đánh giá thực trạng rừng trồng sản xuất ở huyện kỳ sơn tỉnh hòa bình làm cơ sở đề xuất các giải pháp phát triển bền vững - Pdf 24

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

TS. Nguyễn Huy Sơn THÁI NGUYÊN - 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PHẠM ĐÌNH SÂM
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG RỪNG TRỒNG SẢN XUẤT Ở


Trang

MỞ ĐẦU
1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
3
1.1
Trên thế giới
3
1.1.1
Nghiên cứu về lập địa và chọn loài cây trồng
3
1.1.2
Nghiên cứu về giống cây rừng
4
1.1.3
Nghiên cứu về các biện pháp KTLS tác động
5
1.1.4
Nghiên cứu về chính sách và thị trường
7
1.2
Ở Việt Nam
7
1.2.1
Nghiên cứu về chọn loài cây trồng
8
1.2.2

24
2.1.4
Thổ nhưỡng
24
2.1.5
Hiện trạng đất đai, tài nguyên rừng
25
2.2
Điều kiện kinh tế - xã hội
26
2.2.1
Dân số, dân tộc, lao động
26

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

ii
2.2.2
Tổ chức ngành lâm nghiệp
27
2.2.3
Cơ sở hạ tầng, đường giao thông
28
2.2.4
Giáo dục
28
2.2.5
Thu nhập kinh tế chủ yếu
29
2.3

30
3.3
Nội dung nghiên cứu
31
3.3.1
Quá trình phát triển rừng trồng sản xuất ở huyện Kỳ Sơn
31
3.3.2
Đánh giá thực trạng rừng trồng sản xuất tại huyện Kỳ Sơn
31
3.3.3
Đánh giá khả năng sinh trưởng của các loài cây trong các mô
hình điển hình

31
3.3.4
Đánh giá hiệu quả của các mô hình điển hình
31
3.3.5
Tình hình chế biến sử dụng gỗ và thị trường tiêu thụ sản
phẩm

31
3.3.6
Đề xuất các giải pháp phát triển
31
3.4
Phương pháp nghiên cứu
32
3.4.1

4.2.1
Mục tiêu trồng rừng sản xuất
39
4.2.2
Diện tích rừng trồng sản xuất
41
4.2.3
Cơ cấu loài cây trồng rừng sản xuất
46
4.2.4
Kỹ thuật trồng rừng sản xuất
47
4.2.5
Về cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện
50
4.3
Đánh giá khả năng sinh trưởng của các loài cây trong các mô
hình điển hình

62
4.3.1
Về tỷ lệ sống
62
4.3.2
Về sinh trưởng và năng suất sinh khối
65
4.4
Đánh giá hiệu quả của các mô hình điển hình
68
4.4.1


iv
4.6.3
Giải pháp về xã hội
85

Chƣơng 5: KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ
86
5.1
Kết luận
86
5.2
Tồn tại
88
5.3
Kiến nghị
88

TÀI LIỆU THAM KHẢO
89

PHỤ LỤC
D
1.3

Đường kính trung bình tại vị trí 1,3m
∆D
1.3

Tăng trưởng bình quân hàng năm về đường kính tại vị trí 1,3m
Dt
Đường kính tán trung bình
∆Dt
Tăng trưởng bình quân hàng năm về đường kính tán
FAO
Tổ chức Nông lương thế giới
GĐGR
Giao đất, giao rừng
Hvn
Chiều cao vút ngọn trung bình
∆Hvn
Tăng trưởng bình quân hàng năm về chiều cao vút ngọn
KHLN
Khoa học lâm nghiệp
KTLN
Kinh tế lâm nghiệp
KTLS
Kỹ thuật lâm sinh
LSNG
Lâm sản ngoài gỗ
MH
Mô hình

Thang điểm độ dốc và thành phần cơ giới đất
33
3.2
Thang điểm độ tàn che và độ che phủ của rừng trồng
34
3.3
Tổng hợp điểm cấp phòng hộ của rừng trồng
34
4.1
Mục tiêu trồng rừng sản xuất của huyện Kỳ Sơn
40
4.2
Diện tích rừng và đất lâm nghiệp của tỉnh Hòa Bình
41
4.3
Diện tích rừng và đất lâm nghiệp phân theo chức năng
42
4.4
Diện tích rừng sản xuất phân theo chủ quyền
43
4.5
Diện tích rừng và đất lâm nghiệp chia theo xã
44
4.6
Cơ cấu loài cây trồng rừng sản xuất của huyện Kỳ Sơn
46
4.7
Kỹ thuật áp dụng cho trồng rừng của dự án 661
48
4.8

Điểm đo khả năng phòng hộ của các mô hình
75
4.19
Các cơ sở chế biến và sử dụng gỗ rừng trồng huyện Kỳ Sơn
76
4.20
Phân loại nguyên liệu, sản phẩm gắn với thị trường
79

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

vii
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình
Nội dung
Trang
3.1
Sơ đồ các bước nghiên cứu của đề tài
32
4.1
Ảnh MH Keo lai thuần loài (7 tuổi) tại xã Dân Hạ, huyện Kỳ
Sơn

63
4.2
Ảnh MH Keo tai tượng thuần loài(7 tuổi) tại xã Phúc Tiến
64
4.3
Ảnh MH Bạch đàn Urophylla thuần loài (7 tuổi) tại xã Dân

MỞ ĐẦU
Rừng trồng sản xuất có vị trí chiến lược rất quan trọng trong phát triển
lâm nghiệp ở nước ta. Ngoài việc góp phần đáng kể vào việc nâng độ che phủ
của rừng thì RSX còn là nguồn cung cấp gỗ chủ yếu cho các ngành chế biến,
đồng thời góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho hàng triệu
hộ dân sống trong rừng và gần rừng. Với vị trí đó, trong nhiều thập kỷ qua,
Chính phủ và ngành lâm nghiệp đã có nhiều chủ trương chính sách nhằm đẩy
mạnh trồng rừng nói chung và RSX nói riêng nhằm phấn đấu cung cấp đủ
nhu cầu gỗ nguyên liệu tiêu dùng trong nước và góp phần nâng độ che phủ
của rừng lên 43% như thời kỳ năm 1943. Điển hình là Chương trình trồng
rừng 327 sau đó là dự án trồng mới 5 triệu ha rừng được Quốc hội khoá X, kỳ
họp thứ 2 đã thông qua và Chính phủ đã có Quyết định phê duyệt số
661QĐ/TTg ngày 29/7/1998, theo đó nhiệm vụ chủ yếu của dự án là đến năm
2010 trồng mới được 5 triệu ha rừng. Trong đó, 2 triệu ha là rừng phòng hộ,
đặc dụng và 3 triệu ha là RSX. Để đạt được mục tiêu của Dự án đề ra, nhiều
chủ trương, chính sách, giải pháp đã được Chính phủ, ban ngành liên quan
được ban hành và triển khai trong cả nước, như việc quản lý quy hoạch đất
lâm nghiệp, vốn đầu tư, chính sách đầu tư và tín dụng, chính sách hưởng lợi
và tiêu thụ sản phẩm, về khoa học công nghệ, v.v Nhờ đó diện tích rừng
trồng của cả nước đã tăng lên đáng kể, từ năm 1990 mới có 745.000ha rừng
trồng, đến 1995 tăng lên 1.050.000 ha, năm 2000 là 1.638.000ha và đến năm
2004 đã đạt 2.219.000ha. Tính đến 31/12/2009 cả nước đã có 13.258.843ha
rừng, trong đó có 2.919.538ha rừng trồng, độ che phủ đạt 39,1%.
Tuy nhiên, việc phát triển rừng trồng sản xuất vẫn còn nhiều hạn chế,
chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng của các cơ quan quản lý lẫn nhà
đầu tư vào trồng rừng. Theo đánh giá của Bộ NN &PTNT, nhiệm vụ trồng
RSX còn rất lớn, nhưng kết quả thực hiện được rất thấp, do một số nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên



1.1. Trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu về lập địa và chọn loài cây trồng
Kết quả nghiên cứu của Pandey.D (1983) [43] về loài Bạch đàn
Eucalyptus camaldulensis được trồng trên các điều kiện lập địa khác nhau đã
cho thấy nếu trồng ở vùng nhiệt đới khô với chu kỳ kinh doanh từ 10-20 năm
thì năng suất chỉ đạt từ 5-10 m
3
/ha/năm, nhưng trồng ở vùng nhiệt đới ẩm thì
năng suất có thể đạt tới 30 m
3
/ha/năm.
Khi đánh giá khả năng sinh trưởng của loài Thông Pinus patula ở
Swziland, Julian Evans (1992) [38] đã chứng minh khả năng sinh trưởng về
chiều cao của loài Thông này có quan hệ khá chặt (R=0,81) với các yếu tố địa
hình và đất thông qua phương trình tương quan sau: Y = -18,75 + 0,0544x3 -
0,000022x32 + 0,0185x4 + 0,0449x5 + 0,5346x11
Trong đó: Y: Chiều cao vút ngọn tại thời điểm 12 tuổi (m);
x3: Độ cao so với mặt nước biển (m);
x4: Độ dốc chênh lệch giữa đỉnh đồi và chân đồi (%);
x5: Độ dốc tuyệt đối của khu trồng rừng (%);
x11: Độ phì của đất đã được xác định
Từ các kết quả nghiên cứu của các tác giả trên thế giới về điều kiện lập
địa đã cho thấy việc xác định vùng trồng và điều kiện lập địa phù hợp với
từng loài cây trồng là rất cần thiết và đây cũng chính là một trong những yếu
tố quan trọng quyết định đến năng suất và chất lượng của rừng trồng.


– 40 m
3
/ha/năm, giống Bạch đàn E.urophylla
đạt trung bình tới 55 m
3
/ha/năm, có nơi lên tới 70 m
3
/ha/năm (Campinhos và
Ikemori, 1988) [37]. Tại công ty Aracrug ở Brazil đã sử dụng giống Bạch đàn
lai giữa E. grandis với E. urophylla, trồng rừng bằng hom và áp dụng các biện
pháp KTLS tích cực đã đưa năng suất trồng rừng Bạch đàn lên tới 70
m
3
/ha/năm .
Đối với cây Keo lai tự nhiên giữa Acacia mangium và Acacia
auriculiformis được phát hiện đầu tiên vào những năm 1970 ở Sabah,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

5
Malaysia. Những cây lai này ở Ulu Kukut đã thấy có kích thước lớn hơn,
dạng cành và thân tròn đều hơn các cây Keo tai tượng đứng gần. Ngoài ra,
còn có dấu hiệu cho thấy tỷ trọng gỗ và một số tính chất của cây lai cao hơn
hẳn cây mẹ Keo tai tượng (Rufelds, 1987) [45]. Theo Pinso và Nasi (1991)
[44] Keo lai giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm được phát hiện lần đầu tiên ở
Sook Telupid thuộc bang Sabah, Malaysia. Cây Keo lai đã được Pedley (Bảo
tàng thực vật bang Queensland) khẳng định vào năm 1977. Từ đó, người ta
thường thấy Keo lai xuất hiện trong các khu rừng trồng Keo tai tượng thu hạt
từ Ulu Kurut của Malaysia nơi có lai giống tự nhiên giữa hai loài.
1.1.3. Nghiên cứu về các biện pháp KTLS tác động

năm thứ nhất. Bón phân Phosphate cho Thông caribe ở Cu Ba, Herrero và
cộng sự (1988) [39] đã nâng cao sản lượng rừng sau 13 năm trồng từ 56 m
3
/ha
lên 69 m
3
/ha,… Những kết quả nghiên cứu trên cho thấy biện pháp bón phân,
thời gian bón phân, loại phân bón có ảnh hưởng khá rõ rệt đến năng suất rừng
trồng.
1.1.3.3. Ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng của rừng trồng
Mật độ trồng rừng ban đầu là một trong những biện pháp KTLS quan
trọng có ảnh hưởng khá rõ đến năng suất rừng trồng. Vấn đề này đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu với nhiều loài cây khác nhau trên các dạng lập
địa khác nhau, điển hình như: Công trình nghiên cứu của Evans, J. (1992)
[38], tác giả đã bố trí 4 công thức mật độ trồng khác nhau (2.985; 1.680;
1.075 và 750 cây/ha) cho Bạch đàn E.deglupta ở Papua New Guinea, số liệu
thu được sau 5 năm trồng cho thấy đường kính bình quân của các công thức
thí nghiệm tăng theo chiều giảm của mật độ, có nghĩa là rừng trồng ở mật độ
thấp tuy tăng trưởng về đường kính cao hơn nhưng trữ lượng gỗ cây đứng của
rừng vẫn còn nhỏ hơn những công thức trồng mật độ cao.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

7
Như vậy, mật độ trồng ảnh hưởng khá rõ đến năng suất, chất lượng sản
phẩm và chu kỳ kinh doanh, vì thể cần phải căn cứ vào mục tiêu kinh doanh
cụ thể để xác định mật độ trồng cho thích hợp.
1.1.4. Nghiên cứu về chính sách và thị trường
Theo nghiên cứu của Thomas Enters và Patrick B. Durst (2004) [47],
để phát triển trồng rừng sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao, ngoài sự tập trung

1.2.1 Nghiên cứu về chọn loài cây trồng
Chọn loài cây trồng là một vấn đề hết sức quan trọng trong công tác
trồng rừng, nó có tính quyết định đến năng suất, chất lượng và sự thành bại
của rừng trồng trong tương lai. Do vậy, trong nhiều thập kỷ qua việc nghiên
cứu lựa chọn tập đoàn cây trồng phù hợp cho các vùng kinh tế lâm nghiệp
trong cả nước và trên từng lập địa cụ thể đã được ngành Lâm nghiệp và các
nhà khoa học quan tâm giải quyết:
Từ năm 1978, để kịp thời phục vụ cho nhiệm vụ trồng rừng và phát
triển lâm nghiệp của cả nước sau khi miền nam hoàn toàn giải phóng, Bộ Lâm
nghiệp (nay là Bộ NN & PTNT) đã có văn bản quy định về các loài cây dùng
để trồng rừng cho các tỉnh. Tuy nhiên, do hoàn cảnh đất nước mới thống nhất,
quy định về cây trồng rừng chủ yếu mới chỉ dựa vào kết quả đạt được từ kinh
nghiệm sản xuất lâm nghiệp của các tỉnh phía Bắc là chính, do đó cơ sở khoa
học và căn cứ thực tiễn còn nhiều hạn chế.
Đến năm 1985, trong công trình nghiên cứu: “Bước đầu xác định cây
trồng rừng cho các vùng KTLN” của G.S Nguyễn Xuân Quát - Viện KHLN
Việt Nam [20]. Nhóm tác giả đã đề xuất 92 loài cây trồng rừng trên 9 vùng
với 5 tiêu chí lựa chọn:
1. Đáp ứng được mục tiêu kinh doanh lâm nghiệp của vùng hoặc địa
phương.
2. Phù hợp với hoàn cảnh sinh thái và điều kiện lập địa nơi trồng hay nơi
phát triển.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

9
3. Đã có quy trình hay hướng dẫn kỹ thuật hoặc tối thiểu cũng phải có kinh
nghiệm và đã được phát triển trong sản xuất có kết quả, cũng như đã được mô
hình hoá với quy mô đủ lớn trên thực địa.
4. Có nguồn giống đảm bảo được nhu cầu phát triển về số lượng và chất

rừng, gồm 12 loài; (+) Nhóm II là nhóm các loài bản địa lá rộng tạo thế bền
vững môi trường rừng, gồm 15 loài; (+) Nhóm III là nhóm các loài cây cho
LSNG, gồm 7 loài; (+) Nhóm IV là nhóm các loài cây dự kiến cho tương lai,
gồm 3 loài.
Với những thành quả nghiên cứu đạt được, Bộ NN &PTNT đã có quyết
định số 16/2005/QĐ-BNN ngày 15/3/2005 về quy định danh mục các loài cây
cho trồng RSX theo 9 vùng sinh thái lâm nghiệp trong toàn quốc.
1.2.2. Nghiên cứu về lập địa
Lập địa được hiểu là những điều kiện ở nơi sinh trưởng của thực vật.
Các yếu tố hình thành lập địa quyết định tạo nên thực trạng rừng khác nhau và
ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng rừng. Bởi vậy, trong nhiều năm qua để
phục vụ công tác trồng rừng, nhiều công trình nghiên cứu về lập địa đã được
thực hiện trên phạm vi cả nước. Có thể điểm qua một số công trình chủ yếu
như sau:
Hoàng Xuân Tý (1976-1980) [32], đã thực hiện Đề tài “Đánh giá tiềm
năng và hướng dẫn sử dụng đất vùng Trung tâm trong kinh doanh rừng
nguyên liệu giấy”. Kết quả cho thấy có năm nhân tố thổ nhưỡng ảnh hưởng rõ
rệt nhất đối với năng suất rừng trồng là: hàm lượng mùn, hàm lượng đạm, độ
xốp, chế độ nước và độ dày tầng đất, tác giả cũng cảnh báo rằng cả năm nhân
tố này đều dễ dàng thay đổi, rất rễ suy thoái do mất rừng và sử dụng đất
không hợp lý.
Đỗ Đình Sâm, Nguyễn Ngọc Bình và các cộng sự (1990-1995) [24] khi
thực hiện đề tài “Đánh giá tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp và hoàn thiện
phương pháp điều tra lập địa” đã chỉ ra rằng độ phì đất và tiềm năng sản xuất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

11
đất lâm nghiệp nhìn chung còn khá nhưng thực tế chưa được phát huy, sử
dụng đất có nơi chưa bền vững. Cần có quy hoạch và xây dựng chiến lược

thấy ảnh hưởng của rừng trồng Bạch đàn, Keo lá tràm, Keo tai tượng tới môi
trường đất phụ thuộc vào điều kiện đất đai, khí hậu nơi trồng; các yếu tố dễ
biến động là dung trọng, độ xốp, hàm lượng mùn, vi sinh vật, chế độ ẩm trong
đất, Nhìn chung rừng Bạch đàn có tính chất lý học (dung trọng, độ xốp, ),
hoạt động vi sinh vật kém hơn so với rừng Keo; sự tích luỹ mùn trong đất
dưới rừng Bạch đàn ở những nơi đất ít thoái hoá có xu hướng cao hơn dưới
rừng trồng Keo và chưa có cơ sở kết luận trồng rừng Bạch đàn sẽ làm thoái
hoá mạnh môi trường đất.
Theo kết quả nghiên cứu của Triệu Văn Hùng, Dương Tiến Đức (2006)
[8], với việc lựa chọn các giống TBKT trên dạng lập địa là đất xám mùn trên
núi (Xh), có thể sử dụng các dòng Keo lai BV10, BV16, BV32; đất nâu vàng
trên đá mẹ Bazan nên dùng các dòng TB15, TB11,….
1.2.3. Nghiên cứu về giống cây rừng
Dù áp dụng các biện pháp KTLS tác động vào cây rừng ở mức độ thế
nào đi nữa nếu cây rừng không có giống tốt sinh trưởng nhanh, thích nghi với
điều kiện gây trồng thì không thể tạo ra năng suất cao. Vì vậy, nghiên cứu
nâng cao chất lượng giống là giải pháp hàng đầu khi áp dụng liên hoàn các
biện pháp KTLS trong trồng RSX. Trong chiến lược phát triển giống cây lâm
nghiệp giai đoạn 2006 – 2020 đã nêu rõ: Xây dựng ngành giống lâm nghiệp
hiện đại, đảm bảo cung cấp đủ giống có chất lượng cao phục vụ nhu cầu trồng
rừng, áp dụng khoa học công nghệ mới theo hướng sử dụng ưu thế lai. Đến
năm 2010 bảo đảm cung cấp 60% giống từ nguồn giống được công nhận,
trong đó 40% giống được tạo từ phương pháp vô tính để cung cáp cho trồng
rừng. Đến năm 2015 bảo đảm cung cấp 80% giống từ nguồn giống được công
nhận, trong đó 50% là giống vô tính [1].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

13
Trong một số năm gần đây, xu hướng các nghiên cứu chủ yếu tập trung

1.2.4. Nghiên cứu về các biện pháp KTLS tác động
Các biện pháp KTLS tác động nhằm nâng cao năng suất cây trồng ở
nước ta trong những năm gần đây rất được chú ý. Tuỳ theo đặc điểm loài,
điều kiện lập địa, điều kiện kinh doanh mà có những nghiên cứu khác nhau.
1.2.4.1. Ảnh hưởng của xử lý thực bì và làm đất đến sinh trưởng của rừng
trồng
Tuỳ vào điều kiện đất, loài cây trồng và phương thức trồng rừng mà đất
có thể được xử lý bằng nhiều phương pháp khác nhau.Thông thường sau khi
xử lý thực bì, đất được đào thành hố theo kích thước và mật độ thiết kế. Tuy
nhiên trong một số điều kiện nhất định, đất được xử lý bằng cách cày toàn
diện hoặc lên líp trước khi đào hố.
Thí nghiệm về lên líp trồng rừng được tiến hành tại Quảng Trị, trên
vùng đất cát nội đồng có lượng mưa trung bình năm đạt 2200-2800mm/năm
và thường hay bị ngập lụt vào mùa mưa (Nguyễn Thị Liệu, 2004) [13]. Thí
nghiệm được tiến hành với Keo lá tràm (A. auriculiforimis) và Keo lưỡi liềm
(A. crassicapar). Kết quả cho thấy sau 4,5 năm, lêp líp làm tăng một cách có
ý nghĩa về đường kính và chiều cao của Keo lưỡi liềm. Tuy nhiên, với Keo lá
tràm sự khác nhau rõ rệt chỉ xảy ra đối với đường kính. Kích thước líp thích
hợp để trồng Keo lưỡi liềm là cao 0,2m, rộng 4m và với Keo lá tràm là 0,2m
chiều cao và 1,5m chiều rộng.
Biện pháp KTLS tác động đầu tiên trong trồng rừng thì phương pháp
làm đất là chính. Ngoài những nghiên cứu làm đất thủ công trước kia, xu
hướng hiện nay được các nhà lâm sinh quan tâm đó là áp dụng cơ giới trong
làm đất. Trong nghiên cứu của Đỗ Đình Sâm và cộng sự (2001) [23], thông
qua thí nghiệm cày ngầm để trồng rừng Bạch đàn Urophylla trên đất thoái hoá
ở Phù Ninh - Phú Thọ cho thấy sau 8 năm tuổi năng suất cây đứng có thể đạt
16m
3
/ha/năm, nhưng nơi làm đất bằng thủ công chỉ đạt 5m
3

3
/ha/năm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

16
1.2.4.2. Ảnh hưởng của bón phân tới sinh trưởng của rừng trồng
Nhằm nâng cao sản lượng rừng trồng, từ đầu những năm 1990 phân
bón được sử dụng phổ biến trong trồng rừng tại Việt Nam. Do điều kiện khí
hậu và đất đai khác nhau giữa các vùng nên tùy vào loài cây trồng và đặc
điểm của đất mà phân bón được sử dụng với liều lượng và chủng loại khác
nhau. Các loại phân thông thường hiện đang được sử dụng là phân NPK, đạm,
lân, vôi bột, phân chuồng và phân vi sinh. Các công trình nghiên cứu về bón
phân cho cây lâm nghiệp được rất nhiều tác giả đề cập như sau:
Đỗ Đình Sâm và cộng sự (2001) [23] đã bố trí 14 công thức bón phân
khác nhau cho Keo lai trên đất phù sa cổ ở Đông Nam bộ, sau 2 năm tuổi cho
thấy Keo lai sinh trưởng tốt nhất ở những công thức bón từ 150-200 g NPK
kết hợp 100g phân vi sinh, trữ lượng cây đứng có thể đạt tới 26 m
3
/ha/năm.
Nguyễn Đình Hải (2003) [6] đã bố trí 8 công thức bón lót khác nhau
cho 3 giống Thông caribeae (P.caribeae var bahamensis; P.caribeae
varhondurensis và P.caribeae var hondurensis) trên đất nghèo xấu ở Cẩm
Quỳ (Hà Nội), kết quả cho thấy từ 14-36 tháng tuổi cả 3 giống Thông trên đều
sinh trưởng tốt ở công thức bón phân 200g P
2
0
5


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status