Cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD ở Việt Nam hiện nay - Pdf 24

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương I: Những vấn đề cơ bản về cơ chế quản lý tài chính đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh.
1.1. Khái quát về doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DN-NQD)
1.1.1. Khái niệm và phân loại DN-NQD
1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế
1.1.3. Đặc điểm và xu hướng phát triển của DNNQD
a) Đặc điểm
b) Xu hướng phát triển của DNNQD trong tương lai
1.2. Cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD
1.2.1 Khái niệm về cơ chế quản lý tài chính
1.2.2. Những nội dung chủ yếu trong cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp
NQD
1.2.2.1. Sự thành lập và đăng kí kinh doanh
1.2.2.2. Quản lý vốn và tài sản
1.2.2.2.1. Quản lý vốn đối với DNNQD
1.2.2.2.2. Quản lý tài sản đối với doanh nghiệp NQD
1.2.2.3. Quản lý doanh thu và chi phí đối với doanh nghiệp NQD
1.2.2.3.1. Quản lý doanh thu đối với doanh nghiệp NQD
1.2.2.3.2. Quản lý chi phí đối với doanh nghiệp NQD
1.2.2.4. Quản lý việc phân phối lợi nhuận đối với doanh nghiệp NQD
1.2.2.5. Quản lý công tác kế toán kiểm toán và báo cáo tài chính doanh nghiệp
NQD
1.2.3. Vai trò của cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD
1.3 Sự cần thiết phải thiết lập cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD
Chương II: Thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD
ở Việt Nam hiện nay
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.1. Khái quát về khu vực kinh tế NQD

DANH MỤC THAM KHẢO
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Từ Đại hội Đảng VI năm 1986, Đảng và Nhà nước ta xác định chúng ta
đang trong thời kì quá độ, tiến lên chủ nghĩa xã hội, trong đó, xây dựng một nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa
chính là nhiệm vụ trọng tâm xuyên xuốt trong giai đoạn lịch sử này. Để có được
bài học đó, chúng ta đã phải trả giá bằng một thời kỳ dài nền kinh tế vận hành
theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp với tất cả những "thói hư tật xấu", vì
vậy để thực hiện được đường hướng của Đảng và Nhà nước, chúng ta phải thực
hiện một quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế sâu sắc và toàn diện. Kèm
theo đó là quá trình đa dạng hóa các thành phần kinh tế, đa dạng hóa các loại
hình sở hữu, tận dụng và phát triển mọi nguồn nội lực để phát triển, thực hiện
tốt mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh". Chính từ đó,
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã ra đời và phát triển, trở thành bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đóng góp to lớn vào công cuộc phát
triển kinh tế, huy động tối đa các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo
thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần
giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực kinh tế không thuộc sở
hữu nhà nước, chúng vận hành theo cơ chế thị trường, mục tiêu quan trọng nhất
là lợi nhuận. Chính vì thế, nhà nước không thể can thiệp trực tiếp, dưới hình
thức hành chính hay mệnh lệnh tới các doanh nghiệp này. Đảng và nhà nước
cần tạo lập cho khu vực kinh tế NQD một môi trường hoạt động phù hợp, vừa
thực hiện đúng định hướng phát triển chung của đất nước, vừa khuyến khích và
tận dụng được những ưu việt vốn có của nó. Trong đó, cơ chế quản lý tài chính
chính là một trong những vấn đề quan trọng nhất. Thiết lập được một cơ chế
quản lý tài chính hiệu quả chính là tiền đề, là điều kiện cơ bản để thực hiện các
mục tiêu và nhiệm vụ khác.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

huy động tối đa các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc
làm cho người lao động, cải thiện mức sống của người dân, đóng góp vào ngân
sách nhà nước, góp phần đảm bảo sự ổn định chính trị xã hội trong nước và
nhiều mặt tích cực khác.
Như vậy rõ ràng phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chính là
một chiến lược quan trọng lâu dài, phù hợp với qui luật vận động của nền kinh
tế và nằm trong tổng thể các chiến lược chung của đất nước trong thời kì đổi
mới. Nhưng vấn đề chính chúng ta cần thảo luận trong phần này chính là khái
niệm về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Doanh nghiệp NQD xét dưới giác độ sở hữu bao gồm tất cả các đơn vị
hay tổ chức kinh tế thuộc sở hữu của một người hay một nhóm người. Quyền sở
hữu này được xác định dựa trên quá trình huy động hình thành nên nguồn vốn
hoạt động cho đơn vị kinh tế đó và được pháp luật thừa nhận. Điều này khác cơ
bản với các doanh nghiệp quốc doanh, hay doanh nghiệp nhà nước (DNNN),
khi mà nguồn vốn hình thành nên các DNNN được ngân sách nhà nước cấp,
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghĩa là từ sự đóng góp của toàn dân(nguồn thu từ thuế). Tuy nhiên, DNNQD
không bao gồm tất cả các doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước. Trong
nền kinh tế mở, các quốc gia có sự thông thương nhất định, các doanh nghiệp
nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh được thành lập, nhưng rõ ràng là không
nên xếp chúng vào doanh nghiệp NQD. Thứ nhất, vì chúng không có tính đồng
nhất về mặt sở hữu, một doanh nghiệp liên doanh có thể là sự liên doanh giữa
hai công dân thuộc hai nước khác nhau, liên doanh giữa hai tổ chức hay liên
doanh giữa hai chính phủ, còn doanh nghiệp nước ngoài thì càng không thể
khẳng định nó thuộc sở hữu nhà nước hay tư nhân. Thứ hai, tính chất hoạt động
và các ảnh hưởng của doanh nghiệp nước ngoài khác so với các doanh nghiệp
trong nước, chúng vận hành theo một bộ luật riêng thường là luật đầu tư nước
ngoài và ảnh hưởng lên một số khía cạnh đặc thù trong nền kinh tế như cán cân
thanh toán, dự trữ ngoại hối, tài trợ xuất nhập khẩu v.v Vì vậy, ở đây chúng ta
không xếp các doanh nghiệp nước ngoài như một bộ phận của khu vực kinh tế

- Là loại doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên hợp danh; ngoài các thành
viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn, thành viên hợp danh phải là cá
nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính của công
ty (trách nhiệm vô hạn). Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm trên lượng
vốn góp của mình vào doanh nghiệp. Công ty hợp danh không được phát hành
chứng khoán.
Doanh nghiệp tư nhân
- Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngoài ra, khu vực kinh tế NQD hay khu vực kinh tế tư nhân còn có thể
được phân chia theo hiến pháp bao gồm các hình thức kinh tế sau:
- Kinh tế cá thể: được hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay
một cá nhân hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và
lao động của chính hộ hay cá nhân đó, không thuê mướn lao động làm thuê.
- Kinh tế tiểu chủ: là hình thức kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý và
điều hành, hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và có sử
dụng lao động thuê mướn ngoài lao động của chủ; quy mô vốn đầu tư và lao
động nhỏ hơn của các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu
hạn hoặc công ty cổ phần.
- Kinh tế tư bản tư nhân: bao gồm các công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần được thành lập theo luật
Doanh nghiệp.
Trên đây là một số cách phân loại khác nhau về các bộ phận cấu thành
nên khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, sở dĩ có những sự phân chia hơi khác
nhau như vậy là vì mỗi cách phân loại dựa trên một tiêu thức, một cách tiếp cận
khác nhau. Tuy nhiên, tựu trung lại, chúng ta có thể hiểu doanh nghiệp NQD là
các doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước, và tất nhiên là không phải các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (như đã trình bày ở trên). Đây là một bộ

căn bản. Vì thế sẽ là không thoả đáng nếu cứ xem các doanh nghiệp tư nhân
hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản và là đối tượng phải cải tạo của
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CNXH. Ngược lại, các hình thức kinh tế tư nhân trong nền kinh tế định hướng
xã hội chủ nghĩa sẽ đóng góp quan trọng lâu dài vào sự nghiệp phát triển nền
kinh tế theo cơ chế thị trường. Vấn đề chính yếu là để phát huy được hết tính
tích cực của khu vực kinh tế tư nhân trong tiến trình phát triển chung của đất
nước, nhà nước phải có những định hướng đúng đắn, nhất quán và những chính
sách, đường lối chỉ đạo phù hợp mà cơ chế quản lý tài chính, vấn đề được
nghiên cứu ở đây chính là một bộ phận không thể thiếu.
1.1.3. Đặc điểm và xu hướng phát triển của DNNQD:
a) Đặc điểm :
- Thứ nhất, vốn trong các doanh nghiệp tư nhân xét về quyền sở hữu đều
là vốn tự có hoặc đi vay của cá nhân hoặc nhóm cá nhân bất kể doanh nghiệp
tư nhân đó hoạt động dưới hình thức nào Công ty TNHH, Công ty hợp danh,
Công ty cổ phần hay doanh nghiệp tư nhân. Tại các nước xã hội chủ nghĩa như
ở nước ta, nhìn chung các doanh nghiệp tư nhân đều có khả năng tài chính hạn
hẹp, chưa phát huy hết thế mạnh, hoạt động mang tính nhỏ lẻ, sự vụ, thiếu
những định hướng chiến lược sản xuất kinh doanh lâu dài ổn định, kinh doanh
chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, thương mại dịch vụ, hàng thủ
công. Sau đó là trình độ khoa học kĩ thuật lạc hậu, đây là một trong những thiệt
thòi của doanh nghiệp tư nhân so với doanh nghiệp nhà nước. Trong khi doanh
nghiệp nhà nước được cung cấp thiết bị công nghệ tiên tiến, do nguồn vốn lớn
từ ngân sách và tài trợ nước ngoài thì các doanh nghiệp tư nhân sử dụng công
nghệ lạc hậu hơn, có một số máy móc đã quá cũ kĩ, hết thời gian sử dụng, thậm
chí có một số là do doanh nghiệp nhà nước thanh lý. Tiếp theo phải nói đến
trình độ quản lý còn nhiều yếu kém, bất cập trong khu vực kinh tế tư nhân. Các
doanh nghiệp tư nhân thường có kiến thức và khả năng kinh doanh rất hạn chế,
những hiểu biết về khoa học kinh tế hay nghiệp vụ kinh doanh rất sơ sài, bên
cạnh đó là nhận thức và kiến thức về pháp luật, thông tin thị trường ngay trong

b) Xu hướng phát triển của DNNQD trong tương lai:
Xét về mặt định lượng, cơ cấu nền kinh tế theo các khu vực kinh tế đang
thay đổi và chắc chắn sẽ còn thay đổi mạnh.
Số liệu của Tổng cục thống kê về các "thành phần kinh tế" (không tính
lĩnh vực nông nghiệp) cho thấy tình hình như sau:

Các khu vực sở hữu
Đơn vị 1992 1994 1995 1996
Số cơ sở Cơ sở 1514615 1558627 2078125 224558
DNNN " 7060 6264 5873 5790
DN tập thể " 3231 2275 1867 1760
DN có vốn đầu
tư nước ngoài
" 515 1054 1399 1648
DNNQD " 5158 15893 18727 21360
Cá thể 1000
cơ sở
1498,6 1533,1 2050,2 2215
Lao động
1000
người
4706,5 5453,4 6368,5 6903,2
DNNN % 38,7 30,3 28,3 26,7
DN tập thể % 3,0 2,5 1,6 1,4
DN có vốn đầu % 1,1 1,8 2,3 3,0
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tư nước ngoài
DNNQD
(cả Cá thể)
% 57,2 65,4 67,8 68,8

triển tốt nhất, thực hiện được các mục tiêu của riêng doanh nghiệp cũng như
mang lại lợi ích chung và thực hiện các mục tiêu chung của xã hội.
Hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp hiểu theo nghĩa rộng bao
gồm các hoạt động kinh tế, các quan hệ kinh tế trong đó có sự vận động hoặc sự
biểu hiện của tiền tệ thông qua các quan hệ tiền tệ. Cốt lõi của các mối quan hệ
đó là những quan hệ về giá cả được biểu hiện dưới các sắc thái khác nhau. Hình
thức biểu hiện của các hoạt động tài chính trong doanh nghiệp là hết sức đa
dạng và linh động, phụ thuộc nhiều yếu tố. Cũng chính vì thế, cơ chế quản lý tài
chính doanh nghiệp nếu hiểu theo nghĩa đầy đủ cũng bao hàm rất nhiều thành
tố. Tât cả những vấn đề như : Pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và phương
pháp quản lý vận hành doanh nghiệp đều nằm trong một khái niệm đó là Cơ chế
quản lý tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta có thể tách cơ chế
quản lý tài chính doanh nghiệp thành hai phần cơ bản, dựa trên hai giác độ tiếp
cận khác nhau đối với việc quản lý tài chính doanh nghiệp đó là giác độ quản lý
nhà nước và giác độ quản lý trong doanh nghiệp.
Trên giác độ quản lý nhà nước, người ta đặc biệt quan tâm đến hai vấn đề
đầu tiên đó là Pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Xây dựng pháp luật về
tài chính và tổ chức thực hiện nó chính là nhà nước đã tạo ra một môi trường
chính thức, bình đẳng và công khai cho các doanh nghiệp hoạt động. Thông qua
đó, nhà nước có thể tác động trực tiếp hay gián tiếp lên các hoạt động tài chính
của tất cả các doanh nghiệp nói chung hay một hoặc một nhóm các doanh
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiệp nói riêng. Với những điều chỉnh thích hợp về pháp luật trong từng thời
kì, từng hoàn cảnh điều kiện nhất định, nhà nước có thể tạo nên những thay đổi
rất căn bản trong cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp hướng đến những mục
tiêu: đảm bảo các doanh nghiệp phát triển đúng hướng, nâng cao hiệu quả và
đóng góp của các doanh nghiệp đối với đất nước, tạo điều kiện phát triển và hạn
chế những tiêu cực trong quá trình tăng trưởng phát triển kinh tế. Và xét cho
cùng, nhà nước là thể chế duy nhất thực hiện chức năng quản lý đất nước bằng
pháp luật, pháp luật chính là công cụ vô cùng hữu hiệu mà chỉ nhà nước mới có

+ Quản lý doanh thu chí phí
+ Quản lý lợi nhuận và phân phối lợi nhuận
+ Chế độ kế toán kiểm toán và báo cáo tài chính
1.2.2.1. Sự thành lập và đăng kí kinh doanh:
Việc thực hiện quản lý sự thành lập và cấp giấy phép kinh doanh cho các
doanh nghiệp là sự thừa nhận về mặt pháp lý đối với mọi hoạt động của doanh
nghiệp đó. Thông qua việc cấp giấy phép kinh doanh, nhà nước có thể quy định
và điều chỉnh những ngành nghề, quy mô, hình thức hoạt động mà doanh
nghiệp có thể hoạt động. Khuyến khích những ngành nghề có lợi cho sự phát
triển chung của đất nước, hay hạn chế những ngành nghề chưa thực sự phù hợp
với điều kiện hiện tại của đất nước. Do đó, những quy định về cấp giấy phép
kinh doanh cho doanh nghiệp cần được quy định thành pháp luật, trong đó có
những điều khoản nhất định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi đã
được pháp luật thừa nhận. Vấn đề đáng lưu ý khi xây dựng một cơ chế cho việc
thành lập doanh nghiệp là tình hình phát triển của khu vực kinh tế đó, nhu cầu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của đất nước, triển vọng phát triển và trình độ quản lý hiện tại của nhà nước đối
với nền kinh tế.
1.2.2.2. Quản lý vốn và tài sản:
Vốn và tài sản là hai mặt chính yếu và quan trọng nhất trong sự tồn tại
của bất cứ một doanh nghiệp nào, đây là hai mặt của một quá trình thống nhất
không thể tách rời. Vốn là nguồn lực cho mọi hoạt động của doanh nghiệp,
doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và hoạt động được khi có vốn. Phía bên kia, tài
sản lại chính là sự biểu hiện hình thái và hiện trạng của vốn được đầu tư vào
quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
1.2.2.2.1. Quản lý vốn đối với DNNQD:
Cơ chế quản lý vốn đối với doanh nghiệp NQD chính là việc xác định và
điều chỉnh các hình thức huy động vốn và cơ cấu vốn trong doanh nghiệp. Xét
một cách tổng thể trong DNNQD có thể có những hình thức vốn sau:
a) Nguồn vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp tư nhân

chi phí, giảm bớt phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều công ty coi trọng chính
sách tái đầu tư từ số lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng
lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng.
Tuy nhiên, nên lưu ý với trường hợp các công ty cổ phần, việc giữ lại lợi
nhuận có liên quan đến một số yếu tố nhạy cảm. Khi công ty giữ lại lợi nhuận
mà không chia cho cổ đông dưới hình thức cổ tức, thì quyền sở hữu vốn cổ
phần của các cổ đông sẽ tăng lên. Giá trị sổ sách của các cổ phiếu sẽ tăng lên
cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích
cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phiếu trong thời kì trước mắt, do cổ đông chỉ nhận được một lượng cổ tức nhỏ
nhất định. Đấy là còn chưa kể đến những rủi ro khi tỷ suất sinh lời của công ty
giảm xuống, không đủ để đáp ứng chi trả một tỷ lệ cổ tức phù hợp. Khi đó, giá
cổ phiếu sẽ bị giảm sút hay giá trị thị trường của công ty sẽ bị ảnh hưởng tiêu
cực.
Khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, chính sách phân phối cổ tức
của Công ty cổ phần phải lưu ý đến một số yếu tố có liên quan như:
- Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ
- Tỷ lệ cổ tức các năm trước
- Uy tín của cổ phiếu, tính ổn định và tâm lý công chúng trên
thị trường cổ phiếu
- Hiệu quả của việc tái đầu tư
+ Phát hành cổ phiếu:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ
sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt
động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Chúng ta có thể nhắc tới một số loại hình
cổ phiếu cơ bản sau:
Cổ phiếu thường:
Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế
trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường

sở hữu của cổ phiếu này có quyền được thành toán lãi trước các cổ đông thông
thường. Nếu có lãi chỉ đủ chi trả cổ tức cho cổ đông ưu tiên thì cổ đông thông
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thường sẽ không được nhận cổ tức của kì đó. Việc giải quyết chính sách cho cổ
đông ưu tiên thường được quy định rõ trong điều lệ công ty.
Một vấn đề quan trọng cần đề cập khi phát hành cổ phiếu ưu tiên là thuế.
Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập Công ty, cổ tức
được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên. Mặc dù vậy,
như đã đề cập, cổ phiếu ưu tiên vẫn có những ưu điểm đối với cả Công ty phát
hành và cả nhà đầu tư.
b) Nguồn vốn tín dụng, nợ và huy động nợ:
Nguồn vốn tín dụng của DNNQD bao gồm các nguồn chủ yếu sau
- Vay Ngân hàng quốc doanh (hạn mức tín dụng, hợp đồng vay mượn...)
- Vay Ngân hàng thương mại cổ phần
- Vay mượn từ công chúng và các doanh nghiệp khác (tín dụng thương
mại, trái phiếu, thương phiếu...)
- Vay các tổ chức tài chính phi ngân hàng( tổ chức tín dụng, HTX tín
dụng, quỹ tín dụng)
- Các nguồn khác (phi chính thức)
Khi nhắc đến các nguồn vốn tín dụng, xét trên phương diện pháp lý của
thị trường tín dụng đối với khu vực kinh tế tư nhân người ta thường phân chia
nó thành thị trường tín dụng chính thức và thị trường tín dụng phi chính thức.
Tín dụng chính thức là hình thức huy động vốn và cho vay thông qua các
tổ chức trung gian tài chính có đăng ký và hoạt động công khai theo luật, hoặc
chịu sự quản lý và giám sát của chính quyền nhà nước các cấp. Hoạt động theo
hình thức này chính là các hệ thống ngân hàng nhà nước, kho bạc, hệ thống quỹ
tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng, các công ty tài chính, công ty cho thuê
tài chính, các tổ chức kinh tế có hoạt động ngân hàng, các tổ chức phi chính phủ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trong nước và ngoài nước, các tổ chức quốc tế, các chương trình và các dự án

5 triệu đồng và thời hạn khấu hao hơn 1 năm. Công tác quản lý tài sản cố định
của doanh nghiệp NQD bao gồm quản lý 3 mặt chủ yếu sau đây :
+ Quản lý tài sản cố định hữu hình(TSCĐHH)
+ Quản lý tài sản cố định vô hình(TSCĐVH)
+ Quản lý khấu hao tài sản cố định(KHTSCĐ)
- Quản lý tài sản cố định hữu hình: TSCĐHH bao gồm các nhóm tài sản
như: Thứ nhất là nhóm tài sản nhà xưởng kho bãi, văn phòng, và các công trình
xây dựng có mục đích tương tự. Đây là nhóm tài sản tạo ra môi trường, không
gian hoặc nơi làm việc. Thời gian thu hồi khấu hao tài sản cố định của nhóm
này khá dài, từ 10 đến 30 năm, thậm chí các công trình lớn lên đến 50 năm. Thứ
hai là nhóm máy móc thiết bị, hệ thống dây chuyền sản xuất. Thứ ba là nhóm
phương tiện vận tải xe cộ, phương tiện cơ giới có chức năng vận chuyển, đối
với nhóm này cần chú ý đến chi phí xăng dầu, nhiên liệu và các vấn đề về bảo
hiểm tai nạn, bảo hiểm trách nhiệm dân sự... Thứ tư là nhóm các thiết bị văn
phòng, đo lường và kiểm định. Đây là nhóm thiết bị thường xuyên được thay
đổi nâng cấp. Gắn liền với nhóm tài sản này là những chi phí liên quan đến
công tác bảo mật thông tin, hỗ trợ nghiệp vụ và những bí quyết riêng của mỗi
công ty.
- Quản lý tài sản cố định vô hình: Đây là nhóm tài sản mang một số thuộc
tính đặc biệt, khó xác định hình thái vật chất, thậm chí trừu tượng, nhưng có
ảnh hưởng quan trọng đối với sản xuất kinh doanh trong một thời gian tương
đối dài. Điển hình là các yếu tố :
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Chi phí thành lập, chi phí khảo sát thiết kế
+ Uy tín lợi thế thương mại
+ Quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ: Chẳng hạn, nhãn
hiệu thương mại, kiểu dáng công nghiệp, bằng phát minh sáng chế, bản quyền,
giải pháp công nghệ hữu ích v.v
+ Đặc quyền khai thác, kinh doanh, quyền đăc nhượng hoặc giấy
phép đặc biệt trong một số lĩnh vực.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status