đẩy mạnh xuất khẩu lao động của công ty cổ phần cung ứng lao động và thương mại hải phòng – chi nhánh hà nội sang đài loan một cách bền vững - Pdf 24

MỤC LỤC
Official Development Assistance 4
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG XKLĐ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN CUNG ỨNG
LAO ĐỘNG VÀ THƯƠNG MẠI HẢI PHÒNG – CHI NHÁNH HÀ NỘI SANG
ĐÀI LOAN 3
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Bảng số Tên bảng Trang
1 Bảng 1.1 Số dân trong độ tuổi lao động từ năm 2004 – 2010 7
2 Bảng 1.2
Lao động nước ngoài phân theo quốc gia tại Đài Loan từ
năm 1990 – 1994
15
3 Bảng 1.3
Số liệu XKLĐ của Việt Nam sang Đài Loan từ 2006
– 2011
18
4 Bảng 1.4
Số liệu XKLĐ của Công ty HALASUCO – Chi
nhánh Hà Nội sang Đài Loan từ năm 2006 – 2011
20
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
STT Biều đồ số Tên biểu đồ Trang
1 Biểu đồ 1.1 Số dân trong độ tuổi lao động 8
2 Biểu đồ 1.2 Cơ cấu ngành kinh tế của Đài Loan 11
3 Biểu đồ 1.3 Số lao động nước ngoài tham gia vào các lĩnh vực
kinh tế
12
4 Biểu đồ 1.4 Số lao động các nước tại Đài Loan từ năm 2000 -
2004
15

Hỗ trợ phát triển chính thức
AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế
XKLĐ Xuất khẩu lao động
WB World Bank Ngân hàng thế giới
INTERSERCO Công ty dịch vụ lao động hợp
tác quốc tế
NXB Nhà xuất bản
SONA Công ty cung ứng nhân lực quốc
tế và thương mại
SOVILACO Công ty xuất khẩu lao động –
Thương mại và du lịch
TRACIMEXCO Công ty xuất nhập khẩu – hợp
tác đầu tư giao thông vận tải
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang là xu thế chung của toàn
thế giới và cũng là nhu cầu bức thiết của các quốc gia trên thế giới. Các quốc gia
muốn phát triển nhanh chóng về mọi mặt kinh tế - chính trị - văn hoá – xã hội…
thì bắt buộc phải tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam đã bắt đầu
công cuộc hội nhập từ năm 1992, mở đầu bằng việc nối lại quan hệ với các tổ
chức tài chính tiền tệ quốc tế như WB, IMF… Vào năm 1995, Việt Nam gia
nhập vào khối ASEAN, năm 1996 gia nhập khối AFTA, năm 1998 là thành viên
chính thức của khối APEC và tới năm 2007 Việt Nam là thành viên thứ 150 của
tổ chức thương mại thế giới WTO. Với những mốc quan trọng trên, Việt Nam
đã từng bước hội nhập trên cả ba phương diện: Đơn phương, song phương và đa
phương.
Tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu, Việt Nam đang thực
hiện chuyển đổi và đã thu được những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội quan
trọng, được cả cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Trong quá trình hội

cách bền vững” làm chuyên đề thực tập của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu nhằm nâng cao hoạt động xuất khẩu lao động của
công ty Cổ phần Cung ứng lao động và Thương mại Hải Phòng – Chi nhánh Hà
Nội trước những biến động to lớn của thị trường này.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Chỉ rõ thành tựu to lớn mà lĩnh vực XKLĐ của công ty HALASUCO đã đạt
được trong thời gian qua, những tồn tại và nguyên nhân của nó. Đồng thời, đề
xuất hệ thống giải pháp để nâng cao hoạt động XKLĐ của công ty HALASUCO
từ đó góp phần nâng cao năng lực XKLĐ trong công cuộc cạnh tranh trên thị
trường quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là tình hình xuất khẩu lao động của Công
ty Cổ phần Cung ứng lao động và Thương mại Hải Phòng – Chi nhánh Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: bài viết tập trung nghiên cứu tình hình xuất khẩu lao động
của Công ty Cổ phần Cung ứng lao động và Thương mại Hải Phòng – Chi nhánh
Hà Nội.
- Về thời gian: giai đoạn từ năm 2005 - 2011
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm
phương pháp luận. Đồng thời, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích
tổng hợp cũng được sử dụng để luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài các phần như lời nói đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, phụ
lục, đề tài gồm 2 chương:
Chương 1: Thực trạng XKLĐ của công ty HALASUCO - Chi nhánh Hà
Nội sang Đài Loan

nhánh HALASUCO tại Hà Nội được Sở kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội
cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động số 0113008099 cấp ngày 09/06/2005.
HALASUCO chi nhánh Hà Nội.
Địa chỉ: Số 2 – Ngõ tuổi trẻ - Hoàng Quốc Việt – Cầu Giấy – Hà Nội
Điện thoại: 04.755.3381
Fax: 04.755.3382
3
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ
HALASUCO là doanh nghiệp hàng đầu trong XKLĐ với chức năng, nhiệm
vụ chính là chuyên hoạt động trong lĩnh vực đưa lao động và chuyên gia Việt
Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Cụ thể là:
- Tư vấn chọn thị trường (nước đi XKLĐ) và ngành nghề phù hợp. Tùy
thuộc vào đặc điểm, tay nghề, trình độ của lao động mà công ty có những tư vấn
cụ thể về thị trường lao động phù hợp cũng như ngành nghề phù hợp nhất cho
lao động.
- Đào tạo ngoại ngữ và giáo dục định hướng cho người lao động tham gia
XKLĐ. Công ty có các trung tâm đào tạo ngoại ngữ giúp cho các lao động có
một lượng ngoại ngữ cần thiết để giao tiếp với mọi người cũng như đáp ứng
được nhu cầu làm việc tại nước ngoài. Ngoài ra công ty còn giáo dục định
hướng cho lao động ngay từ đầu. Những việc nên và không nên làm khi đi làm
việc tại nước ngoài, tạo một nền tảng cơ bản để người lao động có thể dễ dàng
hòa nhập với cuộc sống và công việc tại nước ngoài.
- Hướng dẫn làm thủ tục xuất cảnh: Làm hộ chiếu, khám sức khỏe, làm thủ
tục vay vốn ngân hàng… Tạo điều kiện thuận lợi cho lao động có thể xuất cảnh
và nhập cảnh dễ dàng và thuận lợi
Ngoài ra HALASUCO còn tham gia vào hoạt động du lịch lữ hành quốc tế,
tư vấn dịch vụ du học, đào tạo và tư vấn giới thiệu việc làm trong nước, kinh
doanh hàng hóa phục vụ tiêu dùng và sản xuất, dịch vụ vận tải thủy bộ.
1.1.3.Phương hướng hoạt động
Phương hướng hoạt động trong thời gian tới:

việc nhập cảnh của lao động nước ngoài cũng khá dễ dàng cũng như việc giải quyết
các trường hợp vi phạm, bỏ trốn cũng được giải quyết kịp thời và triệt để.
- Với tỷ giá hối đoái NT/USD là 34, Đài tệ cũng trở thành đồng tiền có mức
giá khá cao điều này đã tạo điều kiện cho người lao động cớ mức lương cao hơn
do đó sẽ thu hút được nhiều lao động hơn vào thị trường này.
- Lương cơ bản của lao động đã tăng lên 18.780 NT. Điều này đã tạo động
lực cho người lao động nước ngoài sang làm việc tại Đài Loan. Mức lương cơ
bản tăng sẽ làm cho thu nhập của người lao động nước ngoài tăng lên. Đồng thời
đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách nhà nước xuất khẩu.
1.2.2. Nhân tố thuộc về nhà nước Việt Nam
- Việt Nam là một quốc gia đang phát triển có tốc độ tăng dân số cao.
Nhiều lao động trở nên dư thừa do không có việc làm nhất là lao động ở nông
thôn. Tận dụng được lợi thế so sánh của quốc gia hơn nữa do nhu cầu đầu tư mở
rộng sản xuất, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và nguồn thu cho ngân sách nên
Việt Nam rất cần đưa lao động ra nước ngoài làm việc.
- Đang dần hoàn thiện các chính sách quản lý đối với lao động xuất khẩu ra
nước ngoài một cách thống nhất và đồng bộ.
- Việt Nam có nhiều công ty hoạt động trong lĩnh vực Cung ứng lao động
- Chính phủ Việt Nam có những biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp,
người lao động đi làm việc tại nước ngoài.
- Các văn phòng đại diện của các công ty tại nước ngoài kết hợp với Đại sứ
5
quán Việt Nam luôn bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động Việt Nam ở
nước ngoài.
1.2.3.Nhân tố thuộc về bản thân công ty và người lao động.
- Uy tín của công ty với người lao động trong nước cũng như đối với các
bạn hàng quốc tế là một nhân tố quan trọng thúc đẩy XKLĐ của chính công ty.
- Chất lượng nguồn lao động:
Ngày nay các nước nhập khẩu lao động truyền thống đang đổi mới đầu tư và
hiện đại hoá công nghệ sản xuất, chuyển dịch đầu tư tư bản sang các nước có giá

1.3.2. Đặc điểm của thị trường lao động Việt Nam
Cùng với những thay đổi trong đời sống kinh tế- xã hội sau gần 30 năm đổi
mới, thị trường lao động với tư cách là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ
thống thị trường các yếu tố sản xuất đã và đang được chính thức công nhận và
thể chế hóa bằng luật pháp. Tuy được công nhận cách đây không lâu nhưng thị
trường lao động nước ta đã và đang có những bước phát triển tích cực, tạo công
ăn việc làm cho người dân. Tuy nhiên, thị trường lao động Việt Nam vẫn còn
phải chịu những áp lực lớn về dân số và tăng cung lao động.
Theo quy định của Luật Lao Động Việt Nam độ tuổi lao động là từ 15 đến
60 đối với nam và từ 15 đến 55 đối với nữ. Theo thống kê của Bộ lao động
thương binh và xã hội, tính đến hết năm 2010, dân số của Việt Nam là 86,9277
triệu người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm trong giai đoạn 1999-2009 là
1,2%/năm, mỗi năm nước ta có khoảng 1,4 – 1,6 triệu người bổ sung vào lực
lượng lao động. Ước tính đến năm 2015, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động đạt
giá trị cực đại, chiếm tới 68,2% dân số, theo đó có 63,4 triệu người trong độ tuổi
lao động trên tổng số 94,3 triệu dân. Theo thông báo của Tổng cục Thống kê,
đến cuối năm 2011, dân số trung bình cả nước ước tính đạt 87,84 triệu người,
tăng 1,04% so với năm 2010. Theo dự báo dân số 2009 - 2049 với phương án
mức sinh trung bình, dân số Việt Nam sẽ đạt 95,3 triệu người vào năm 2019;
102,7 triệu người vào năm 2029 và 108,7 triệu vào năm 2049.
Bảng 1.1: Số dân trong độ tuổi lao động từ năm 2004 – 2010
(đơn vị: triệu người)
Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Tổng số dân
trong độ tuổi
lao động
43,009 44,905 46,239 47,160 48,209 49,322 50,393 51,39
Nam 21,948 23,493 24,614 23,946 24,709 25,655 25,897 26,008
Nữ 21,061 21,411 21,625 23,215 23,501 23,666 24,496 25,382
Nguồn: Tổng cục thống kê

được việc làm.
Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp đang thiếu lao động nhưng không sao
tuyển được đủ được. Nguyên nhân chính là xuất phát từ chất lượng nguồn lao
động. Thực tế cho thấy, lực lượng lao động chủ yếu của Việt Nam vẫn là lao
động giản đơn, khi có đến 65,3 % lao động không qua bất kỳ một trường lớp đào
tạo nào. Bên cạnh đó, những lao động có trình độ, tay nghề cao đã được đào tạo
hiện nay cũng chỉ đáp ứng được 15 - 20% yêu cầu của doanh nghiệp nhưng phải
tiếp tục đào tạo thêm 2-3 năm nữa, ngay cả đội ngũ sinh viên cũng chưa đáp ứng
được yêu cầu về số lượng, cơ cấu, trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp và hội
nhập kinh tế quốc tế. Thiếu khả năng tư duy, sáng tạo và tính chủ động trong
công việc là một trong những nhược điểm lớn nhất của lao động hiện nay. Hiện
nay Việt Nam đang thiếu hụt nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản
lý giỏi, công nhân lành nghề có tay nghề cao. Theo Tổng cục Dạy nghề, trong cơ
cấu lực lượng lao động của Việt Nam từ 2005 - 2020, tỷ lệ lao động qua đào tạo
nghề tuy có tăng qua các năm từ 19% năm 2005 (dân số 83 triệu người) đến 30-
32% năm 2010 (dự kiến); 45% năm 2015 và ước tính đạt 55% (dân số ước 98,5
triệu) vào năm 2020 nhưng vẫn rất thấp so với quy mô dân số và nhu cầu của thị
trường.
Năng suất lao động của người lao động Việt Nam thấp hơn các nước trong
khu vực rất nhiều. Năng suất lao động xã hội (tính bằng GDP theo giá thực tế
chia cho một lao động làm việc) của nước ta còn thua xa so với năng suất lao
động của nhiều nước khác. Cụ thể, hiện nay năng suất lao động của lao động
Việt Nam hiện thấp hơn Indonesia 10 lần, Malaysia 20 lần, Thái Lan 30 lần, và
Nhật Bản tới 135 lần. Dựa trên chỉ số cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế
thế giới, năm 2009 - 2010, Việt Nam chỉ xếp thứ 75/133 quốc gia về năng suất
lao động, trong khi đó vị trí của Singapore là 3, Malaysia 24, Thái Lan 36.
Theo báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, tổng số việc làm chỉ
đáp ứng được cho 75% tổng số lao động. Như vậy nghĩa là một phần tư số lao
động không thể tìm được việc làm ở trong nước. Thêm vào đó là khủng hoảng
kinh tế kéo dài từ năm 2008 đến nay đã khiến cho hàng loạt người lao động bị

GDP danh nghĩa của Đài Loan là 423 tỷ USD xếp thứ 23 trên thế giới. Tốc độ
tăng trưởng GDP năm 2010 là 10,5%, GDP bình quân đầu người là
18.700USD/người. Bước sang năm 2011, nền kinh tế Đài Loan vẫn trên đà phát
triển nhanh chóng với mức GDP bình quân đầu người là 21.592USD/người.
(Nguồn: IMF). Dự kiến Trong năm 2015, GDP bình quân đầu người của Đài
Loan theo giá hiện hành dự kiến sẽ là 731.040,74 Đài Tệ, thị phần của Đài Loan
trong tổng GDP của thế giới được dự báo là 1,02%.
10
Biểu đồ 1.2: Cơ cấu ngành kinh tế của Đài Loan
Nguồn: CIA World Factbook
Để giảm bớt tình trạng thiếu nhân lực, từ tháng 10 năm 1989, Đài Loan đã
nhận lao động từ bốn nước Indonesia, Thái Lan, Philippine, Malaysia,
Mongolia. Đến cuối năm 2004 tại Đài Loan có tổng số 314 034 lao động nước
ngoài làm việc tại ĐL nhiều hơn 13 882 người so với năm trước. Trong đó,
người lao động Thái Lan chiếm 33.53% (105,281 lao động) trong tổng số lao
động nước ngoài, người lao động Philippine chiếm 29.03% (91.150 lao động),
Việt Nam chiếm 28.74 % ( 90.241 lao động), Indonesia chiếm 8.69% (27,281
người). Nhiều hơn 32.628 lao động Việt Nam tăng 56.66%, lao động Philippine
tăng 9.795 người (tăng 12.04%, lao động Thái Lan tăng 553 người (tăng 0.53%)
so với năm 2003. Trong khi đó, số lao động Indonesia lại giảm 51.66% (tương
đương với 29,150 người). (Nguồn: CLA)
11
Biểu đồ 1.3: Số lao động nước ngoài tham gia vào các lĩnh vực kinh tế
(đơn vị: vạn người)
Nguồn: The Council of Labour Affairs (CLA)
Từ biểu đồ trên ta thấy số lao động nước ngoài vào làm việc tại Đài Loan
chủ yếu là ở lĩnh vực công nghiệp. Theo số liệu thống kê của Bộ Nội vụ - Hội
đồng đào tạo nghề, từ năm 1992, lao động nước ngoài chủ yếu tập trung trong
sản xuất, chiếm tỷ lệ lao động nước ngoài tại hơn 40%. Ngoài ra, hàng chục
ngàn lao động nước ngoài làm việc trong ngành công nghiệp xây dựng, hàng

động nước ngoài mỗi lần là 2 năm; khi hết hạn nếu muốn thuê tiếp, chủ được xin
gia hạn thêm 1 năm. Nếu những lao động làm việc tốt, không vi phạm pháp luật
trong 3 năm qua có thể được ký hợp đồng làm việc ở Đài Loan thêm 3 năm nữa
nhưng phải xuất cảnh về nước sau đó mới được tái nhập cảnh để làm việc.
1.4.2.2. Tiền lương
Tiền lương cơ bản cho mỗi lao động được tuyển dụng là 18.780 NT$/tháng
Tiền làm thêm giờ: Đối với lao động làm việc tại nhà máy, công trường làm
thêm 2 giờ trong ngày bình thường được trả thêm 33% lương mỗi giờ, làm thêm
các giờ tiếp theo được trả thêm 66% lương mỗi giờ. Làm thêm ngày chủ nhật,
ngày nghỉ lễ, nghỉ phép được trả lương gấp 2 lần ngày thường. Lao động giúp
việc gia đình và khán hộ công thì không được áp dụng chế độ trên. Nếu làm việc
thêm ngày chủ nhật sẽ được trả thêm theo thoả thuận ghi trong hợp đồng lao
động thường ở mức 528 Đài tệ/ngày.
1.4.2.3. Thời gian làm việc
a. Lao động trong nhà máy, công trường
Theo quy định tại Luật Tiêu chuẩn lao động của Đài Loan thì lao động trong
các cơ quan, công trường, xí nghiệp đều được áp dụng chế độ làm việc mỗi ngày
8 giờ và hưởng các quyền lợi theo quy định chung của luật này.
13
b. Lao động giúp việc gia đình và chăm sóc người già, người bệnh
Trong lĩnh vực giúp việc gia đình và khán hộ công trong bệnh viện và các
khu điều dưỡng, do tính chất đặc thù của công việc này là phải phục vụ nên
không thể áp dụng chế độ l mà 8 giờ/ngày. Thời gian làm việc, xin nghỉ, làm
thêm giờ (vào ngày chủ nhật) đều phải căn cứ theo hợp đồng do người lao động
ký với chủ thuê. Người lao động phải hoàn thành các công việc được chủ thuê
giao cho, hết việc trong ngày thì mới được nghỉ.
1.4.2.4. Bảo hiểm lao động
Đối với lao động làm việc tại nhà máy, công trường, xí nghiệp được chủ lao
động chịu tiền Bảo hiểm lao động 100%. Lao động giúp việc gia đình và khán
hộ công thì không bắt buộc tham gia bảo hiểm lao động. Đối với các trường hợp

Nguồn: Văn phòng kinh tế - văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc
Biểu đồ 1.4: Số lao động các nước tại Đài Loan từ năm 2000 - 2004
Nguồn: Văn phòng kinh tế - văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc
Theo bảng số liệu trên, trong những năm đầu tiếp nhận lao động nước ngoài
vào Đài Loan thì Thái Lan là quốc gia xuất khẩu lao động nhiều nhất qua các
năm. Kế đến là Philippine và Indonesia. Việt Nam do mới bắt đầu khai thác thị
trường Đài Loan nên số lượng là không lớn. Qua các năm kế tiếp Việt Nam
không ngừng tăng cường XKLĐ sang Đài Loan cả về chất và lượng. Qua biểu
15
đồ ta thấy năm 2003, 2004 Việt Nam đã vượt Indonesia về số lượng, và thu hẹp
khoảng cách một cách đáng kể với nước dẫn đầu là Thái Lan.
Trong hơn10 năm qua, Việt Nam đã đưa gần 200.000 lượt lao động sang làm
việc tại Đài Loan. Tính đến hết tháng 6/2011, số lao động Việt Nam có mặt tại
Đài Loan là 85.650 người, tăng 6.269 lượt người kể từ đầu năm 2011 và chiếm
21,43% trong tổng số lao động nước ngoài đang làm việc tại Đài Loan. Lao
động Việt Nam vẫn giữ vị trí thứ 2 trong tổng số 6 nước XKLĐ tại Đài Loan
(chỉ đứng sau Indonesia).
Cho tới nay đã có 158 doanh nghiệp Việt Nam chuyên doanh trong lĩnh vực
XKLĐ được phép cung ứng lao động cho Đài Loan. Trong số lao động Việt
Nam tại Đài Loan hiện nay thì số lao động làm việc trong lĩnh vực sản xuất chế
tạo vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất là 57,70% (44.594 người); tiếp đến là chăm sóc
người bệnh và giúp việc gia đình 41,02% (31.706 người); xây dựng 0,72% (554
người) và thuyền viên 0,56% (435 người).
Biểu đồ 1.5: Cơ cấu lao động Việt Nam tại Đài Loan phân
theo lĩnh vực sản xuất
Nguồn: Văn phòng kinh tế - văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc
Phần lớn lao động Việt Nam tập trung nhiều nhất ở Huyện Đào Viên là
14.683 người (19,00%); kế đến là Huyện Đài Bắc 10.840 người (14,03%);
Huyện Chương Hoá 8.143 người (10,54%); Huyện Đài Trung 7.845 người
(10,15%). Thu nhập của người lao động làm việc tại thị trường Đài Loan khoảng

thị trường này khá phù hợp cho đại bộ phận lao động khu vực nông thôn Việt
Nam. Năm 2006 Việt Nam đã xuất khẩu hơn 14.000 lao động sang Đài Loan, số
lượng này được tăng dần qua các năm tiếp theo. Tuy nhiên do vấp phải cuộc
khủng hoảng tài chính kinh tế, Đài Loan đã phải chịu không ít những hậu quả do
nó để lại nên lượng lao động của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này giảm
mạnh vào năm 2009. Trong năm 2008 và 6 tháng đầu năm 2009 vừa qua thị
trường này chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính thế giớilàm
cho một bộ phận lớn lao động nói chung và lao động Việt Nam nói riêng rơi vào
tình trạng thiếu việc làm (trong đó một bộ phận phải về nước mà không tiếp tục
gia hạn làm việc hoặc chưa hết hợp đồng lao động, một bộ phận bị chuyển sang
làm việc ở các cơ sở sản xuất và dịch vụ khác). Cùng với đó là một số nhà máy
hoạt động cầm chừng tuần làm 3 đến 4 ngày do thiếu việc làm, còn một số nhà
máy luôn trong tư thế sẵn sàng đưa lao động về nước nếu hoạt động sản xuất
kinh doanh không duy trì được ở mức tối thiểu. Tại một số nhà máy có mức thu
17
nhập khá, người lao động đành phải chấp nhận mức lương cơ bản trong những
tháng khó khăn để chờ thời cơ khi nhà máy có thêm những đơn đặt hàng mới.
Tuy nhiên đối với những cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ, gia công hàng hóa
cung cấp cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày thì ít bị ảnh hưởng bởi cơn bão tài
chính, vì vậy số lao động làm việc tại những cơ sở sản xuất này vẫn có việc làm
và thu nhập tương đối ổn định.
Nền kinh tế Đài Loan dần được phục hồi vào năm 2010 và từng bước thu hút
nhiều lao động của các nước vào làm việc trở lại trong đó có Việt Nam. Đầu
năm 2011, với sự kiện Việt Nam phải đưa 10.000 lao động đang làm việc tại
Libya về nước, tiếp đến là hàng loạt thị trường XKLĐ khu vực châu Phi và
Trung Đông cũng bị thu hẹp dần. Do đó Việt Nam sẽ tăng cường chú trọng hơn
vào các thị trường truyền thống như Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản và đặc biệt
là Đài Loan.
Bảng 1.3: Số liệu XKLĐ của Việt Nam sang Đài Loan từ 2006 – 2011
(Đơn vị tính: Người)

1năm thành lập năm 2006 số lượng lao động xuất khẩu sang Đài Loan là 685
người. Chủ yếu là ở các tỉnh phía Bắc, các tỉnh phụ cận quanh Hà Nội như: Phú
Thọ, Bắc Giang, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên Trong khi đó cả nước
có 14.127 người được xuất khẩu sang Đài Loan. Chiếm khoảng 4,8% lao động
xuất khẩu sang Đài Loan của cả nước. Cùng với sự phát triển và kinh nghiệm
tích lũy được trong các năm tiếp theo, hoạt động công tác XKLĐ, HALASUCO
- Chi nhánh Hà Nội đã đưa được số lượng lớn lao động sang làm việc tại Đài
Loan đóng góp một phần không nhỏ trong tổng số lao động Việt Nam xuất khẩu
sang Đài Loan. Cũng nhờ đó mà tạo ra không ít công ăn việc làm cho người lao
động, nâng cao thu nhập của hộ và giúp họ có một tiềm lực kinh tế vững chắc
hơn khi trở về nước. Tiếp tục trong các năm 2007, 2008 công ty đã không ngừng
tăng số lượng người lao động đi làm việc ở Đài Loan. Cụ thể năm 2007 công ty
đưa được 872 người trong khi cả nước là 23.640 người (chiếm 3.7%). Năm 2008
số lao động của công ty đi làm việc tại Đài Loan là 1017 người trong đó cả nước
là 31.631 người ( chiếm khoảng 3.2%)
Năm 2009, khủng hoảng kinh tế xảy ra, hoạt động XKLĐ của Chi nhánh Hà
Nội cũng theo xu thế của các công ty khác. Đài Loan ít tiếp nhận lao động nước
ngoài để tập trung phục hồi kinh tế sau khủng hoảng. Chính điều đó đã làm cho
số lượng lao động xuất khẩu sang Đài Loan giảm mạnh, cụ thể là giảm đi 29%
so với cùng kỳ năm 2008. Bất chấp mọi khó khăn của cuộc khủng hoảng, công
19
ty đã đưa đưa được 729 người sang Đài Loan. Trong khi đó cả nước là 21.677
người (chiếm khoản 3.3%). Số lượng lao động xuất khẩu năm 2009 này giảm
mạnh so với các năm trước đặc biệt là còn thấp hơn cả mức lao động năm 2007.
Mặc dù vẫn còn tác động xấu do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn
cầu, dưới nỗ lực hết mình của Chính phủ cũng như các doanh nghiệp và cá nhân
tại Đài Loan, nền kinh tế Đài Loan năm 2010 dần hồi phục và đi vào tăng
trưởng trở lại, do đó nhu cầu về nguồn lao động là rất lớn. Điều này đã tạo cơ
hội thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty
HALASUCO chi nhánh Hà Nội nói riêng Xuất khẩu lao động sang nước này.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status