Ứng dụng mô hình Logit trong xếp hạng tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh – chi nhánh Ngô Quyền - Pdf 24

LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã từng
bước đổi mới và được coi là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của
nền kinh tế, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế toàn cầu.
Với hoạt động chính là huy động vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận, trong đó
hoạt động tín dụng ( là quan hệ vay mượn gồm cho vay và đi vay ) là hoạt động
sinh lời lớn nhất, song đi kèm với nó là rủi ro cao nhất cho các NHTM. Đối với
hệ thống ngân hàng Việt Nam, kể từ khi chuyển sang cơ chế thị trường đã không
ngừng lớn mạnh và đã thu được những thành tựu nhất định, nhưng trong quá
trình đó các Ngân hàng cũng đã vấp phải không ít những rủi ro trong hoạt động
kinh doanh gây tổn thất nặng nề. Nên đánh giá rủi ro tín dụng là khâu đầu tiên, là
điều kiện tiên quyết trước khi cho vay.
Để tín dụng có hiệu quả là hết sức khó khăn nhưng cũng hết sức quan trọng
đối với các ngân hàng thương mại nói chung và đối với ngân hàng TMCP các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPB) – chi nhánh Ngô Quyền nói riêng. Xuất
phát từ yêu cầu này, cùng với những kiến thức đã được tiếp thu trong trường em
đã chọn đề tài:
“Ứng dụng mô hình Logit trong xếp hạng tín dụng tại ngân hàng thương
mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh – chi nhánh Ngô Quyền”
Đề tài của em gồm 3 phần: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội
dung gồm 3 chương:
Chương 1: Lý thuyết về rủi ro trong hoạt động ngân hàng và quản trị
rủi ro tín
Chương 2: Nghiệp vụ xếp hạng khách hàng tại ngân hàng VPB – chi
nhánh Ngô Quyền
Chương 3: Ứng dụng mô hình Logit để xếp hạng khách hàng tại ngân
hàng VPB – chi nhánh Ngô Quyền
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các doanh nghiệp hiên đang có quan hệ tín dụng với
VPB – chi nhánh Ngô Quyền

1.1.1. Khái niệm về rủi ro
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Do đó trong bất kỳ lĩnh
vực nào của đời sống đều có thể xảy ra rủi ro. Các ngân hàng thuơng mại luôn
luôn phải đối mặt với các loại rủi ro đó có thể là rủi ro do khách hàng trả nợ
không đúng hạn, cũng có thể là do ngân hàng không đáp ứng đuợc nhu cầu rút
tiền của người gửi tiền…
Ngân hàng thuơng mại là doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá đặc
biệt – hàng hoá tiền tệ, tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và chủ yếu trong đó là các loại
tiền gửi phải trả khi có yêu cầu. Nguồn tiền của các ngân hàng thuơng mại đang
có thay đổi mạnh mẽ do sự gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, giữa
các ngân hàng với các tổ chức tài chính dưới ảnh hưởng của công nghệ thông tin
và quá trình toàn cầu hoá. Các nguồn tiền của cá nhân và doanh nghiệp dễ dàng
di chuyển hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Điều này tạo thuận lợi cho ngân hàng
trong việc tìm kiếm nguồn tiền song lại làm tăng tính kém ổn định của cả hệ
thống. Ngoài ra tài sản của các ngân hàng chủ yếu là các động sản tài chính như
các khoản cho vay, chứng khoán với tính rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng rất
cao. Công nghệ của Ngân hàng ngày càng phát triển cho phép các Ngân hàng có
thể chuyển nguồn tiền đầu tư của mình tới những vùng xa trụ sở. Điều này vừa
làm giảm bớt rủi ro của Ngân hàng do đa dạng hoá khách hàng nhưng đồng thời
cũng làm tăng tính rủi ro so những biến động lớn trên thị trường Thế giới, khu
vực và do Ngân hàng không kiểm soát tốt được các khoản vay…Điều này không
chỉ xảy ra ở thị trường Việt Nam mà còn diễn ra ở trên Thế giới. Tóm lại tất cả
các loại rủi ro của ngân hàng đều có bản chất chung đó là khả năng xảy ra tổn
thất cho ngân hàng.
1.1.2. Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Dựa vào những tiêu thức khác nhau mà rủi ro của ngân hàng được chia
thành những loại khác nhau. Tuy nhiên trong phạm vi hoạt động của các Ngân
hàng thuơng mại có thể tổng hợp thành một số loại rủi ro cơ bản sau:
1.1.2.1. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng gây ra những tổn thất mà Ngân hàng phải

lãi suất thả nổi.
- Sử dụng các công cụ tài chính mới để hạn chế rủi ro ngoại bang, như sử
dụng các nghiệp vụ kỳ hạn về lãi suất tiền vay, thực hiện hợp động tương lai do
không cân xứng tài sản có; thực hiện các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền lựa
chọn lãi suất.
1.1.2.3. Rủi ro tỷ giá
Rủi ro tỷ giá là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh
chịu khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị
trường, tỷ giá thường xuyên có sự dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái
hối đoái của Ngân hàng hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời.
Mặc dù vậy cũng có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho
Ngân hàng.
Các nhân tố tác động đến rủi ro tỷ giá:
- Lãi suất.
- Các chính sách của chính phủ.
- Sự đầu cơ trên thị trương.
- Tính nhạy cảm của thị trường.
- Lạm phát
- Sự ổn định về chính trị.
Loại tiền kinh doanh: một số đồng tiền có sự biến động về tỷ giá rất lớn
trong khi đó một số đồng tiền lại có sự biến động ít hơn.
Một số giải pháp để hạn chế rủi ro tỷ giá:
Sử dụng một số công cụ - các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ để quản lý
rủi ro. Việc phòng ngừa rủi ro của giao dịch kỳ hạn bằng một giao dịch Swap,
dùng giao dịch quyền chọn để hạn chế rủi ro.
Việc nắm giữ một loại ngoại tệ nào đó quá nhiều là mạo hiểm vì khiến
Ngân hàng phải gánh chịu rủi ro tỷ giá phát sinh. Do đó Ngân hàng nên thực
hiện đa dạng hoá các loại ngoại tệ kinh doanh tránh những phị thuộc quá nhiều
vào Đôla Mỹ, phân tán rủi ro, thích nghi được với nhũng biến động bất thường
về tỷ giá.

Khi bị phá sản do mất khả năng thanh toán, hậu quả không phải chỉ xảy ra
đối với chính Ngân hàng đó mà nó còn thường kéo theo sự rút tiền ồ ạt của
khách hàng tại các Ngân hàng khác. Vì vậy các Ngân hàng phải tính toán nhu
cầu khả năng thanh toán, đó là việc tính toán nhu cầu phải chi và có thể phải chi
của Ngân hàng.
1.1.2.5. Rủi ro trong dịch vụ bảo quản và quản lý chứng từ có giá
Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay thì việc các Ngân hàng
thuơng mại đa dạng hoá hoạt động của mình được coi là những thay đổi tất yếu.
Một trong những hoạt động đó là bảo quản và quản lý chứng từ có giá, một công
việc có thể được xem là có rất nhiều rủi ro. Các loại rủi ro mà Ngân hàng phải
gánh chịu khi kinh doanh chứng khoán rất cao; những rủi ro đó bao gồm:
• Rủi ro thị trường: các giấy tờ có giá do các Ngân hàng thuơng mại nắm
giữ luôn có khả năng thay đổi giá trị do các tác động từ thị trường, hay từ chính
bản thân Ngân hàng thuơng mại, hoặc Chính phủ…Vì thế các Ngân hàng thuơng
mại sẽ bị giảm giá trị tài sản nếu dự đoán không đúng về tình hình thị trường,
gây ra những thiệt hại nhất định đối với Ngân hàng.
• Rủi ro do người phát hành giấy tờ có giá không thể thanh toán được: mọi
giấy tờ có giá mà một Ngân hàng thuơng mại nắm giữ đều tiềm ẩn rủi ro này
( ngoại trừ trái phiếu Chính phủ ). Các Ngân hàng thuơng mại có thể chọn loại
hình giấy tờ có giá để đầu tư cho phù hợp với mục đích chính của mình, nhưng
phải luôn đánh giá đúng mức rủi ro của chứng khoán đó. Việc người phát hàng
không thể thanh toán được luôn gây ra những thiệt hại đáng kể cho các Ngân
hàng; nó gián tiếp gây ra những thịêt hại đối với toàn bộ hệ thống kinh tế quốc
gia. Chính vì vậy mà các quốc gia đều đã đặt ra những quy định chỉ cho phép
Ngân hàng thuơng mại được phép kinh doanh số chứng khoán đã được xếp hạng
ở một mức nào đó.
• Rủi ro nhân sự: Hoạt động kinh doanh giấy tờ có giá của Ngân hàng
thuơng mại rất đa dạng. Nó đòi hỏi sự độc lập của các cá nhân và nhân viên
Ngân hàng. Chính vì vậy mà những rủi ro phát sinh bởi chính các nhân viên của
Ngân hàng là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt trong hoạt động môi giới đầu tư

tổng quát về các loại tín dụng thì người ta phân loại tín dụng theo một số tiêu chí
sau:
● Theo thời hạn:
- Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn dưới 1 năm.
- Tín dụng trung hạn: Có thời hạn từ 1 đến 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: Có thời hạn trên 5 năm.
● Theo đối tượng khách hàng:
- Tín dụng với khách hàng cá nhân.
- Tín dụng với khách hàng doanh nghiệp.
● Theo mức độ tín nhiệm khách hàng:
- Tín dụng có bảo đảm: Là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh
của người thứ ba.
- Tín dụng không có bảo đảm: Là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp
hay bảo lãnh của người thứ ba.
1.2.2. Rủi ro tín dụng
1.2.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng cho
khách hàng.
Bất kì một khoản tín dụng nào được cấp ra thì đều phải tuân thủ theo ba
nguyên tắc cơ bản sau đây:
i) Khoản tín dụng đó phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả
ii) Khoản tín dụng đó phải có tài sản đảm bảo.
iii) Khoản tín dụng đó phải được hoàn trả cả vốn và lãi theo đúng kì hạn đã
cam kết.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, vì một lý
do nào đó (có thể là chủ quan hoặc khách quan) khiến cho nguyên tắc thứ 3 bị vi
phạm, tức là khoản tín dụng đó không được hoàn trả đúng kì hạn đã cam kết. Thì
điều này sẽ khiến cho NH sẽ phải chịu một số tổn thất như: Thiếu vốn khả dụng,
mất khả năng thanh toán… những tổn thất này người ta gọi là rủi ro tín dụng.
Vậy ta có thể đưa ra một khái niệm đầy đủ về rủi ro tín dụng như sau:

toàn bộ): Là rủi ro sẽ xảy ra trong trường hợp khi doanh nghiệp đi vay đã mất
khả năng chi trả. Vì vậy, NH chỉ còn trông chờ vào giá trị thanh lý tài sản của
doanh nghiệp để đỡ đi một phần nợ gốc. Mặc dù vậy, vấn đề này hết sức khó
khăn vì một số nguyên nhân sau:
- Giá trị thanh lý bị giảm rất nhiều so với thời điểm thẩm định ban đầu.
- Bản thân tài sản thanh lý đó rất khó bán vì không ai muốn mua chúng.
- Giá trị của tài sản thường bị chia sẻ với các chủ nợ ưu tiên trước như: nộp
thuế cho nhà nước hay trả lương cho cán bộ nhân viên…
Nói tóm lại thì các món nợ thuộc loại rủi ro này rất phức tạp, khó thu hồi
và là gánh nặng thật sự đối với NH.
● Phân loại nợ:
- Theo phương pháp định lượng: Phân ra làm 5 nhóm
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả
năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong
tương lai như là các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay hay chấp nhận thanh toán.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm có nợ quá hạn dưới 90 ngày và cơ cấu
lại thời hạn trả nợ.
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm có nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180
ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn 90 ngày.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao có gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày
và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ từ 90 ngày đến 180 ngày.
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm có nợ quá hạn trên 360 ngày,
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh trờ chính phủ xử lý.
- Theo phương pháp định tính:
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm có nợ được đánh giá là có khả năng
thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm có nợ được đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả
năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn.

Nợ quá hạn là một khoản tín dụng được cấp ra nhưng không thể thu hồi
được đúng hạn, do những nguyên nhân khác nhau gây ra. Nợ quá hạn sẽ làm
tăng lên các khoản chi phí cho việc đi đòi nợ, làm tăng chi phí cho hoạt động
kinh doanh nên có ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nợ
quá hạn cũng sẽ làm mất cân bằng các cân đối tài sản chính và ảnh hưởng xấu tới
tính chủ động trong kế hoạch nguồn vốn của Ngân hàng. Nếu quy mô nợ quá hạn
càng lớn thì tính rủi ro sẽ càng cao. Tuy vậy, nó còn phụ thuộc vào cả quy mô
cho vay của Ngân hàng.
Tỷ lên nợ quá hạn = ( Nợ quá hạn / Tổng dư nợ ) là một chỉ tiêu mà hầu
hết các Ngân hàng đều sử dụng để đánh giá mức độ rủi ro trong hoạt động tín
dụng. Nếu tỷ lên đó cao thì có thể nói rằng hoạt động tín dụng của Ngân hàng là
không hiệu quả và nguy cơ rủi ro tín dụng rất có khả năng sẽ xảy ra, Ngân hàng
cần phải xem xét lại quy trình cho vay của mình để làm giảm bớt nợ quá hạn.
Ngược lại, nếu như tỷ lệ đó là thấp thì rủi ro tín dụng nếu có xảy ra thì cũng
không có ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
● Nợ khó đòi
Nợ khó đòi là nợ quá hạn không được thanh toán, mặc dù Ngân hàng đã
gia hạn nợ. Chính vì vậy có thể nói đây là chỉ tiêu rõ ràng nhất để phản ánh mức
độ tổn thất trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Hầu hết là các Ngân hàng
thuơng mại đều thực hiện việc lập quỹ dự phòng rủi ro bằng 100% số nợ khó
đòi.
Tỷ lên nợ khó đòi = ( Nợ khó đòi / Tổng dư nợ )
Cho biết Ngân hàng cho vay 100 đơn vị tiền tệ thì tỷ lệ tổn thất là bao
nhiêu đơn vị tiền tệ. Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi = ( Nợ khó đòi / Tổng dư
nợ ) nó phản ánh trực tiếp chất lượng tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng nói chung. Nếu nợ khó đòi cao làm cho Ngân hàng phải trích lập
quỹ dự phòng rủi ro nhiều hơn, chi phí hoạt động kinh doanh của Ngân hàng sẽ
tăng, qua đó đẩy lãi suất cho vay của Ngân hàng tăng lên, làm giảm tính cạnh
tranh của Ngân hàng.
● Lãi treo

hiện ở giá trị sản lượng và doanh thu của doanh nghiệp bị giảm.
- Thu nhập không thường xuyên và ổn định: Cơ cấu doanh thu thay đổi
một cách bất thường, như doanh thu các hoạt động phụ chiếm tỷ trọng lớn hơn…
- Hệ số quay vòng của vốn lưu động thấp, có sự gia tăng bất thường về
hàng tồn kho và sự gia tăng các khoản nợ thương mại, đặc biệt là các khoản nợ
với thời gian dài.
Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý và tổ chức khách
hàng.
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản lý hoặc ban điều
hành
- Có sự mất đoàn kết, tranh giành quyền lực trong nội bộ doanh nghiệp,
có hiện tượng nhân tài rời bỏ doanh nghiệp.
- Hệ thống quản trị hoặc là ban điều hành luôn có sự bất đồng về mục
đích, điều hành độc đoán hoặc quá phân tán.
- Cơ cấu nhân lực của doanh nghiệp không hợp lý, bộ phận quản lý thì
ngày càng phình to, có các hoạt động sát nhập với các doanh nghiệp yếu kém
khác.
- Có những khoản chi phí bất hợp lý.
Bên cạnh đó, còn có một số dấu hiệu khác như: nhóm các dấu hiệu
thuộc về mặt pháp luật, nhóm các dấu hiệu thuộc về mặt kỹ thuật và thương
mại….
1.2.2.4. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
1.2.2.4.1. Nguyên nhân khách quan
● Những nguyên nhân bất khả kháng: Những nguyên nhân bất khả kháng sẽ
tác động tới người vay, làm cho họ mất khả năng thanh toán cho ngân hàng.
● Do tác động của chu kì khách quan của nền kinh tế: Bất kì nền kinh tế nào
cũng có chu kì phát triển theo một ngưỡng nhất định.
● Cơ chế chính sách của nhà nước: Sự thay đổi trong cơ chế và chính sách
của nhà nước có thể tạo thuận lợi hoặc gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá
trình sản xuất kinh doanh.

● Trường hợp bảo đảm bằng tài sản
+ Do sự biến động giá trị tài sản bảo đảm theo chiều hướng bất lợi.
+ Do NH gặp khó khăn trong việc tiếp cận, nắm giữ các tài sản bảo đảm để
xử lý chúng.
● Trường hợp bảo đảm đối nhân ( bảo lãnh ): Do người bảo lãnh không thực
hiện được nghĩa vụ thanh toán cho người vay tín dụng khi người này không có
khả năng chi trả.
1.3. Quản lý rủi ro tín dụng
1.3.1. Sự cần thiết phải quản lý rủi ro tín dụng
1.3.1.1. Đối với các tổ chức tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, việc cung cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ
bản của NH. Đối với hầu hết các NH thì dư nợ tín dụng thường chiếm hơn 1/2
tổng tài sản có và thu nhập từ tín dụng thì chiếm khoảng 1/2 đến 2/3 trong tổng
thu nhập của NH. Tuy nhiên, rủi ro trong kinh doanh NH lại có xu hướng tập
trung chủ yếu và danh mục tín dụng. Trong hoạt động của mình, nhìn chung là
các NH chỉ chấp nhận rủi ro tín dụng mà mức thiệt hại tối đa không cao hơn mức
lợi nhuận mong đợi. Tuy nhiên trong thực tế, mọi trường hợp đều có thể được
tính đến như mô hình dưới đây:
Khả năng thiệt hại của ngân hàng
Lợi nhuận Chi phí Vốn tự có
Vùng rủi ro cho phép Vùng rủi ro nguy
hiểm
Vùng rủi ro thảm khốc
Điểm bắt đầu Điểm bắt đầu Điểm không có điểm mất vốn tự có
giảm lợi nhuận thua lỗ doanh thu và phá sản
1.3.1.2. Đối với nền kinh tế
Rủi ro tín dụng không chỉ gây ra thiệt hại cho NH, vì nguồn vốn của NH chủ
yếu được huy động từ nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Vì thế, rủi ro tín dụng có
thể làm giảm niềm tin của người gửi tiền, ở mức độ rất nghiêm trọng, hiện tượng
rút tiền hàng loạt có thể xảy ra. Nếu không có đủ dự phòng và xử lý kịp thời, NH

“ tư cách người vay” (character). Nếu như phát hiện thấy người vay giả dối trong
kế hoạch sử dụng và trả nợ như đã thỏa thuận, thì cán bộ tín dụng phải từ chối
cho vay, nếu không, rủi ro tín dụng sẽ phát sinh cho ngân hàng.
• Năng lực của người vay: Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người xin
vay phải có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý để ký kết hợp đồng tín dụng
với NH. Ví dụ, ở hầu hết các nước đều quy định đối với người dưới 18 tuổi sẽ
không đủ tư cách pháp lý để ký kết hợp đồng tín dụng. Tương tự, cán bộ tín dụng
cũng phải chắc chắn rằng người đại diện cho công ty ký kết hợp đồng tín dụng
phải là người được ủy quyền hợp pháp của công ty.
• Thu nhập của người vay: Tiêu chí thu nhập của người vay tập chung vào
câu hỏi: Người vay có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ ? Nhìn chung, người vay
có ba khả năng để có thể tạo ra tiền, đó là: (i) luồng tiền từ doanh thu bán hàng
hay từ thu nhập, (ii) bán thanh lý tài sản, (iii) tiền từ phát hành chứng khoán nợ
hay chứng khoán vốn. Bất cứ nguồn thu nào từ ba khả năng này đều có thể sử
dụng để trả nợ vay cho ngân hàng.
• Bảo hiểm tiền vay: Khi đánh giá về khía cạnh bảo đảm tiền vay, cán bộn
tín dụng phải tự đặt ra câu hỏi: liệu người vay có sở hữu một giá trị nào hay tài
sản nào có chất lượng để hộ trợ cho khoản vay? Cán bộ tín dụng phải đặc biệt
chú ý đến những yếu tố nhạy cảm như: điều kiện, tuổi thọ và mức độ chuyên
dụng của tài sản người vay. Công nghệ là một khía cạnh cũng phải đặc biệt chú
ý, bởi vì nếu như tài sản của người vay có công nghệ lạc hậu, thì giá trị giảm đi
rất nhiều và rất khó tìm được người mua trong khi công nghệ lại thay đổi hàng
ngày.
• Các điều kiện: Cán bộ tín dụng và nhà phân tích tín dụng cần phải biết
được xu hướng hiện hành về công việc kinh doanh và ngành nghề của người vay,
cũng như khi điều kiện kinh tế thay đối sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến khoản
tín dụng. Để đánh giá xu hướng ngành và điều kiện kinh tế có ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh của khách hàng, thì hầu hết các ngân hàng đều duy trì các
phai dữ liệu thông tin bao gồm các mẫu báo cáo có liên quan, các bài tạp chí, và
các báo cáo nghiên cứu.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status