263 Giải pháp hoàn thiện mối quan hệ giữa Công ty chứng khoán và khách hàng - Pdf 23

Mở đầu Thị trờng chứng khoán tập trung tại Việt Nam đã đi vào hoạt động
đợc hơn 4 năm, đánh dấu bớc ngoặt quan trọng trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện cơ cấu nền kinh tế thị trờng nói chung và thị trờng tài chính ở
nớc ta nói riêng. Thị trờng chứng khoán tập trung ra đời đã mở ra một kênh
huy động vốn mới cho nền kinh tế. Tuy quy mô còn nhỏ bé, vai trò tác động
đến nền kinh tế cha lớn nhng TTCK Việt Nam thời gian qua đã có những
bớc tiến quan trọng. Điều đáng ghi nhận trớc hết là sự vận hành và hoạt
động suôn sẻ, an toàn của thị trờng đã thu hút đợc số đông các nhà đầu t
tham gia và dần hình thành thói quen, tập quán đầu t chứng khoán trong
công chúng. Bên cạnh đó, sự trởng thành cả về số lợng và chất lợng của
các chủ thể quan trọng khác tham gia thị trờng nh các tổ chức niêm yết,
công ty chứng khoán cũng là một dấu hiệu tích cực.
TTCK là loại thị trờng đặc biệt, ở đó các pháp nhân và cá nhân tham gia
giao dịch trên thị trờng đều phải thông qua các công ty chứng khoán. Khách
hàng của các công ty chứng khoán chính là các chủ thể tham gia TTCK, với t
cách là ngời đại diện cho nguồn cung và cầu chứng khoán. Khách hàng của
công ty chứng khoán cũng rất đa dạng, bao gồm các doanh nghiệp, nhà đầu t,
quỹ bảo hiểm, quỹ tơng hỗ, Chính phủ, chính quyền địa phơng nên có
nhiều nhu cầu khác nhau. Khi thiết lập mối quan hệ giao dịch giữa khách hàng
và công ty chứng khoán, cả hai bên thờng tìm hiểu những vấn đề liên quan
đến nhau và phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Mặt khác, mối quan hệ
này còn mang tính nhân bản: trách nhiệm từ khía cạnh đạo đức, văn hoá ứng
xử, bổ sung thêm cho văn hoá đầu t đ
ợc lành mạnh và hiệu quả. Hiện nay
chúng ta đang xây dựng Luật Chứng khoán, các vấn đề liên quan đến công ty
chứng khoán và khách hàng mới chỉ đợc đề cập rải rác trong một số văn bản.
Việc nghiên cứu vấn đề này sẽ làm sáng tỏ mối quan hệ giữa công ty chứng
khoán và khách hàng.

2
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu tình hình hoạt động của các
công ty chứng khoán và khách hàng của họ trong mối quan hệ giao dịch từ hai
khía cạnh: quy định pháp lý và đạo đức.
Phơng pháp nghiên cứu: Trong đề tài có sử dụng các phơng pháp
nh thống kê, tổng hợp, cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và chủ nghĩa
duy vật biện chứng.
Nội dung của đề tài gồm 3 chơng:
- Chơng 1: Những vấn đề cơ bản về mối quan hệ giữa công ty chứng
khoán và khách hàng;
- Chơng 2: Thực trạng mối quan hệ giữa các công ty chứng khoán và
khách hàng tại Việt Nam;
- Chơng 3: Giải pháp hoàn thiện mối quan hệ giữa công ty chứng
khoán và khách hàng. 3
Chơng I
Những vấn đề cơ bản về mối quan hệ giữa công ty
chứng khoán và khách hàng

1.1 . Công ty chứng khoán và khách hàng
Để hình thành và phát triển thị trờng chứng khoán (TTCK) có hiệu
quả, một trong các yếu tố không thể thiếu đợc là các chủ thể tham gia kinh
doanh trên thị trờng cùng với đông đảo các nhà đầu t chứng khoán. Các
nhà đầu t tham gia TTCK không chỉ với mục tiêu làm lợi cho mình mà chính
là tham gia vào quá trình tích tụ vốn đầu t dài hạn cho phát triển kinh tế và
tạo ra tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. Nhng hoạt động của
TTCK phải đợc điều tiết trật tự, công bằng và hiệu quả nên cần và phải có
các định chế trung gian với t cách là các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng

khoán (chứng khoán) nên chủ thể kinh doanh (công ty chứng khoán) phải tuân
theo những yêu cầu đặc biệt nh phải có tiềm lực về tài chính, cơ sở vật chất
phục vụ hoạt động kinh doanh, trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.
Vai trò của công ty chứng khoán:
TTCK không thể hoạt động nếu không có chủ thể kinh doanh chứng
khoán mà cụ thể là các công ty chứng khoán tham gia. Điều đó cũng đồng
nghĩa với vai trò hết sức quan trọng của công ty chứng khoán, đợc coi nh
một nguyên lý khi tổ chức và vận hành TTCK.
Trớc hết, công ty chứng khoán có vai trò quan trọng trong việc huy
động vốn, có nghĩa là các tổ chức này chính là chiếc cầu nối và là kênh dẫn
vốn từ một bộ phận nào đó của nền kinh tế có sự d thừa vốn đến các bộ phận
khác của nền kinh tế đang thiếu vốn và có nhu cầu huy động vốn. Quá trình
đó diễn ra không phải theo một quy ớc nh là một lẽ tự nhiên: khi doanh
nghiệp cần huy động vốn để đầu t phát triển sản xuất, kinh doanh, họ sẽ và
có thể phát hành chứng khoán (cổ phiếu hoặc trái phiếu). Nhng họ không thể
làm hoàn hảo việc đó bởi không có bộ máy chuyên nghiệp. Công ty chứng

5
khoán với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, cơ chế huy động
và bộ máy tổ chức thích hợp sẽ đóng vai trò trung gian, môi giới mua bán,
phát hành chứng khoán, t vấn đầu t và thực hiện các dịch vụ khác không chỉ
cho ngời phát hành mà cho cả ngời đầu t. Nhờ các công ty chứng khoán
mà các cổ phiếu và trái phiếu đợc lu thông, mua bán trên TTCK và qua đó,
một lợng vốn ngày càng lớn đợc tập hợp từ những nguồn nhỏ, lẻ để đa vào
đầu t phát triển doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Đánh giá chung sau 4 năm ra đời và phát triển của TTCK có thể nói
rằng, Việt Nam đã xây dựng và vận hành đợc TTCK có tổ chức, về cơ bản đã
hình thành khá đầy đủ các chủ thể tham gia thị trờng, bớc đầu đã thực hiện
huy động vốn đầu t cho doanh nghiệp thông qua TTCK, cung cấp cho nền
kinh tế một kênh đầu t tài chính mới. Trong đó, không thể không nói đến vai

rõ hơn trong những năm gần đây trong bối cảnh các công cụ chứng khoán
phát triển với tốc độ rất nhanh do dung lợng thị trờng và biến động thị
trờng ngày càng lớn, các nhà đầu t nhận thức rõ ràng hơn và tiếp cận nhiều
hơn với thị trờng tài chính cùng với sự nỗ lực trong tiếp thị của công ty chứng
khoán. Ngoài cổ phiếu, trái phiếu thông thờng, nhiều sản phẩm mới thông
qua công ty chứng khoán đã đợc mua bán, giao dịch nh trái phiếu chính
phủ, chứng quyền, trái quyền, các hợp đồng lựa chọn, hợp đồng tơng lai và
các sản phẩm lai tạo đa dạng khác đã làm cho TTCK ngày càng sôi động và
phát triển mạnh mẽ.
Với TTCK Việt Nam, tuy quy mô còn nhỏ bé nhng đã đợc hình thành
đồng bộ và từng bớc phát triển, trong đó các công ty chứng khoán đảm
đơng vai trò không thể thiếu trên TTCK. Từ con số ít ỏi khi mới thành lập
TTCK với 7 công ty chứng khoán, đến nay đã có 13 công ty chứng khoán
đợc cấp phép hoạt động với xuất xứ từ nhiều lĩnh vực quan trọng nh ngân
hàng, bảo hiểm,... Các công ty chứng khoán này có sự phát triển tốt, thể hiện ở
số lợng tài khoản giao dịch của khách hàng tăng liên tục qua các năm, từ
khoảng 500 tài khoản ban đầu và đến tháng 5/2004 đã có 18.777 tài khoản của
các nhà đầu t
mở tại các công ty chứng khoán để giao dịch, mua bán chứng
khoán. Tuy cha thể so sánh với các TTCK phát triển nhng điều đó chứng tỏ

7
trong sự khởi đầu và hoàn toàn mới mẻ, các công ty chứng khoán đã tạo đợc
sự tin cậy đối với khách hàng của mình mà đa số là nhà đầu t cá nhân, nhỏ
lẻ, điều này tạo tiền đề cho sự phát triển của TTCK Việt Nam.
1.1.2. Các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của công ty chứng khoán
và khách hàng của công ty chứng khoán
Các công ty chứng khoán có thể khác nhau, tuỳ theo loại hình dịch vụ
hay sản phẩm cung cấp và cách tạo ra doanh thu (các loại phí hay thu nhập).
Theo những điểm khác biệt này, các công ty chứng khoán có thể thực hiện 5

cách đơn thuần mà còn là sự hợp tác nhân quả cho cả công ty lẫn khách hàng
trong hoạt động kinh doanh - đầu t chứng khoán.
Có thể đa ra thí dụ cụ thể: các nhân viên marketing có nhiệm vụ phải
tìm hiểu và quyết định về loại chứng khoán mà công chúng đang quan tâm
dựa trên điều kiện kinh tế, xu hớng tăng trởng kinh tế dự toán, điều kiện thị
trờng hiện tại, những vấn đề mà các khách hàng đang tìm hiểu và bàn tán
Nếu họ sai lầm trong việc đánh giá, công ty có thể mất cơ hội phục vụ khách
hàng và hiển nhiên là có thể mất khách hàng hoặc nhân viên của bộ phận hỗ
trợ khi vào sổ, lên cân đối và hoàn tất các bút toán một cách thành thục thì tạo
ra một cảm giác suôn sẻ và thoả mãn cho các khách hàng, xử lý giao dịch một
cách chuyên nghiệp để tạo lòng tin cho họ, tạo dựng hình ảnh tốt đối với họ
sao cho khách hàng vui lòng tiếp tục hoạt động kinh doanh với công ty. Bên
cạnh đó, phần lớn các nguyên tắc trong quan hệ khách hàng và công ty môi
giới cũng do bộ phận ký quỹ (hay tín dụng) thực hiện; bộ phận này theo dõi
các tài khoản của khách hàng để đảm bảo rằng mọi tài khoản đều hoạt động
trong khuôn khổ quy định. Theo đặc điểm này, khách hàng phân loại thành:
khách hàng giao dịch thông thờng và khách hàng giao dịch ký quỹ.
- Khách hàng giao dịch thông thờng:
+ Đối với mọi giao dịch đợc thực hiện thông qua ngời môi giới,
khách hàng phải trả cho ngời môi giới số tiền phải thanh toán hoặc giao cho

9
ngời môi giới số lợng chứng khoán dới hình thức đợc chấp nhận hoặc
đảm bảo rằng ngời môi giới đã nhận đợc số tiền hoặc số lợng chứng khoán
đó (điều này không áp dụng trong trờng hợp ngời môi giới đang giữ tiền
hoặc chứng khoán để thay mặt khách hàng thanh toán giao dịch).
+ Tuy nhiên, nếu khách hàng không tuân thủ quy định trên, ngời môi
giới có thể bán số lợng chứng khoán đã mua trong trờng hợp giao dịch mua
chứng khoán và vay, mua chứng khoán để thanh toán cho giao dịch bán chứng
khoán.

cáo và cung cấp thông tin, theo dõi để nắm bắt những thay đổi trong đời sống,
công việc của khách hàng mà có thể dẫn đến những thay đổi trong tình trạng
tài chính và thái độ chấp nhận rủi ro của khách hàng, từ đó đề xuất chiến lợc
đầu t mới thích hợp hơn. Trên thị trờng sơ khai, khi sản phẩm hàng hoá còn
đơn giản, nhà đầu t có thể cha có nhu cầu sử dụng dịch vụ t vấn. Tuy
nhiên, ngày nay, hoạt động môi giới đầu t chứng khoán đồng thời chứa đựng
hàm lợng t vấn đầu t khá cao. Ngời đầu t trông chờ ngời môi giới cho
biết khi nào thì nên mua chứng khoán, lúc nào thì nên bán chứng khoán và
cung cấp thông tin về tình hình diễn biến trên thị trờng.
Ngời môi giới giỏi nghề dờng nh có một năng lực tiềm ẩn trong việc
biến những dòng thông tin liên tục này thành những khuyến nghị đầu t đúng
áp dụng cho mục tiêu của từng khách hàng riêng biệt. Những ngời môi giới
luôn đại diện cho công ty chứng khoán trong mọi hành động của mình, do
vậy, đạo đức nghề nghiệp của ngời môi giới luôn là vấn đề đợc quan tâm
hàng đầu. Chính những ngời môi giới giỏi, có uy tín là yếu tố thu hút khách
hàng cho công ty. Đạo đức nghề nghiệp của ngời môi giới đợc quy định rõ
trong quy chế quản lý nội bộ của từng công ty, thông qua quy chế này, ng
ời
môi giới thực hiện việc kiếm thu nhập, làm giàu và bảo vệ quyền lợi cho
khách hàng, đảm bảo rằng mọi khách hàng đều đợc đối xử bình đẳng trong
mọi hoàn cảnh. Một thị trờng chứng khoán không có sự bình đẳng giữa các

11
khách hàng thì ngành công nghiệp chứng khoán sẽ mất đi lòng tin từ công
chúng.
1.1.2.2. Nghiệp vụ tự doanh
Đây là nghiệp vụ của công ty chứng khoán khi công ty tự mua hoặc bán
chứng khoán cho chính mình để tạo ra thu nhập từ những giao dịch có lãi.
Công ty đóng vai trò của những nhà tạo lập thị trờng trên thị trờng chứng
khoán. Khi thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán đóng vai trò là nhà

tiền định đầu t, mục đích đầu t, thời hạn đầu t Đồng thời công ty cũng
phải cho khách hàng biết về khả năng chuyên môn và khả năng kiểm soát nội
bộ của mình để vừa có thể mang lại lợi nhuận cho khách hàng, vừa đảm bảo
an toàn tài sản cho họ.
Quản lý danh mục đầu t gồm các bớc cơ bản sau:
- Tìm hiểu nhu cầu của khách hàng (chủ đầu t), đặc tính khách
hàng, mục tiêu và hạn chế đầu t của khách hàng.
- Định giá chứng khoán - xác định toàn bộ tài sản đầu t đề ớc
tính lợi nhuận và rủi ro có khă năng xảy ra;
- Quyết định phân bổ tài sản phải xác định tài sản sẽ đợc phân
bổ nh thế nào; lựa chọn một trong nhiều phơng án đầu t đợc đa ra, đầu
t vào cổ phiếu, đầu t vào trái phiếu hay đầu t cả 2 loại chứng khoán;
- Tối u hoá danh mục đầu t. Trong bớc này phải cân nhắc rủi ro
và lợi nhuận nhằm lựa chọn chứng khoán đa vào danh mục đầu t, xác định
danh mục đầu t chứng khoán nào sẽ cho lợi nhuận cao nhất ứng với một mức
rủi ro dự kiến;
- Đánh giá kết quả thực hiện. Trong đó phải phân loại kết quả thực
hiện (rủi ro) của từng loại chứng khoán thành loại mang tính hệ thống, loại
liên quan đến thị trờng và loại mang tính đặc trng ngành công nghiệp, của
chứng khoán (phần không mang tính hệ thống).
Tóm lại, thực chất nghiệp vụ quản lý danh mục đầu t chứng khoán là
quá trình quản lý vốn của khách hàng bao gồm từ việc định giá, phân tích
chứng khoán, lựa chọn đầu t, theo dõi các kết quả đầu t và phân bổ vốn đầu

13
t, và đánh giá kết quả đầu t vì lợi ích của khách hàng trên cơ sở hợp đồng ký
kết. Từ bản chất này, khi thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu t, các
công ty chứng khoán cần:
- Đảm bảo tính sinh lời và an toàn của danh mục đầu t thông qua
việc đa dạng hoá hợp lý thành phần các tài sản hay chứng khoán trong danh

Công ty chứng khoán ở các nớc phát triển rất chú trọng đến nghiệp vụ
của ngân hàng đầu t - định chế tài chính chuyên môn hóa trên thị trờng sơ
cấp. Thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán đóng vai trò trung gian
giữa tổ chức phát hành và ngời mua chứng khoán cuối cùng - hai đối tợng
khách hàng của công ty. Công ty chứng khoán t vấn cho tổ chức phát hành về
việc xác lập giá phát hành chứng khoán theo hình thức chắc chắn, ký thỏa
thuận bảo lãnh dự phòng với tổ chức phát hành để mua toàn bộ số lợng
chứng khoán không phân phối hết trong trờng hợp phát hành quyền mua cổ
phiếu, đóng vai trò đại lý theo hình thức nỗ lực tối đa trong các đợt chào bán
khác (cổ phiếu đợc chào bán ra công chúng trớc) và đóng vai trò bình ổn
giá trên thị trờng thứ cấp trong khoảng thời gian số cổ phiếu cha phân phối
hết.
1.1.2.5. Nghiệp vụ t vấn đầu t
T vấn đầu t đề cập đến dịch vụ t vấn và tham vấn của công ty chứng
khoán cho các khách hàng tùy theo yêu cầu của họ theo một số nội dung sau:
- Yêu cầu về lợi tức, nghĩa là tập trung vào thu nhập hiện hành,
tăng trởng vốn dài hạn hoặc phòng tránh lạm phát;
- Mức độ chịu đựng rủi ro, nghĩa là mức độ biến động của giá trị
danh mục đầu t mà khách hàng có thể chấp nhận đợc;
- Yêu cầu về tính thanh khoản và tính khả mại, nghĩa là yêu cầu về
mức độ thanh khoản dựa trên nhu cầu chuyển đổi thành tiền mặt;
- Phơng diện thời gian: đây là yếu tố ảnh hởng đến tính biến
động của danh mục đầu t mà khách hàng có thể chấp nhận đợc;
- Cân nhắc về thuế: đây là vấn đề cần đợc đề cập nhằm tối đa hóa
lợi tức sau thuế cho khách hàng;

15
- Ràng buộc pháp lý, những vấn đề liên quan đến việc chấp hành
mọi quy định pháp luật liên quan;
- Nhu cầu, sở thích của khách hàng về đầu t hoặc không đầu t

Để hiểu rõ hơn về bản chất của mối quan hệ giữa công ty chứng khoán
và khách hàng, chúng ta tìm hiểu thêm về đặc điểm của mối quan hệ này.
Nh đã đề cập ở trên, về cơ bản mối quan hệ giữa công ty chứng khoán
và khách hàng là mối quan hệ giữa thân chủ và đại diện. Rowlatt, tác giả của
cuốn Chức năng của các công ty môi giới và tự doanh chứng khoán (Xuất
bản năm 1991) đã mô tả rất rõ về các chức năng của công ty môi giới chứng
khoán. Theo ông, công việc của một ngời môi giới chứng khoán là mua và
bán hàng hóa trên thị trờng. Trên thực tế, ngời môi giới đó không kỳ vọng
là bản thân anh ta phải trả tiền cho số hàng hóa đó hay tự phải chịu trách
nhiệm cuối cùng để hoàn thành giao dịch đó bởi vì anh ta mua hoặc bán cho
thân chủ của mình - ngời mà anh ta cho là phải chịu trách nhiệm cuối cùng.
Ngời môi giới chứng khoán đợc hởng hoa hồng từ thân chủ.
Rõ ràng, khi khách hàng yêu cầu công ty chứng khoán thực hiện việc
mua hoặc bán chứng khoán thì công ty chứng khoán đó đóng vai trò là một
đại diện và khi đó các quy định pháp luật đợc áp dụng trong mối quan hệ
này. Trong trờng hợp đơn giản này, nghĩa vụ và quyền lợi của cả hai bên phải
đợc tuân thủ: trách nhiệm của công ty chứng khoán là thực hiện đúng, đầy
đủ, hợp pháp các lệnh do khách hàng đa ra và công ty chứng khoán có lợi ích
từ khoản hoa hồng đợc hởng, ngoài ra công ty chứng khoán còn giúp củng
cố lòng tin của khách hàng nói riêng và công chúng đầu t nói chung đối với
hoạt động công khai, minh bạch của thị trờng. Trong khi đó, khách hàng có
nghĩa vụ tuân thủ các quy định về giao dịch, tôn trọng các cam kết trong hợp
đồng giữa khách hàng và công ty theo quy định của pháp luật, đóng góp đầy
đủ các khoản phí hoa hồng, phí và lệ phí khác theo quy định và khách hàng có
lợi ích từ các dịch vụ t vấn, môi giới, bảo lãnh phát hành của công ty và từ
các khoản đầu t của mình.

17
Tuy nhiên trong một số trờng hợp khác, một công ty chứng khoán
không chỉ thực hiện nghiệp vụ t vấn và môi giới cho khách hàng mà còn thực

khách hàng, thì công ty tự mình chịu rủi ro. Nói cách khác, nếu công ty chứng
khoán thực hiện yêu cầu của khách hàng, dù trong trờng hợp các quyết định
của khách hàng không phù hợp với lợi ích thực tế, khách hàng không có lý do
gì để phàn nàn. Do đó, thí dụ, khi các trờng hợp thay đổi giữa thời gian nhận
lệnh và thời gian công ty môi giới chứng khoán thực hiện lệnh, công ty nên
luôn cố gắng liên hệ với khách hàng để nhận đợc các yêu cầu chỉnh đổi của
họ.
Nếu công ty không thực hiện các yêu cầu của khách hàng, công ty sẽ
không có quyền nhận tiền hoa hồng và có thể mất quyền bồi thờng cho các
nhiệm vụ trên cơ sở đại diện của khách hàng, có thể chịu trách nhiệm với
khách hàng đối với những thiệt hại gây ra. Ngoài ra, công ty chỉ đợc phép
thực hiện các giao dịch khi và chỉ khi có sự đồng ý của khác hàng.
Lập thông báo giao dịch
Một công ty chứng khoán phải thông tin bất cứ giao dịch nào thực hiện
trên cơ sở đại diện của khách hàng thờng trực các quy định đều chỉ ra việc
thông báo giao dịch nh thế nào, hình thức thông báo và nội dung thông báo.
Không cạnh tranh với khách hàng
Công ty chứng khoán, cũng nh các công ty khác, đều có các lợi ích tài
chính của mình theo luật pháp. Tuy nhiên, khi lợi ích của công ty mâu thuẫn
với lợi ích của khách hàng, luật thờng có các giới hạn rất nghiêm ngặt cho
việc họ theo đuổi các lợi ích riêng đó.
Công ty chứng khoán có trách nhiệm thành thật đối với khách hàng để
tránh các khả năng mâu thuẫn hay mâu thuẫn thực sự giữa trách nhiệm và lợi
ích khi công ty chứng khoán giao dịch với khách hàng, công ty phải thực hiện
với sự thành thật tuyệt đối và phải hoàn toàn công khai tất cả các trờng hợp

19
quan trọng và tất cả sự việc công ty coi đó là có liên quan tới giao dịch, ảnh
hởng tới sự tham gia của khách hàng.
Khi hoạt động nh một đại diện, công ty chứng khoán nên đặt lợi ích

phép nhận dạng tài sản của khách hàng. Công ty chứng khoán không đợc
dùng chứng khoán của khách hàng làm vật thế chấp để vay vốn trừ trờng hợp
đợc khách hàng đồng ý bằng văn bản. Các tài khoản lãi và lỗ và bảng cân đối
kế toán phải đợc chuẩn bị tốt và điều chỉnh theo thực tế. ở các nớc, bộ phận
giám sát thị trờng của các sở giao dịch hay thực hiện các kiểm toán bất ngờ
đối với công ty chứng khoán và đến công ty chứng khoán để xác minh và
kiểm tra các ghi chép kế toán của họ.
Mâu thuẫn lợi ích
Nhìn chung, các mâu thuẫn có thể phát sinh giữa công ty chứng khoán
và khách hàng trong 3 loại hình kinh doanh chứng khoán: giao dịch, môi giới,
bảo lãnh phát hành do một công ty chứng khoán thực hiện. Trong mỗi trờng
hợp, điều quan trọng là nhận ra mâu thuẫn và trách nhiệm của công ty chứng
khoán.
- Công ty chứng khoán trong sự cạnh tranh với khách hàng:
+ Mâu thuẫn: Công ty mua và bán trớc khách hàng và có đợc giá tốt
hơn so với khách hàng.
+ Giải quyết: Công ty chứng khoán phải u tiên lệnh của khách hàng.
- Công ty chứng khoán hoạt động nh một thân chủ đối với khách
hàng:
+ Mâu thuẫn: Lợi ích của công ty chứng khoán để đạt đợc giá tốt nhất
cho bản thân công ty có thể mâu thuẫn với trách nhiệm của công ty trong việc
có đợc giá tốt nhất đối với khách hàng. Khách hàng có thể có khả năng mua/
bán chứng khoán với giá tốt hơn ở một nơi nào khác.

21
+ Giải quyết: Công ty phải công khai việc công ty hoạt động nh một
thân chủ. Ngay các mâu thuẫn lợi ích tiềm năng công ty cũng phải nhận ra và
công khai hoàn toàn về lợi ích và khả năng lợi ích trong giao dịch.
- Công ty chứng khoán là ngời bảo lãnh phát hành cổ phiếu và có
thể đại diện cho khách hàng mua cổ phiếu:

bằng tiếng Anh là fiduciary relationship. Nếu hiểu theo nghĩa thông thờng,
đó là mối quan hệ cẩn thận hay thận trọng, nhng hiểu trong khung cảnh
của vấn đề chúng ta quan tâm, nó có một ý nghĩa sâu sa và nhân bản hơn: đó
là tận tuỵ, trách nhiệm cao.
Các trách nhiệm mang tính đạo đức nghề nghiệp đợc thể chế hóa dới
các hình thức là các qui chế trong Bộ Đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức tự
quản mà các công ty chứng khoán - các thành viên của các tổ chức này - có
trách nhiệm phải tuân thủ trong khi tác nghiệp. Những qui định này đợc các
tổ chức tự quản xây dựng ra nhằm mục đích bảo vệ nhà đầu t cũng nh nâng
cao hiệu quả của ngành kinh doanh chứng khoán. Thông thờng thì các trách
nhiệm trong các bộ đạo đức nghề nghiệp có thể đợc chia thành bốn nhóm:
phải đảm bảo sự phù hợp, không đợc lạm dụng khách hàng thực hiện hành vi
churning, trách nhiệm giám sát, và phải đảm bảo t cách, đạo đức nghề
nghiệp.
Đảm bảo sự phù hợp:
Các nhà môi giới chỉ đợc phép t vấn cho khách hàng những loại
chứng khoán phù hợp với họ, dựa theo mục đích đầu t cũng nh khả năng
đầu t, tình hình tài chính của nhà đầu t. Bằng cách này, các công ty chứng
khoán, một mặt sẽ hạn chế bớt những rủi ro có thể xảy ra đối với khách hàng,
mặt khác cũng đảm bảo không biến thị trờng chứng khoán trở thành những
sòng bạc đối với các khách hàng không tự lợng đợc sức mình. Nh vậy,
trớc khi đa ra t vấn cho khách hàng, công ty chứng khoán phải tìm hiểu kỹ
mục đích đầu t của khách hàng, kiến thức và kinh nghiệm trong việc kinh
doanh các chứng khoán, tình hình tài chính và các thông tin khác để xem xét

23
và khẳng định tính thích hợp đối với khách hàng về giao dịch đợc t vấn thực
hiện. Công ty chứng khoán cũng phải công khai với khách hàng các rủi ro
tiềm ẩn liên quan tới yêu cầu của khách hàng và đảm bảo rằng khách hàng có
kiến thức và kinh nghiệm để đánh giá rủi ro này, có khả năng tài chính để chịu

nếu nh anh ta tìm đợc một khách hàng quen thuộc muốn mua lợng chứng
khoán này thì nhà môi giới kia cũng không nên thu một mức phí hoa hồng cao
hơn bình thờng (cho dù nh anh ta có thể làm thế đợc). Hoặc, nhà môi giới
không đợc phép lợi dụng sự hiểu biết của khách hàng trục lợi bằng cách đặt
nhờ một số lệnh cho cá nhân mình xen kẽ giữa các lệnh của khách hàng hoặc
thực hiện hành vi mua nẫng tay trên (front-running) của khách hàng. Trách
nhiệm này thờng đợc nới rộng ra, và các công ty chứng khoán thờng phải
có trách nhiệm tạo thơng vụ tốt nhất cho khách hàng, cụ thể: nếu công ty
môi giới chứng khoán có thể mua với giá thấp hơn giá đa ra của khách hàng,
và nếu có thể bán với giá cao hơn giá đặt ra, thì công ty nên thực hiện cho
khách hàng.
Một công ty chứng khoán nên có sự cẩn trọng, kỹ năng và cả sự siêng
năng, mẫn cán trong việc thực hiện các nhiệm vụ của mình, u tiên thực hiện
lệnh của khách hàng theo thứ tự mà công ty đợc nhận, không kể đến đó là
khách hàng cá nhân hay tổ chức.
Ngoài các trách nhiệm trên, công ty chứng khoán phải hết sức trung
thực, quan tâm và phải có trách nhiệm đối với các danh mục đầu t của khách
hàng. Công ty chứng khoán phải thờng xuyên cập nhật cho khách hàng
những thông tin thị trờng có ảnh hởng đến quyền lợi của khách hàng và
phải có những hành động bảo vệ quyền lợi khách hàng một cách chủ động và
tự nguyện trong mọi tình huống. Công ty chứng khoán phải luôn đặt lợi ích
của khách hàng lên trên lợi ích cá nhân. Bởi vì xét về bản chất thì lợi ích của
khách hàng cũng sẽ là lợi ích của các công ty chứng khoán, nói đúng hơn, đó
là nguồn sinh lợi cho công ty chứng khoán.

25

Trích đoạn Quyền của công ty chứng khoán Quản lý cấp phép kinh doanh
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status