhằm làm rõ vai trò của các biến số kinh tế vĩ mô góp phần gây ra khả năng
khủng
hoảng.
5. NỘI DUNG NGHIÊN
CỨU
Chương 1: Các nghiên cứu kinh điển về khủng hoảng bao gồm khủng hoảng ngân hàng,
khủng
hoảng tiền tệ, khủng hoảng nợ và đặc biệt là khủng hoảng kép thế hệ 1, thế hệ 2. Sau đó là
các
nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng tài chính và cuối cùng là các mô hình cảnh báo tài chính
đã

Chương 2: Áp dụng mô hình Signal Approach vào VN để tính toán chuỗi chỉ số khủng
hoảng
cho
giai đoạn 1998-2008 qua đó nhìn nhận xác suất VN rơi vào khủng
hoảng.
Chương 3: Xem xét sự phù hợp của mô hình Signal Approach khi áp dụng vào VN qua đó
đưa
ra những đề xuất để nâng cao hiệu quả cảnh báo cho mô hình và đề xuất những chính sách
cho
sự phát triển bền vững của thị trường tài chính
VN.
6. Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU CÔNG
T
RÌN
H

Đ
I

N VÀ CÁC MÔ HÌNH CẢNH
B
ÁO
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
1.1 Nghiên cứu kinh điển về khủng hoảng tài
c
h
í
nh
Khủng hoảng tài chính, một cách tổng quát được hiểu là sự xấu đi một cách rõ ràng và
nhanh
chóng của tất cả hay hầu hết các nhóm chỉ tiêu tài chính của một nền kinh tế quốc gia như
lãi
suất ngắn hạn, giá trị tài sản, tình trạng không trả đuợc nợ và những thất bại của các định
chế
tài chính. Khủng hoảng tài chính có thể được biểu hiện dưới một số dạng khủng hoảng đặc
thù.
1.1.1 Khủng hoảng tiền tệ (Currency
C
r
i
s
i
s)
Khủng hoảng tiền tệ còn được gọi là khủng hoảng tỷ giá hối đoái hay khủng hoảng cán
cân
thanh toán nổ ra khi hoạt động đầu cơ tiền tệ dẫn đến sự giảm giá một cách đột ngột của

phủ buộc phải chấm dứt tỷ giá cố định và chuyển sang thả nổi tỷ giá.
Đ
iểm
đặc biệt là
ngay
trước khi dự trữ cạn kiệt, sự suy yếu của các yếu tố kinh tế vĩ mô căn bản trở thành tín
hiệu
cho các cuộc tấn công mang tính đầu cơ vào đồng nội tệ và đẩy nhanh khủng
hoảng.
3
Xem Phụ lục 1.1 : Cơ chế truyền động của khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ
nh
ất
Khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ hai. Obsfeld đã phát triển mô hình khủng hoảng tiền tệ thế
hệ
thứ hai (mô hình kỳ vọng xoay vòng)
4
.. Theo ông, việc quyết định bảo vệ tỷ giá hối đoái
cố
định có cả lợi ích và chi phí.
Đ
ứng
trước sức ép phải thả nổi tỷ giá, nếu Chính phủ quyết
định
bảo vệ tỷ giá cố định thì lợi ích có được sẽ là uy tín về chính sách trong dài hạn. Nhưng
việc
bảo vệ tỷ giá tạo ra nhưng tác động tiêu cực tới nền kinh tế nội địa vì thường thì lãi suất
phải
tăng lên. Lãi suất tăng, trước hết làm suy giảm tăng trưởng kinh tế và gây ra thất nghiệp.
Tác

tư quá mức, đặc biệt là những khoản đầu tư rủi ro của các NH, các tổ chức tài chính
khác
xẩy ra do những hành động hoặc chính sách của Chính phủ
5
.
1.1.2 Khủng hoảng ngân hàng (Banking
C
r
i
s
i
s)
Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): “Khủng hoảng NH là trạng thái các NH lâm vào tình trạng
rút
tiền ổ ạt và bị phá sản. Các NH buộc phải dừng việc thanh toán các cam kết của mình, hoặc
để
tránh tình trạng này, Nhà nước buộc phải can thiệp bằng biện pháp hỗ trợ đặc biệt.
Khủng
hoảng NH có thể bùng phát tại một NH và lây truyền ra toàn bộ hệ
thống”
6
.
Ngược lại với mô hình khủng hoảng tiền tệ, được xây dựng chủ yếu dựa trên những giả
định
về thông tin cân xứng, những lý thuyết về khủng hoảng NH lại cho rằng tính bất ổn (dễ đổ
vỡ)
4
Xem Phụ lục 1.2 : Cơ chế truyền động của khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ
h
ai

đích hay không. Rủi ro về đạo đức có thể xảy ra khi người đi vay sử dụng tiền để đầu tư
vào
những dự án rủi ro cao. Nếu dự án thành công, họ sẽ nhận được những lợi ích lớn. Ngược
lại
khi sự dự án thất bại, người cho vay phải là người gánh chịu hầu hết hậu quả. Mặt khác, rủi
ro
đạo đức còn là việc người đi vay sử dụng tiền vay cho mục đích chi dùng cá nhân hay
thực
hiện những dự án không có khả năng sinh lời mà chỉ nhằm vào việc tăng vị thế hay quyền
lực.
Tâm lý bầy đàn: Những người cho vay thường cố gắng theo sự dẫn dắt của ngưới mà họ
tin
tưởng là sẽ có những thông tin tốt hơn. Hành vi bầy đàn có thể xuất hiện khi các nhà đầu

thiếu thông tin về khả năng của những người quản lý quỹ của mình. Những người quản lý
quỹ
khả năng kém sẽ nhận thấy là hợp lý khi thực hiện theo những quyết định của những nhà
đầu
tư khác để không bị phát hiện. Và tính bầy đàn là hợp lý khi kết quả đối với một chủ thể
theo
sau một hành động gia tăng bởi vì nhiều chủ thể khác cũng thực hiện cùng hành
động.
Trong thế giới tài chính đặc trưng bởi thông tin bất tương xứng, những nhà cung cấp quỹ
gặp
khó khăn trong việc quản lý các trung gian tài chính. Các tổ chức này cũng gặp những
khó
khăn tương tự đối với những người sử dụng quỹ. Vì vậy, trong khi những tài sản của NH
đặc
trưng bởi tính khó chuyển đổi và không dễ định giá trên thị trường, những NH với
những

những cú sốc bên thương mại.
Đ
iều
này có thể phá hỏng bảng cân đối kế toán của
NH,
được cấu thành chủ yếu bởi khoản cho vay đến các doanh nghiệp trong nước. Sự thiếu tính
đa
dạng hoá bên ngoài có thể đưa tới những vấn đề trầm trọng ở những quốc gia đang phát
triển
hơn là những quốc gia phát triển có sự đa dạng hoá tốt ở nhiều
nước.
Thứ hai, các NH ở những nước đang phát triển huy động các quỹ với những khoản nợ
bằng
ngoại tệ. Vì vậy, một sự sụt giảm giá trị đồng nội tệ có thể gia tăng tình trạng nợ nần, trong
khi
giá trị tài sản của NH không tăng. Kết quả la dẫn đến sự xấu đi của vốn chủ sở hữu sẽ làm
gia
tăng khả năng phá sản của
NH.
1.1.3 Khủng hoảng nợ ( Debt
C
r
i
s
i
s)
Khủng hoảng nợ nước ngoài xảy ra khi một quốc gia không có khả năng trả nợ nước
ngoài,
bao gồm cả các khoản nợ của Chính phủ hay của khu vực tư nhân
7

đất
nước, không phụ thuộc vào thành công hay thất bại của một hoạt động riêng lẻ nào
được
7
Quỹ tiền tệ Quốc tế, Triển vọng kinh tế thế giới 1998, năm
1998.
tài trợ bằng khoản tiền cho vay. Triển vọng khả năng hoàn trả nợ của loại nợ không
phải
của nhà nước thì phụ thuộc vào cả sự tin cậy tín nhiệm của các đối tượng vay lẫn vào
thành
công hoặc thất bại trong hoạt động làm ăn của đối tượng này. Do vậy mức rủi ro bị vỡ
nợ
còn lớn hơn khá nhiều kiểu cho vay nợ tư nhân ngay cả khi những khoản nợ này có thể
thu
hồi nhờ sức ép của luật
pháp
8
.
8
Fulbright Economics Teaching Program , “Khủng hoảng nợ ở các nước đang phát triển”, năm
2003.
1.1.4 Khủng hoảng kép (Twin
c
r
i
s
i
s)
Khủng hoảng kép thế hệ thứ nhất. Thập niên “rối loạn” tài chính trong những năm 1990
đã

của Hàn Quốc, Indonesia, Malaysia và Philipines đều chịu sức ép. Sự phá
giá
đồng nội tệ ở
các nước này cùng với lãi suất gia tăng đã làm nhiều doanh nghiệp nhanh
chóng
trở thành khó
khăn của các tổ chức tài chính và dẫn tới khủng hoảng
NH.
Obsfeld (1994) cho rằng lĩnh vực NH họat động yếu kém có thể làm tiền đề cho khủng
hoảng
tiền
tệ nếu các nhà đầu cơ dự đoán được rằng Chính phủ sẽ ưu tiên kiềm chế lạm phát hơn

sự ổn
định tỷ giá hối đoái. Mục đích của sự ưu tiên chính sách này là để tránh nạn phá
sản
trong
lĩnh vực NH. Tuy nhiên, Velasco (1987) và Calvo (1997) lại tranh luận rằng
khủng
hoảng
NH là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tiền tệ nếu sự tăng cường khả năng thanh
toán
bằng
tiền mặt cũng như sự hỗ trợ tài chính từ phía Chính phủ đối với hệ thống NH không
đồng
nhất
cùng sự ổn định tỷ giá hối đoái. Miller (1999) cũng cho rằng sự mất giá tiền tệ như

một
phần của việc lựa chọn chính sách hợp lý cho một chính phủ bị đe dọa bởi khủng

chứng
minh sự xuất hiện của khủng hoảng NH là một chỉ báo hữu hiệu đưa đến cuộc khủng
hoảng
tiền tệ. Tuy nhiên, hiện tượng ngược lại thì không xảy ra, khủng hoảng tiền tệ không phải

một chỉ báo hữu dụng cho một cuộc khủng hoảng NH trong tương lai. Kết quả cũng cho
thấy,
sự mở cửa của các thị trường mới nổi đối với dòng vốn đầu tư nước ngoài, song song với
một
cấu trúc tài chính tự do đã làm cho các thị trường này dễ bị tổn thương và dẫn tới khủng
hoảng
kép
9
.
Tiếp cận những nghiên cứu về mô hình khủng hoảng kép thế hệ một đã làm cho chúng ta
hiểu
nhiều hơn về khủng hoảng kép thông qua các chính sách nghèo nàn và đi sâu tập trung vào
các
yếu tố từ hệ thống tài chính. Có nhiều mô hình cho thấy mực độ phù hợp cao trong việc
giải
thích khủng hoảng kép. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Raphael H.Solomon (12 - 2003)
đã
chỉ ra những luận điểm mà các mô hình khủng hoảng kép cần khắc phục. Thứ nhất, vì
trong
các mô hình này, hoàn toàn giả định rằng mọi sự rút tiền ồ ạt đều dẫn tới khủng hoảng tiền
tệ,
nên
nó không giải thích được thực tế một vài trường hợp khủng hoảng NH đôi khi đưa tới
một
chế độ

năm
1999.
10
Raphael H.Solomon - Monetary and Financial Analysis Department Bank of Canada , “Anatony of a
twin
crisis”, năm
2003.
11
Cass và Shell (1983, 1984) định nghĩa biến sunspot như là “biến ngoại sinh, đó là hiện tượng
ngẫu
nhiên không ảnh hưởng tới hàng hóa hoặc khả năng sản xuất”. Trong một mô hình cân bằng đa chiều ,
b
iế
n
sunspots sẽ đóng vai trò như cơ chế lựa chọn cân
b

ng.
1984) chỉ xem xét tới một biến Sunspots và Peck và Shell (2003) sử dụng hai biến
sunspots
không có tương quan
12
. Sự tương quan giữa hai biến Sunspot cho phép khoảng rộng hơn
trong
cân bằng của trò chơi rút tiền cũng như xác suất xảy ra khủng hoảng
kép.
Kết quả của công trình đã trả lời được rất nhiều câu hỏi mà các công trình khác chưa trả
lời
được.
Đ

khủng hoảng tiền tệ diễn
ra.
Thứ hai, một khả năng không được đề cập đến trong những mô hình trước đây là hiện
tượng
các nhà đầu tư trong và ngoài nước đồng loạt rút tiền ồ ạt. Chính sự tấn công kết hợp này đã
để
lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho hệ thống tài chính. Thực tế là khi nhà đầu tư nước
ngoài
rút tiền ồ ạt thì đảm bảo tiền gửi cho các nhà đầu tư trong nước bị đe dọa, có nghĩa là
trong
trường hợp này nhà đầu tư trong nước chịu thiệt và người ở ngoài được lợi. Trong phạm vi
các
giá trị tham số mà tại đó một sự rút tiền đồng loạt của cả hai phía nhà đầu tư có khả năng
xảy
ra, mức lỗ của nhà đầu tư trong nước vượt quá mức lợi nhuận nhà đầu tư nước ngoài
nhận
được (với cơ sở tính là đô la Mỹ). Khi mức hữu dụng nhà đầu tư trong nước mất đi thấp
hơn
mức hữu dụng nhà đầu tư nước ngoài nhận được. Không thể nói rằng một cuộc khủng
hoảng
kép có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài sẽ tồi tệ hơn trường hợp không có sự tham
gia
12
Với một biến sunpots, mô hình sẽ đưa lại kết quả là khủng hoảng kép chắc chắn xuất hiện kèm với rút tiền ồ
ạt
và khủng hoảng NH.
Đối
với mô hình có 2 biến sunpot không tương quan hoàn toàn đưa đến kết luận là
khủng
hoảng kép sẽ dễ dàng xảy ra trong trường hợp có hiện tượng khủng hoảng NH nhưng không đảm bảo chắc

hoảng nợ tới khủng hoảng tiền tệ, và bằng chứng không chắc chắn cho quan hệ nhân quả
theo
chiều ngược lại
14
.
Đặc
biệt những bằng chứng xác thực của hai tác giả còn chứng minh
khủng
hoảng nợ và khủng hoảng tiền tệ có chung những nguyên nhân như: dự trữ ngoại tệ trên tỷ
lệ
nhập khẩu thấp, tốc độ tăng trưởng GDP thấp và FDI trên tỷ lệ nợ nước ngoài
thấp.
Bảng 1.1 : Khủng hoảng kép thế hệ thứ
hai
Không Vỡ
Nợ
Vỡ
Nợ
Không phá
giá
Không khủng
hoảng
Khủng hoảng
nợ
Phá
giá
Khủng hoảng tiền
tệ
Khủng hoảng kép thế hệ
hai

số
này khác 0 với mức ý nghĩa 8%” - Bernhard Herz, Hui Tong (12 –
2004)
một cơ chế truyền dẫn từ khủng hoảng nợ đến cuộc khủng hoảng tiền tệ hoặc theo một số

chế
khác”
15
.
Cũng theo các nghiên cứu này, quyết định “vỡ nợ” và quyết định phá giá đồng nội tệ có
thể
thay thế hoặc bổ sung cho nhau. Quyết định phá giá nội tệ và quyết định không chi trả
khoản
nợ tới hạn là hai quyết định thay thế nhau nếu xét trên khía cạnh phân phối tài chính trong
chi
tiêu công dẫn tới Chính phủ bị áp chế trong các chính sách tài khóa và lượng dự trữ ngoại
tệ
không đủ lớn để thanh toán các khoản nợ đến hạn. Ví dụ do những vấn đề trong thể chế
hoặc
áp lực chính trị, Chính phủ phải có sự lựa chọn để thay thế cho chi phí về tài chính. Theo
quan
điểm này, khủng hoảng tiền tệ sẽ làm giảm áp lực tài chính lên chính phủ và lựa chọn
thực
hiện một cuộc khủng hoảng nợ là kém phù hợp
hơn.
Ngược lại, khủng hoảng nợ và khủng hoảng tiền tệ là hai sự kiện bổ sung cho nhau nếu các

vọng từ khủng hoảng này dẫn tới các yếu tố phát sinh khủng hoảng kia được đáp ứng.
Theo
giả định của Bernhard Herz và Hui Tong (12 – 2004), những nhà đầu cơ kì vọng phá giá

Tuy
nhiên, Reinhart (2002) gián tiếp điều chỉnh khả năng có thể xảy ra, đó là khủng hoảng nợ

15
Bernhard Herz và Hui Tong, The Interactions between Debt and Currency Crises – Common Causes
or
Contagion, 12 –
2004.
khủng hoảng tiền tệ có thể có những nhân tố chung. Ngược lại, Sy (2002) gần đây đã đưa
ra
kết luận rằng tại 13 thị trường mới nổi từ 1994 – 2002 thì khủng hoảng tiền tệ không có
mối
liên quan tới khả năng xảy ra một sự vỡ nợ. Chính vì vậy, bản chất của khủng hoảng kép

khủng hoảng nợ vẫn là một câu hỏi
mở.
Nghiên cứu của Obstfeld (1994) đã phân tích sự tác động qua lại giữa khủng hoảng tiền tệ

khủng hoảng nợ với sự thống nhất quan điểm: quyết định bảo vệ đến cùng chính sách tài
khóa
và chính sách tiền tệ của Chính phủ bằng sự cân bằng chi phí thay cho chi phí về tài chính,
đặc
biệt là các chi phí cho việc tăng lạm pháp, phá giá nội tệ và chi phí cho vỡ nợ. Như vậy,
chính
phủ không thể cam kết mình thực hiện các khoản nợ và tỷ giá hối đoái cố định. Một mặt,
chính
phủ tăng chi phí tài chính bằng phát hành tiền làm gia tăng lạm phát và phá giá để chống
lại
chi phí của vỡ nợ. Chi phí này bao gồm sự mất uy tín trên thị trường vốn quốc tế và giảm
GDP

Đ
ầu
tư quá nhiều vào
B
Đ
S
đưa giá cổ phiếu và
B
Đ
S
đến
tình
trạng bất ổn định. Khi lạm phát xảy ra, Chính phủ phải áp dụng thắt chặt các chính sách
nhằm
kìm giữ lạm phát, khuyến khích điều chỉnh khả năng thanh toán với bên ngoài cộng với
những
điều chỉnh về giá
B
Đ
S.
Từ đó đưa đến tình trạng giảm sút trong hoạt động kinh tế, khó
khăn
trong thanh toán nợ, giảm giá trị các tài sản thế chấp và làm tăng các khoản cho vay tín
dụng
không có lợi tức. Những nguyên nhân kinh tế vĩ mô, nhất là bùng nổ tín dụng đóng vai
trò
quan trọng trong việc tạo ra khu vực tài chính yếu kém ở nhiều nước Mỹ Latinh cũng như

hàng loạt thị trường mới
nổi.

áng
lưu
ý
nhất là những thay đổi lớn, đột ngột xảy ra về điều kiện thương mại quốc tế và lãi suất của
thế
giới. Ví dụ giá xuất khẩu giảm bất ngờ có thể làm giảm khả năng trả nợ của các công ty
trong
nước và làm giảm danh mục các khoản cho vay đầu tư phân tán rủi ro. Những động thái về
lãi
suất tín dụng tại các nước công nghiệp phát triển chính ngày càng trở nên quan trọng đối
với
các nền kinh tế thị trường mới nổi trên toàn thế giới, phản ánh xu hướng liên kết thị
trường
vốn thế giới và toàn cầu hoá đầu tư ngày càng tăng. Lãi suất tín dụng của thế giới giảm liên
tục
trong thời gian dài, khiến dòng vốn chảy vào các thị trường mới nổi ngày càng tăng lên,
trong
khi các nhà đầu tư tài chính quốc tế luôn tìm kiếm lợi nhận đầu tư cao hơn và mức độ an
toàn
tín dụng đang có lợi cho các nước vay nợ nước ngoài do lãi suất thấp hơn. Tuy nhiên, việc
các
nước công nghiệp phát triển đột ngột tăng lãi suất có thể chặn đứng luồng tài chính nước
ngoài
chảy vào các nền kinh tế thị trường mới nổi, làm tăng chi phí của các NH trong nước sử
dụng
vốn ngoài nước, tăng thêm mối đe dọa và nguy cơ sụp đổ hệ thống tài chính. Một số công
trình
nghiên cứu gần đây cho thấy sự cố khủng hoảng NH tại các thị trường mới nổi có liên
quan
một cách hệ thống tới những thay đổi về các điều kiện tài chính toàn

Mô hình Probit được xây dựng dựa trên việc tính toán mức độ ảnh hưởng của các biến số
kinh
tế vĩ mô (được đại diện bằng một ma trận X đóng vai trò biến giải thích trong mô hình) lên
xác
suất xảy ra khủng hoảng tài
chính.
Ở đây yêu cầu phải xây dựng 3 phương trình theo mô hình Probit khác nhau để mô tả
tương
tác của từng biến số kinh tế ứng với từng loại khủng hoảng (mô hình này xem xét khủng
hoảng
tài chính dưới 3 loại theo lý thuyết: khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng NH, khủng hoảng
nợ).
Dưới đây, chúng tôi sẽ trình bày chi tiết trường hợp của khủng hoảng tiền tệ. Hai trường
hợp
còn lại cũng được xây dựng tương
tự.
Trong mô hình khủng hoảng tiền tệ, biến số phụ thuộc là một biến số nhị phân, nhận một
trong
hai giá trị 1 hoặc 0. Ta có phương trình hồi
quy:
CC
t
= α + β
X
Theo mô hình Probit, chúng ta có mô hình xác suất như
sau:
P
t
= F(CCt) = F (α + β
X)

sau:
F–1 (P
t
) = α + β X =
CC
với F-1(Ii) là hàm số nghịch đảo của hàm số F(Ii), chính là hàm
số:
F 1(I
i
)
1
e
t /
2
2
Theo phương pháp hồi quy, thực hiện hồi quy với biến phụ thuộc là CC
t
và các biến độc lập

X (X ở đây là một tập hợp gồm các biến số kinh tế từ X
1
, X
2
, X
3
… X
n
), ta sẽ xác định
được
ma trận hệ số α và β. Với α và β đã biết, mô hình sẽ cho chúng ta biết ứng với một mức giá

tập
hợp và x là một phần tử của tập hợp đó. Một tập con mờ F của S được định nghĩa bởi một
hàm
tư cách thành viên µ (x) đo “mức độ” mà theo đó x thuộc về tập
F.
F
Trong đó : 0 ≤ µ (x) ≤
1.
F
Khi µ (x) = 0 nghĩa là x hoàn toàn không thuộc tập
F.
F
Khi µ (x) = 1 nghĩa là x thuộc F hoàn
toàn.
F
Sự khác biệt giữa mô hình Neuro Fuzzy và những mô hình đã thành công truyền thống nằm

những quy luật mà logic mờ mô tả thông qua việc sử dụng những biến ngôn ngữ thay cho
biến

Trích đoạn Đánh giá rủi ro quốc gia Việt Nam của EIU Khuyến nghị cho Việt Nam
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status