nghiên cứu tuyển chọn và áp dụng một số biện pháp kỹ thuật trong sản xuất chuối tiêu xuất khẩu tại phú hộ - phú thọ - Pdf 24



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TRIỆU TIẾN DŨNG

NGHIÊN CỨU TUYỂN CHỌN VÀ ÁP DỤNG MỘT SỐ
BIỆN PHÁP KỸ THUẬT TRONG SẢN XUẤT CHUỐI
TIÊU XUẤT KHẨU TẠI PHÚ HỘ - PHÚ THỌ Chuyên ngành: Trồng trọt
Mã số: 60.62.01

Chuyên ngành: Trồng trọt
Mã số: 60.62.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đào Thanh Vân Thái Nguyên - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc

Người cảm ơn
Triệu Tiến Dũng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chuối là loại trái cây nhiệt đới được trồng phổ biến ở nhiều quốc gia và
vùng miền trên thế giới, đồng thời cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể trong
thương mại rau quả của toàn cầu, là cây có ưu thế xuất khẩu đứng đầu về khối
lượng và đứng thứ hai về kim ngạch, sau cam trong cơ cấu xuất khẩu trái cây
của thế giới. Đây cũng là loại hàng hóa nhạy cảm về kinh tế, chính trị, xã hội.
Theo đánh giá của FAO, tổng kim ngạch xuất khẩu chuối đạt 16,8 triệu tấn
vào năm 2006. Cùng với gạo, lúa mì, ngũ cốc, chuối cũng là một trong số
những mặt hàng chủ lực của nhiều nước đang phát triển.
Tuy nhiên, xuất khẩu chuối của một số nước sản xuất chính như Ấn
Độ, Braxin lại không cao. Trên thực tế thì chỉ có 1/5 số lượng chuối sản xuất
ra được dùng để xuất khẩu.
Ngành công nghiệp chuối đem lại nguồn thu nhập quan trọng, tạo nhiều
việc làm và góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu lớn cho những nước xuất
khẩu chuối chính trên thế giới, cả những nước đang phát triển ở Mỹ Latinh và
Caribean, cũng như là Châu Á và Châu Phi. Theo FAO, xuất khẩu chuối của
cả thế giới đạt được trên 5,8 tỷ USD một năm (theo thống kê năm 2006)
đã đem lại nguồn thu nhập lớn cho nhiều nước. Sự biến động về nguồn
cung chuối cho xuất khẩu và giá chuối có tác động lớn tới thu nhập của
người lao động trực tiếp trong ngành này, từ những hộ gia đình trồng

chuối trong cả nước là 96.000ha, năm 2004 là 102.091 ha và đến năm 2005
tăng lên là 103.400ha chiếm 13,4,% cây ăn quả trong cả nước. Cho đến năm
2005 sản lượng chuối 1.354,300 tấn .
Tuy có vai trò chiến lược như vậy, song cho đến nay công tác nghiên
cứu về cây chuối ở nước ta còn chưa đầy đủ và hệ thống, có thể nói chưa
xứng với vai trò kinh tế của nó trong sản xuất và xuất khẩu. Việc sản xuất ở
nước ta còn gặp một số khó khăn do chuối trồng phân tán, thu hoạch không
đồng đều, giống chuối quá đa dạng, năng suất, phẩm chất không ổn định. Để
có một giống tốt phục vụ cho xuất khẩu cần phải tiến hành nghiên cứu và
tuyển chọn giống có định hướng rõ rệt để quy hoạch sản xuất vùng trồng
chuối với số lượng lớn, tập chung có quy mô theo hướng sản xuất hàng hoá
đặc biệt cho xuất khẩu Chính vì thế, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
tuyển chọn và áp dụng một số biện pháp kỹ thuật trong sản xuất chuối tiêu
xuất khẩu tại Phú Hộ - Phú Thọ”.
2. Mục tiêu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
2.1. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của các giống chuối trong
tập đoàn VN1 tại Phú Hộ, Phú Thọ. Sơ bộ chọn ra một số giống có triển vọng
cho xuất khẩu và nội tiêu, phù hợp với điều kiện sinh thái Phú Thọ.
- Khảo nghiệm các giống có triển vọng và nhập nội, tìm ra các giống
chuối phục vụ cho việc sản xuất chuối thương mại ở miền Bắc Việt Nam.
- Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật thâm canh sản xuất chuối tiêu vụ đông
ở miền Bắc.
2.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

hưởng tốt đến năng suất, chất lượng chuối. Góp phần nâng cao sản lượng
chuối, tăng thu nhập cho người dân.
2. Đặc điểm thực vật học của cây chuối
Cây chuối nằm trong họ Musaceae là một trong 8 họ trong bộ gừng
Zingiberales (trước kia gọi là Csitaminales) [3].
Trong Bộ gừng, Musaceae là họ nguyên thủy nhất, chúng gồm những
cây thân thảo lớn có rễ, sống lâu năm, lá mọc xoắn ốc có bẹ lá ôm lấy nhau
tạo thành thân giả, phiến lá rất lớn. Cụm hoa mọc theo kiểu hoa tự bông vô
hạn được hình thành ở ngọn từ thân khí sinh. Trục mang hoa và thân thật
được mọc lên từ củ dưới lòng đất. Lá bắc lớn trong chứa từ 1 - 3 hàng hoa.
Những hoa ở gốc của cụm hoa là hoa cái, hoa ở giữa là hoa lưỡng tính, hoa
trên cùng là hoa đực. Bao hoa gồm 2 hoặc 3 vòng nhưng tạo thành 2 cánh,
cánh ngoài cùng được tạo bởi 3 đài đính liền với 2 cánh hoa và thường có
mầu vàng ươm hay mầu vàng nhạt, cánh hoa trong nằm đối diện với mảnh
ngoài thường ngắn, màu trong suốt và được hai mép của cánh ngoài bao phủ.
Có 5 nhị, bộ nhụy, lá noãn hợp bầu dưới, quả mọng, chứa nhiều hạt tuy nhiên
ở loài chuối trồng hạt thui đi rất sớm. [3]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Cheesman (1947 - 1950) [27] Bake và Simmonds (1951) [21]
Simmonds (1960 [57] đã đưa ra sơ đồ giới thiệu tổng quan.

Bảng 1.1: Các đặc điểm phân loại chuối
Bộ Ordo
Họ Family
Đặc điểm của họ

Lowiaceae
Gân chính song song, gân phụ
được nối với gân chính lá đài
dính nhau tạo hình ống cánh hoa
giữa hẹp, có mầu sắc.
Có 1 chi
Orechidantha

Costaceae
Chỉ có một nhị, bầu 3 ô nhiều
noãn
Chỉ có một chi
Costus

Zingiberaceae
Cây có chất thơm, lá xếp thành 2
dãy xoắn ốc. Bộ nhị hình cánh
hoa có một bao phấn 2 ô nhỏ.
Có khoảng 45 chi, 1 số
chi chính:
(Globa, Zingiber, Alpin,
Cureuma, Hedychium

Marantaceae
Lá không có mùi thơm, không
xếp xoắn ốc luôn tạo thành 2 dãy,
phiến lá hình gối, hoa rất hiếm
hoặc (không có) hoa rộng màu đỏ
sặc sỡ, chỉ có 1 nhị (hoặc ½) có
Có khoảng 25 chi

Eumusa và Rohdochilamys trong đó 2 phân chi đầu có số nhiễm sắc thể cơ sở
là X = 10, 2 phân chi sau có số nhiễm sắc thể cơ sở là X = 11 [76].
Austrilimusa là phân chi cổ nhất trong họ Musaceae, các cây M.testilis
và M.abaca chỉ sử dụng làm dây buộc, chúng chỉ có ý nghía về khía cạnh
nghiên cứu nguồn gốc của chuối, không có ý nghĩa về kinh tế.
Callimusa gồm chỉ một loài dùng làm cảnh do các lá bắc mầu đỏ tươi
Musacocinea.
Rohdochilamys tuy có số nhiễm sắc thể X = 11 nhưng có đặc điểm là
bông đứng và rất ít hoa trong mỗi lá bắc (từ 1 - 5 hoa). Cây chuối kiềng đỏ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Musa ornata roxb có lá bắc mầu hồng tím nhạt, hoa mầu vàng tươi, loại này
giống Calimusa chỉ trồng để làm cảnh.
Eumusa là một phân chi đáng chú ý nhất không chỉ vì nó lớn nhất,
phong phú về nòi nhất mà còn vì giá trị kinh tế của nó đặc biệt trong lĩnh vực
ăn tuơi và làm lương thực. Buồng quả của Eumusa ít nhiều cụp xuống, có thể
ngang hoặc hơi ngang, hay buồng thõng xuống, mỗi nải có số quả nhiều xếp
thành hai hàng. Trong Eumusa có các nòi chuối dại có thể không hoặc ít khi
có ích nhưng lại có giá trị trong lĩnh vực nghiên cứu về phân loại (ví dụ
Musabasjvo sicb, cây dùng để lấy sợi, chịu rét tốt có nguồn gốc ở các đảo cực
nam của Nhật Bản, có thể trồng được trong các vườn phía nam của nước
Pháp). Musa intinerans - cheesm có nguồn gốc ở Miến Điện với đặc điểm là
những cây con mọc rất xa những cây mẹ. Nhưng các nòi chuối ăn được theo
E.E Cheesman và học trò của ông là Simmonds và Shepherd cho rằng chúng
có nguồn gốc từ hai loài quan trọng nhất là M. acuminata colla và M.
balbisiana colla. Trải qua nhiều quá trình biến đổi chúng đã trở thành loài

nghiệp được phát triển sớm nhất ở Thái Bình Dương và Đông Nam Á (Yên
1993). Philippine cũng là một nước được trao đổi các cây trồng khác nhau
trong đó có những cây thuộc Emusa (Krich 1978) [37], mà sau này được
xác định là nhóm chuối có kiểu gen AAB và ABB (Simonds. 1996)[59].
Về sau người châu Âu đã quay trở lại thăm dò nhiều dạng chuối ở khu
vực này để xác minh lại, trong đó có cả những nơi xa xôi như châu Đại
Dương (Longdon 1993) [47].
Việc sử dụng và trồng chuối ở Ấn Độ cũng đã xuất hiện từ hàng nghìn
năm trước đây, chúng đã được viết trong kinh thánh và được khắc họa trên
tường ở các thánh đường (Rcynolds 1927) [49], (Kervegant, 1935) [51,35]. Ở
về phía tây của trái đất diện tích trồng chuối và chuối ăn luộc cũng ngày càng
được mở rộng trong thời gian gần đây (Kervegant 1935) [44] đã đưa ra giả
thiết về sự có mặt của chuối ở Trung Đông và châu Phi là do người Ả rập cổ
xưa mang đến.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Sự mô tả về chuối một cách rõ ràng và sớm nhất do người Hy Lạp cổ
xưa thực hiện từ 325 năm trước Công nguyên. Trong cuộc hành trình của
Alexrander đến Ấn Độ (Rcynolds 1927, Kervegand 1935). Sau đó khoảng
100 năm sau Công nguyên người Ả rập đã thống trị mảnh đất từ Ấn Độ đến
Tây Ban Nha (Kinder và Higeman, 1974) [45] và chuối lại được quan tâm
phát triển. Nhất là chuối ăn quả tươi và chuối ăn luộc đã được đưa đến Bắc
Phi và phát triển rộng ở đây, mặc dù mảnh đất này rất khô cằn (Rcynolds,
1927) đã dựa vào những hóa thạch và các bức vẽ trên các hang động cho rằng
chuối cũng được trồng và phát triển được 15 thế kỷ ở châu Phi, trong đó Đông
Phi chủ yếu trồng 2 loài chuối có kiểu gen AA và AAA vùng gần xích đạo

Hawai 19 loài, Thái Lan 18 loài, Ấn Độ 57 loài. (N.W Simmonds 1959) [78].
4. Những nghiên cứu vể cây chuối
4.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
4.1.1. Công tác đánh giá và thu thập tập đoàn quỹ gen chuối
INIBAP (International Network for the Improvement of Banana and
Plantain) được thành lập năm 1984 tại Montpellier France. Đây là một tổ chức
Quốc tế nghiên cứu về cây chuối lớn nhất nằm trong hệ thống của GGIAR.
INIBAP có quan hệ rộng rãi với tất cả các tổ chức Quốc tế nghiên cứu về
nông nghiệp khác và đặc biệt rất quan tâm đến các chương trình Quốc gia.
Mục tiêu của INIBAP là hợp tác nghiên cứu, cung cấp thông tin và huy động
tài trợ ủng hộ các hoạt động nghiên cứu và phát triển về chuối. Nhận thức đầy
đủ vai trò của Đông Nam Á trong các vấn đề cây chuối, INIBAP đã đang và
sẽ tập trung nghiên cứu, tài trợ cho các hoạt động thu thập, đánh giá sử dụng
và bảo quản nguồn gen cây chuối trong vùng.
Bảng 1.2: Một số nƣớc có tập đoàn quỹ gen chuối lớn nhất
thế giới giai đoạn (1951 - 1977)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Địa điểm
Tổng số mẫu
Thời gian thu
thập
Chuối trồng
Chuối dại
Hondras
470

cũng đang tiếp tục đẩy mạnh việc thu thập, nghiên cứu, đánh giá và bảo quản
tập đoàn chuối ở khu vực này.
Ở Thai Lan tổng số mẫu là 49 mẫu trong đó 17 mẫu giống thuộc nhóm
AA/AAA, 1 mẫu thuộc nhóm BB/BBB và 21 mẫu giống là còn lai của
M.accuminata và M. balbisiana, 10 mẫu giống là các loài hoang dại và loài có
quan hệ họ hàng gần gũi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Ở Malaysia tổng số có 62 mẫu giống trong đó có 30 mẫu giống thuộc
nhóm AA/AAA, 4 mẫu giống thuộc nhóm BB/BBB, 20 mẫu là con lai của
M.acuminata và M.balbisiana, các loài dại và có quan hệ họ hàng gần gũi.
Tập đoàn chuối của Indonesia có 37 mẫu giống trong đó có 18 mẫu
giống thuộc nhóm AA/AAA, 2 mẫu giống thuộc nhóm BB/BBB, 15 là con lai
của M.acuminata và M.balbisiana, các loài dại và có quan hệ họ hàng gần gũi
chỉ có 2 mẫu giống. Trong việc nghiên cứu thực vật nói chung và cây chuối
nói riêng thỉ công tác thu tập mặc dù là bước rất quan trọng và không thể
thiếu được nhưng nó chỉ là bước khởi đầu. Vấn đề ở chỗ phân tích, đánh giá,
mô tả sự đa dạng ấy để sử dụng chúng vào mục đích khác nhau phục vụ cuộc
sống con người. Chính vì vậy INIBAP đã đưa ra một cái mẫu dùng để mô tả
đặc điểm hình thái, đánh giá khả năng thích nghi, khả năng kinh tế chung cho
tất cả các vườn tập đoàn trên thế giới, thuận tiện cho công tác chọn tạo giống
và trao đổi hợp tác.
4.1.2. Vấn đề về phân loại
Các nhà thám hiểm châu Âu là những người nghiên cứu đầu tiên về
cây chuối, mặc dù nguồn gốc phát sinh của cây chuối không phải từ những
nước này Chline (1707 - 1778) người Anh, nhà phân loại học đã có công sắp

thường của địa phương cùng với sự mô tả tỉ mỉ [25].
Do thấy được vai trò của cây chuối đối với nhu cầu ngày càng tăng của
nhân loại. Các nhà khoa học ngày càng quan tâm chú ý nghiên cứu toàn diện
về nó như phân loại, di truyền, sinh hóa, sinh lý, cũng như ảnh hưởng của
quan hệ sinh thái môi trường (chế độ dinh dưỡng, nước, nhiệt độ, ẩm độ và
sâu bệnh) đến năng suất và phẩm chất của chuối [29]. Chuối là cây trồng sinh
sản chủ yếu bằng con đường vô tinh nên rất phức tạp về chủng loại. Tuy
nhiên nhờ quan sát nhiều lần những tiêu bản sống (trong vườn tiêu bản ICTA
- Trimida) mà E.E Cheerman và cộng sự của ông đã xác định được sự tương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
tác mạnh của hai loài Musa acuminata colla (ký hiệu là A) và Musa
balbisiana colla (ký hiệu là B).
Ngay từ năm 1922 người ta đã cho lai phân tích, lấy phấn của
M.acuminata colla thụ cho hoa cái của giống Grosmichel là cây có quả không
hạt sẽ thu được giống chuối rất ít hạt. Những hạt tốt có thể mọc thành loài
M.Acuminata [2]. Trên cơ sở lập luận nguồn gốc các loại chuối trồng 2 ông đã
đưa ra một hệ thống phân loại mới, hệ thống phân loại này dựa vào tỷ lệ đóng
góp của 2 loài M.A cuminata Colla và M. Balbisiana Colla trong mỗi dòng,
cụ thể là: AA, AAA, AB, AAB, ABB, ABBB, BB, BBB.
Để xác định mức độ pha trộn Simmonds và Shepherd (1985) đã đưa ra
15 chỉ tiêu cơ bản có sự khác biệt rõ ràng giữa M.acuminata Colla và
M.balbisiana Colla.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Noãn
2 hàng thẳng
4 hàng lộn xộn
6
Vai lá bắc
Cao (X/Y < 0,28)
Thấp (X/Y >3)
7
Tập tính lá Bắc
Cuộn ngược
Không cuộn ngược
8
Hình thái lá bắc
Bóp nhọn từ vai
Bình thường đều
9
Đỉnh lá bắc
Nhọn

10
Mầu lá bắc
Ngoài đỏ, đỏ tối,
trong đỏ thẫm
Ngoài đỏ đặc biệt, trong
đỏ sáng
11
Sự chuyển mầu của
lá bắc
Nhạt dần đến gốc
Không thay đổi

Nhóm AA/AAA tổng số điểm 15 - 23 điểm, nhóm AAB tổng số điểm
24 - 46 điểm, nhóm AB: 47 - 49 điểm, nhóm ABB: 59 - 63 điểm, nhóm
ABBB: 64 - 67 điểm.
Hệ thống phân loại này mang tính thuyết phục mạnh mẽ và dần dần
thay thế cho hệ thống phân loại của Linnaeur trong phân loại chuối.
Cho đến nay mặc dù nhiều phương pháp phân loại bổ xung khác song
phương pháp này vẫn là phương pháp có vai trò quan trọng không thể thiếu
được. Hiện nay ở hầu hết các ngân hàng gen chuối lớn nhất thế giới phương
pháp phân loại này được sử dụng rộng rãi để đánh giá nguồn tài liệu di truyền
cây chuối. Mặc dù vậy cách phân loại của Simmonds và Shepherd vẫn có
nhược điểm và không đề cập đến sự có mặt của dòng thuần M.balbisiana
Colla và không đưa ra giới hạn cho nhóm này (nhóm BB/BBB). Cho đến tận
bây giờ thì ông cũng không công nhận có giống chuối trồng không hạt có
nguồn gốc từ M. balbisiana Colla, bởi vì khi kiểm tra hoa đực của tiêu bản
thực vật giống Saba, ông quan sát thấy lá bắc cuộn lên, (Simmonds
Weatherup 1990 [60]. Một số các nhà nghiên cứu về chuối khác lại cho rằng
sự cuộn lên của lá bắc chỉ là đặc tính nhỏ của giống Saba, giống này đạt tổng
số điểm 72 chỉ thấp hơn 3 điểm so với điểm tuyệt đối (75) điểm cho loài dại
M.balbisiana Colla. Các nhà phân loại ở châu Á thấy rằng nếu theo
Simmonds và Shepherd giới hạn 9 điểm (15 -23) là có thể chấp nhận đối với
các loài trồng trọt xuât phát từ M.balbisiana Colla. Silayoi và Chomehalow
(1987) [42] khi phân loại nguồn gốc cây chuối của Thái Lan đã thấy được sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
chưa hoàn thiện của hệ thống phân loại theo phương pháp cho điểm của
Simmonds và Shepherd. Mặc dù thừa nhận tính ưu việt của phương pháp này.


18
xác định các loài trồng trọt Simmonds có sử dụng những so sánh thực
nghiệm, đưa ra những quan sát và mô tả của ông ngoài đồng ruộng. Ông cho
rằng mà không có sự trợ giúp của những so sánh thực nghiệm thì chỉ là thử
nghiệm bởi vì tương tác giữa kiểu gen và môi trường là rất đáng kể.
Phân loại hình thái mặc dù là thống nhất và không thể thay thế được
nhưng nó cũng cần được bổ sung bằng những yếu tố khác nhằm xác định một
cách chính xác kiểu gen bên trong (Genotip).
Một thí dụ dễ thấy là rất nhiều loại trồng trọt có các chỉ tiêu hình thái
tương tự như nhau nhưng lại khác nhau rất đáng kể về phản ứng của chúng
với 1 hoặc 1 vài loại sâu bệnh nhất định. Ví dụ như loài chuối trồng Ấn Độ
Rajpury và Newdrapara có hình thái giống nhau song phản ứng của chúng với
nòi 2 của nấm gây bệnh héo Panama lại rất khác nhau. Hoặc một số giống
chuối có đặc điểm hình thái rất khác nhau lại được nhóm vào một nhóm
(tạo thành nhóm phụ) bởi vì chúng có các phản ứng tương tự với một loài
sâu bệnh.
Nhiều nhà khoa học trên thế giới cho rằng việc thiếu những công cụ và
phương pháp phân loại tiêu chuẩn là một trong những nguyên nhân cơ bản
làm chậm những tiến bộ về cây chuối. Trong rất nhiều trường hợp những kết
quả nghiên cứu chỉ áp dụng cho những giống nhất định ở những nước nhất
định, mà các nước khác trong cộng đồng không thể sự dụng được nhận biết
sâu sắc và tên địa phương thực chất không có ý nghĩa gì cả J.W.Daniells
(1990)[30] cho rằng các chỉ tiêu hình thái được sử dụng để phân biệt các
giống cây trồng khác nhau (hoa đực, lá…) rất ít có giá trị ứng dụng trong việc
phân biệt các giống trong nhóm Cavendish (AA/AAA), ngay cả những chỉ
tiêu mà IBPGR đưa ra năm 1984 cũng chỉ có giá trị sử dụng để phân biệt các
nhóm khác nhau chứ không dùng để phân biệt các giống trong cùng một
nhóm phụ.


Những thí nghiệm về di truyền được tiến hành sau đó nhằm xác định xem
vạch nào đại diện cho các sản phẩm của gen đã được mã hóa bởi các gen ở
các vị trí khác nhau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Phân tích Isozyme bằng điện di là phương pháp mô tả hình thái dựa
trên hình ảnh của gen. Nó cung cấp thông tin về đặc tính di truyền và ít bị ảnh
hưởng bởi điều kiện ngoại cảnh hơn là việc đánh giá chỉ dựa vào những đặc
tính hình thái và đặc điểm trong nông học (A.D.H.Brown, O.H.Frankcl,
D.R.Marshall, J.T.Williams. 1986) [22].
Gorman và Kiang (1977) [41] cho rằng phương pháp phân tích Isozyme
đã và đang được sử dụng như là phương pháp đánh dấu di truyền (Genetic
Marker) dùng để phân loại các dòng vô tính. Tansley và Ortor (1983),
Weeden và Lamb 1985) [65] lại sử dụng phương pháp này trong nghiên cứu
phân loại và tiến hóa. Brettell (1986) [22] lại cho rằng phương pháp này rất có
ích trong nghiên cứu sự ổn định gen trong nuôi cấy mô.
Phân tích điện di các hệ Isozyme có thể sử dụng để xác định mối quan
hệ chủng loại giữa các dạng và chị em những dấu hiệu này được tính ra tần số
alen của các locut. Isozyme có thể dùng để phân biệt các đơn vị dưới loài và
các loài chị em (Trịnh Đình Đạt và cộng sự 1986)[6].
Trong phương pháp phân tích Isozyme các kỹ thuật chiết dịch nói
chung không thật phức tạp có thể tiến hành được. Như vậy cùng một lúc có
thể làm một số lượng lớn mẫu, cho vài thế hệ Enzyme khác nhau. Thông
thường chỉ cần dùng 1g mô thực vật là đủ để có thể phân tích một vài hệ
thống Isozyme. Các phương tiện để tạo ra trường điện di có thể cũng không
đến nỗi khó khăn, kể cả kỹ thuật sử dụng Lợi ích chủ yếu của kỹ thật này so

dòng thuần AA/AAA với dòng thuần BB/BBB và các con lai AAB, ABB.
4.1.3. Những nghiên cứu về chọn tạo giống chuối
Đối với mọi cây trồng nói chung và cây chuối nói riêng giống là khâu
quan trọng nhất cho hiệu quả kinh tế cao việc tạo ra giống mới có thể bằng
nhiều cách như đột biến, chọn lọc trong sản xuất tập đoàn. Đi đầu trong vấn
đề chọn giống chuối phải kể đến Viện Nghiên cứu chuối Đài Loan. Ở đây
phần lớn các giống chuối được chọn lọc để sản xuất chuối thương mại thuộc
về nhóm Cavendish.
Theo thống kê của Mạng lưới quốc tế cải thiện nguồn gen cây chuối
(INIBAP), ở mỗi khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ Latin và Caribe,
châu Phi và các khu vực khác đều đã thu thập và lưu giữ trên 2000 mẫu giống
chuối. Các vườn tập đoàn giống chuối lớn nhất là Papua New Guine gồm trên

Trích đoạn Đánh giá sự sinh trƣởng và phát triển của các giống chuối thuộc
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status